Ý Thức Hệ

Ý Thức Hệ

Có những cuộc chiến tranh, không phải bị xâm thực từ bên ngoài, mà là một cuộc chiến từ nội trùng ý thức tồi tệ.

Xã hội thì rữa nát trầm trọng, cửa quyền tràn lan hủ tục. người dân lương thiện tả oán, các nhà chức việc bất lực.

Phật giáo cũng chịu chung số phận nhiêu khê, phân hóa cát cứ riêng tư, không lục hòa bình đẳng, thế tục hóa tự viện, các nhà chức việc Phật giáo bất lực.

Lịch sử đã chứng minh, đất nước suy vong thì Phật giáo cũng chịu ảnh hưởng suy vong và ngược lại. Đứng trước rối rắm của đất nước, Phật giáo luôn luôn tiên phuông, tích cực dấn thân trong các công cuộc chấn hưng Phật giáo – cứu nguy dân tộc. Các bậc cao tăng các nhà thiện sĩ tri thức có tâm huyết, có tấm lòng đại bi, có đời sống vị tha, gát mình qua một bên, là người cất cao tiếng hót gọi đàn, phất cao ngọn cờ hòa bình, hiệu triệu toàn dân, đẫn đầu trong trật tự, đòi lại tự do công bình xã hội.

Thực hiện kế sách an dân, mò mẫm lần theo dấu vết xưa, muốn tìm ở Phật giáo ánh sáng tiền nhân, mong muốn ở đây một cứu cánh cứu nguy đất nước. Nhưng lòng tin đã bị lung lay, vì trao lầm vào tay kẻ cướp.

Đa nghi thiếu niềm tin của Tào Tháo với kế hoạch “Kê cân”. Nhìn đâu cũng thấy vi trùng dưới cặp mắt hiển vi của một bác sĩ. “kinh cung chi điểu”, sự run rẩy sợ hãi dè chừng của con chim đã một lần bị hụt tên. Nhìn thấy cái toàn thiện cũng ngờ vực, làm cho các bậc cao tăng, các nhà thiện sĩ tri thức xa lánh những tanh hôi lở loét.

Sai lầm hôn mê – cuồng tín chủ thuyết, nghe theo những tham mưu sai sự thật, tả đạo thiểu tri của những cơ hội vô năng. Tham vọng bá quyền, khư khư ôm giữ quyền lực, xem thường các tư trào văn hóa quần chúng, áp đặt, biến họ trở thành những công cụ tuân thủ phục vụ cho giai cấp.

Từ sai lầm này dẫn theo những mù mờ khác. Đồng bệnh tương lân, tìm đến với nhau cùng chung cung bậc của một cung đàn ngất ngưỡng, một chiêu cảm của những số phận tanh tưởi cộng nghiệp ác trược, hè hụi tráo trở ồn ào tạo thêm rối rắm. Mưu đồ đen tối, thao túng, dựng nên những hình đồng bệnh hoạn lừa dối, theo đóm ăn tàn, trù dập đẩy đuổi, gà nhà bội mặt đá nhau. Rắp tâm đen tối làm suy giảm uy lực chánh pháp, rối ren nội bộ, đục nước béo cò !…




Hồi Ký Toàn Tập – Phan Văn Huy Tâm


“ I have forgot much, Cynara! gone with the wind,
“ Flung roses, roses riotously with the throng,
‘ Tôi đã quên nhiều rồi, Cynara! cuốn theo chiều gió,
‘ Tung hoa hồng, hoa hồng náo loạn giữa lòng đời,
Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

Tôi rất yêu thích viết văn – làm thơ – viết hồi ký. Tiếc rằng những bài văn – bài thơ trước đây đã bị lưu lạc theo chiến tranh. Sau 1975, trở về lại quê nhà, nghiệp tầm nhã tơ – tôi lại tiếp tục viết. Vì tính chất công việc và sinh kế phải di dời đi nhiều nơi, tôi rất trân quý cất giữ cẩn thận, nhưng không hiểu vì lý do nào đó mà nó lại thất lạc thêm một lần nữa, làm cho tôi tiếc nuối đến vô cùng. Những sáng tác về các thể loại văn – thơ – hồi ký trong thời gian qua, đến giờ phút này lên đến hàng trăm tác phẩm. Có lẽ đây là nghiệp dĩ – nợ văn chương, nếu sức khỏe còn dài – hơi thở chưa mỏn tôi vẫn tiếp tục chấp bút…

Tâm niệm của chúng tôi là sống thật thà, không quanh co – dấu diếm – tránh né. Không ưa bất công – yêu chuộng tự do – có đời sống tĩnh tại. Những bài viết hầu hết đều mang tính tả chân – lột trần như thật, hướng đến làm mới cách nhìn – cách làm việc. Có lẽ ít nhiều cũng làm chạm lòng những ai đó có tâm sự – ganh tị – hơn thua hèn mọn, nếu có chạnh lòng, thì mong rằng xem đây là phản quang tự kỷ, giúp chúng ta mạnh dạn nhìn lại – cùng nhau chuyển hóa – hướng đến hoàn thiện. Và có những bài viết mang tính lịch sử, mạnh dạn ghi lại những biến cố như thật – theo đúng lương tri của người cầm viết – của nhà viết sử, góp phần giúp cho thế hệ mại sau nhận chân được những bước đi đúng – sai của cha ông. Nếu có làm cho ai đó thiên tả phật lòng – chê trách – không vừa ý, thôi thì xin hãy chờ đó, cái gì rồi cũng có giá trị nhân – quả, thời gian rồi lịch sử sẽ trả lời !

Tại những kỳ đại hội GĐPTVN trên thế giới, quý anh chị áo lam từ các châu lục – quốc gia hội tụ về đông đảo, chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Đêm về cùng ngồi quay quần bên nhau – sách tấn nhau. Anh Tâm Đăng – Nguyễn Pháp (Trưởng BHD GĐPTVN tại hải ngoại lúc bấy giờ) và quý anh chị tình cảm tâm sự: Huy Tâm là nhà văn mà cũng là nhà thơ. Chúng tôi rất thích những bài viết của HT, rất hay – có ý nghĩa – có giá trị. Mỗi lần đọc thấy những bài văn hay bài thơ nào của HT là chúng tôi đều lưu giữ lại.

Và chúng tôi cũng được Chư Tôn Đức Tăng – Ni, nguyên là Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT cho biết, quý Ngài cũng đã đọc và lưu lại làm tư liệu những tác phẩm của Huy Tâm.

Xin phép ghi lại nguyên văn lời Thầy Giải Ngộ nhắn nhủ:
“Thưa anh Phan Văn Huy Tâm ! Thầy đã kịp thời đọc được những bài viết của anh, hiểu được tâm sự của anh trước tình hình tổ chức và đạo pháp. Thầy chưa kịp có í kiến mà bài viết đã vội gỡ xuống. Thầy biết anh đang bị áp lực đâu đó, đáng tiếc thật !

“Nhớ một thời chư tôn đức trưởng lão đã dạy: “Thành phần tri thức trong Phật Giáo thì không nhiều, chỉ bàn bạc ít ỏi trong các vì sao, nhưng nó sáng chói long lanh như ánh sao mai rực rỡ, nhưng chỉ xuất hiện trong thoáng chốc rồi mất hẵn” tại sao ???

“Ước gì phải có những nhà lãnh đạo tài tình, không sợ hiểm nguy ít ra như vậy, may ra tổ chức, đạo pháp sớm vén màn tăm tối, đổi mới, khơi sắc …”

Nghe biết được những lời tâm sự chân tình này, làm cho chúng tôi bồi hồi xúc động, đây là niềm khích lệ lớn lao, giúp cho ngòi bút chúng tôi thêm mạnh dạn – cố gắng tiếp tục chảy mực, hy vọng có thêm nhiều nét văn hoa, dệt nên nhiều tấm lụa vàng óng ả để lại cho đời – để không phụ lòng Chư Tôn Đức Tăng – Ni và quý anh chị thương kính – bạn bè bốn phương mến yêu. Xin chân thành cám ơn sự ưu ái quan tâm của chư vị rất nhiều !

Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

“Một trong những bi kịch lớn nhất của bản chất con người: Tất cả chúng ta có khuynh hướng hoãn sống. Chúng ta thường mơ về những vườn hoa hồng huyền diệu xa xăm ở cuối chân trời mà không biết thưởng thức những đóa hồng đang nở rộ hôm nay ngay bên ngoài cửa sổ” -Dale Carnegie-

Trân trọng những lẽ sống giản dị, những niềm vui trải qua. Xin mượn bàn phím ghi lại tài khoản – những khoảnh khắc sống đong đầy ý nghĩa !

Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

Dẫu biết rằng “Đạo bổn vốn vô ngôn – Thế gian là huyển mộng”. Không phải viết để xưng tán cá nhân. Nhưng xin mượn ngòi bút diễn đạt lưu lại những dư âm ấn tượng dòng chảy quanh đời.

Nhưng dòng đời vốn thuận thì ít mà nghịch ý thì nhiều, nếu có những thiển ý sơ sót làm phiền lòng.
Kính xin chư thiện hữu tri thức bốn phương niệm tình hỷ xả!

Lam Nhã Thảo Am.
Viết xong nửa khuya, 20 tháng 8 năm 2023.

CẨN BÚT !

DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

Đời là một dòng chảy, có không – còn mất – sinh diệt đến vô cùng. Bàu Thiêu (thuộc quận Hòa Đa – Tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ), đây là địa danh của một mật khu thời kháng chiến chống Pháp, nằm sâu trong rừng thẳm, tựa mình bên dãy Trường Sơn. Vào lúc nửa đêm, không giờ, ngày 25 tháng 5 năm 1950, giữa những tiếng gầm hống của chúa sơn lâm, tôi cất tiếng tu oa báo tin vào đời.

“Thảo nào khi mới chôn nhau

“Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra” – Ôn Như Hầu –

Tiếng khóc báo hiệu bước đi đầu tiên của một sinh linh bé nhỏ vào dòng sống khổ.

“Vừa sinh ra thì đà khóc chóe

“Trần có vui sao chẳng cười khì” – Cao Bá Quát –

Sự ra đời của một sinh linh mơn mởn nhỏ bé làm chan chứa biết bao niềm hạnh phúc vỡ òa ngọt ngào của cha mẹ. Ngoài những giờ quy định sì sụp bên vú mẹ, tôi được các chú bộ đội chuyền tay nhau từ trại này qua trại khác. Tôi bụ bẫm – trắng hồng mơn mởn – xinh xắn – đễ thương được các chú gọi cưng bằng biệt danh “bé cục bột”.

“Nghĩ thân phù thế mà đau

“Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê” – Ôn Như Hầu –

Dòng đời tôi lớn lên ngụp lặn trãi dài trong biển khổ, hết chiến tranh Pháp – Nhật rồi nối tiếp nội chiến ý thức hệ – nồi da xáo thịt đau đớn đến tột cùng. Và cứ mãi miết như thế, kiếp nhân sinh ngụp lăn triền miên trong biển trần ai, thay đổi liên tục từ hiện tượng bên ngoài đến trải nghiệm suy tư Tứ thánh đế tìm ra ý nghĩa phương cách sống bên trong, nó liên kết tác động lên nhau cấu thành một hành trình đi tìm hướng sống vươn lên, tạo nên động lực lý giải bốn chơn lý giải thoát ra khỏi bản chất “khổ” nghiệp quả luân hồi.

“Bể khổ mênh mông sóng ngập trời

“Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi !

“Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió

“Ngoảnh lại cùng trong biển khổ thôi !” – Đoàn Như Khuê –

“Tạc nhật xoa tâm,

“Kim triêu Bồ tát diện.

“Bồ tát dữ Dạ xoa,

“Bất cách nhất điểu tuyển.”

‘Hôm qua lòng Dạ xoa,

‘Sáng nay mặt Bồ tát.

‘Bồ tát và Dạ xoa,

‘Chẳng cách một kẻ tóc.’ – Tục Truyền Đăng, quyển 31 –

Dạ xoa hay Bồ tát, hung ác hay từ bi cũng từ tâm mà hiển hiện. Không vọng tưởng tìm kiếm lang thang, thức tỉnh “hồi đầu bỉ ngạn”, quay trở về với bản tâm thanh tịnh chính mình, là bến bờ nương tựa, không phải hổ thẹn mai sau.

“Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,

“Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.

“Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,

“Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thinh.

“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,

“Nhật viễn gia hương vạn lý trình.”

‘Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,

‘Liền trái không sanh nhận có sanh.

‘Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,

‘Mắt mờ chúng sắc, tai đuổi thinh,

‘Lang thang làm khách phong trần mãi,

‘Ngày cách quê hương muôn dặm trình.’ – Trần Thái Tông –

Đang sống trong vô niệm, vọng tâm khởi niệm vô minh, liền rơi vào hữu niệm, rơi vào sanh tử, mê mãi buông mất bản tâm, lang thang trong sáu trần, xa rời “thể vô sanh” đáng thương cho chính mình.

“Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh,

“Thú hướng chân như tổng thị tà.

“Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,

“Niết bàn sanh tử đẳng không hoa.”

‘Phá trừ phiền não càng thêm bệnh,

‘Tìm đến chân như cũng là tà.

‘Tùy thuận các duyên không quái ngại,

‘Niết bàn sanh tử thảy không hoa.” – Tú tài Trương Chuyết –

Còn thấy có phiền não – có đến chân như, tức là là còn nhị nguyên – là tâm chưa bất nhị “không hai”, là chưa thấy được đạo “chân tâm” “thấy tánh”. “Các ông phải chân thật trong mọi việc, không có gì chân thật trong đời mà không chân thật trong Phật pháp, và không có gì không chân thật trong Phật pháp, lại chân thật trong đời.” – Thiền sư Thiên Quế –

Kư Ức Tuổi Thơ !

“Cha là vầng thái dương bạch ngọc

“Ngọn Thái sơn sừng sửng hướng con đi

“Tình yêu cha cao qúi tựa thân cây

“Tỏa bóng mát cho đời con khôn lớn

Nhớ về Ba, là nhớ về những năm tháng êm đềm dưới mái gia đình ấm cúng. Nhà chúng tôi nằm nép mình dưới tán lá cây sung, vươn cành dài ra dòng sông quanh năm lặng lờ mãi miết về xuôi. Trong đôi mắt tuổi thơ, cây sung thật vĩ đại, làm cho trí tưởng tượng của chúng tôi nhân cách hóa – xem nó như là một con tàu giữa trùng dương dậy sóng, cho chúng tôi nhiều trò chơi kỳ thú bên dòng sông xanh ngát. Có lần chúng tôi, năm – sáu đứa, nối vòng tay với nhau, mà chưa giáp nỗi bụng cây sung.

Bên kia sông là cồn cát trắng phau, chảy dài bên hông làng Mã Lăng. Tôi nghe người lớn tuổi kể lại câu chuyện truyền miệng: Ngôi làng này một thời là thành lũy Chăm Pa (Chiêm Thành), họ thường đưa ngựa ra tắm sông, sau khi tắm xong, ngựa lên bãi cát lăn mình khô ráo, cho nên làng có tên là Mã Lăng. Trước đây, hầu hết là dân tứ xứ, theo ghe Bầu vào cửa biển Phan Rí, ngược dòng sông Lũy, có lẽ thấy ở đây đất đai trù phú, họ dừng chân lại, tập hợp nhau sinh sống hình thành nên làng xã. Khi chiến tranh nổ ra, đường quốc lộ 1 được mở thông thương từ Nam ra Bắc, người Pháp lập đồn, đưa dân tập trung về bên này.

Làng thì di dời sang bên này (thị trấn Lương Sơn – quận Hòa Đa – tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ), lập ấp chiến lược, đào hầm – đặt chông quanh làng. Nhưng trường học thì ở bên kia sông – làng Mã Lăng. Tất cả học sinh hằng ngày phải lội sông sang bên ấy học. Đường đến trường có hai ngã, một ngã đi bên hông nghĩa địa, gần hơn. Còn một ngã thì đi qua xóm nhỏ, nhưng xa hơn. Có những lúc chúng tôi rủ nhau đi qua hướng có nghĩa địa, thì các bạn đi bên hướng vào xóm nhỏ hát to lên:

“Tôi đi bên này có bông có hoa

“Ai đi bến đó có ma chận đường”

Thế là chúng tôi hét vang, ùa nhau chạy về bên này, hướng vào xóm nhỏ Hai bên đường đi, cây bồn bồn chen chúc mọc đầy, tới mùa trổ hoa, chúng tôi hái từng nụ hoa – xâu chỉ kết thành vòng, đặt lên đầu – choàng vào cổ – hoặc đeo vào tay cho nhau, nhất là tặng cho các bạn gái, ai nấy đều cười vui thích thú.

Gia đình Nội tôi thuộc loại khá giả nhất nhì trong làng, làng có câu ca dao diễn tả 4 dòng Họ khá giả nổi bật nhất làng:

“Nhất Trần, nhì Phan, tam Hoàng, tứ Nguyễn”

Họ Trần là Họ bên Dượng, chồng của Cô Hai, Cô là chị của Ba chúng tôi. Làng chúng tôi, thời chiến tranh, tranh tối – tranh sáng, ban ngày là Quốc gia, ban đêm thì Việt cộng. Lúc bấy giờ Dượng được bên kia cử làm Chủ tịch xã. Cô có 3 người con, 2 người thì thoát ly vào chiến khu, tham gia kháng chiến, 1 anh thì bị tử trận, dưới nồng pháo của chiến hạm từ ngoài biển bắn vào. 1 anh, sau giải phóng, tham gia công tác tại huyện. Anh quan hệ với chị Dung, chị là con của một ông, nguyên là trung tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa, sau khi hồi hưu, ông xuống tóc, cải gia vi tự, tu theo đạo Phật. Sau thời gian vận động không được, anh bị khai trừ ra khỏi Đảng, cho thôi việc, về lập gia định với chị. Còn anh thứ 3, đến tuổi quân dịch, nhập ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, tử trận tại cao nguyên.

Họ Phan, là Họ của chúng tôi. Có những lần qua làng, chúng tôi rủ nhau đến thăm lại khu vườn xưa, nơi mà tuổi thơ của tôi bi bo – chập chững – xúm xít – bu quanh bên Nội, ở đây chỉ còn trơ trụi cái nền nhà xây bao quanh bằng đá, nó có diện tích trên 300 mét vuông, có chiều cao trên 1 mét.

Họ Hoàng là Họ của Thím, Thím là vợ của Chú họ chúng tôi. Chú tham gia kháng chiến, tử trận trong trận quân lực Việt Nam Cộng Hòa tiến quân càn quét vào sâu chiến khu.

Họ Nguyễn, là Họ của một gia tộc đứng hàng thứ tư trong làng. Ba của chúng tôi, thuở thành niên đị học ngoài Huế, (lúc bấy giờ, trong làng chỉ có 2 người có đủ điều kiện ra Huế học: 1 là Ba của chúng tôi, còn 1 là anh họ của chúng tôi, con ông Bác họ. Sau này anh thoát ly ra chiến khu, sau 1975 về làm Bí thư huyện ủy của 1 huyện). Sau 4 năm lấy bằng Thành chung (Cao đẳng Tiểu học – Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène), Ba về lại quê nhà. Ba tôi vừa là Hiệu trưởng, vừa là giáo viên đứng lớp, vì thời bấy giờ giáo viên không nhiều (trong thời gian này, Ba của chúng tôi được kết nạp Đảng CS). Tôi cũng là một học trò của Ba, là giáo sư trung học (trước 1975), cán bộ quản lý ngành giáo dục cấp huyện (sau 1975). Tôi còn nhớ có năm tôi học cùng lớp do Ba tôi dạy. Các bạn trong trường đều nể nang – nhường nhịn tôi, bởi vì tôi là con của thầy giáo.

Tôi nhớ như in lời Ba dặn dò với Mẹ trước giờ phút lâm chung:

  • “Phải cho các con ăn học đến nơi đến chốn, nếu cần bán hết bày bò, hết ruộng đất để cho các con thành danh – nên người thì cũng nên bán”.

Cha thường dạy chúng tôi:

  • “Đói cho sạch, rách cho thơm, không bao giờ được làm ô nhục tổ tông”

Đây là món ăn tinh thần quan trọng là tư lương để cho chúng tôi làm hành trang vào đời.

Nhớ lời Ba dạy, chúng tôi luôn luôn nỗ lực học tập – tích cực làm việc – để nên người – để xứng đáng là con của Ba.

Vào những tháng gần Tết, gió từ biển đông thổi về, đây là lúc làng chúng tôi tổ chức thi thả diều. Bãi cát trắng phau là điểm thi, có những cánh diều to tướng đủ mọi hình dáng, nhiều mầu sắc sặc sỡ, bay lượn làm rợp mát cả bầu trời, mang theo nhiều tiếng sáo vi vu cao vút làm xao động cả tầng không. Những con diều nhỏ thì tà tà bay thấp hơn, là diều của chúng tôi. Ba cũng làm cho tôi một con diều xinh xắn để reo hò bay lượn cùng chúng bạn.

Nhớ về Ba là nhớ về một thời chiến tranh ý thức hệ dữ dội ác liệt, nồi da xáo thịt, một thời đất nước chia cắt hai bờ vĩ tuyến. Bị các thế lực ngoại lai thao túng, cùng dòng máu đỏ – da vàng mà cha con, anh em xem nhau như kẻ thù. Cuộc chiến đã làm tổn thất từ 2-4 triệu người chết (tính cả binh sĩ và thường dân), chưa nói đến số lượng tổn thất các nước ngoại quốc tham chiến.

Tham khảo từ nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95n_th%E1%BA%A5t_nh%C3%A2n_m%E1%BA%A1ng_trong_Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam

Sau 1950, Chú tôi: Phan Châu, là một bộ đội Việt minh, được lệnh tập kết ra Bắc. Năm 1964 hồi kết, làm Tiểu Đoàn Trưởng, xua quân vào Nam, hầu như cả ông và đoàn quân đều tử trận phơi thây tại Đồng Xoài.

Ba tôi là một cán bộ cách mạng. trước 1950 phụ trách Đoàn Thanh Niên, sau làm Bí thư Liên Khu. Sau 1950 được cài cắm lại miền Nam hoạt động bí mật, làm kinh tài gây quỹ cho mật khu. Tôi còn nhớ, có những lần vào đêm, mấy chú – mấy bác từ trong rừng về rất đông, ngồi kín cả căn phòng khách, Ba bảo tôi ra đầu ngõ cảnh giới.

Ba tôi còn là một cầu thủ bóng đá, sau một trận giao tranh sôi nổi, ba bị đối phướng đá trái banh hạng nặng, vì rất gần, nên bất ngờ trúng vào ngực, bật ngửa giữa sân cỏ. Sau thời gian dài chữa trị, ba mất sức từ đó. Nhưng ba không quên nỗi đam mê, những lần theo đoàn cổ vũ đấu giao hữu với các đội bạn ở các địa phương khác, ba thường dẫn tôi đi theo. Ba thì mãi mê với những trận đấu bóng đầy hào hứng, còn tôi thì la cà trong những dãy hàng quán, hay những thùng kem bán dạo quanh sân bóng ./-

HÀNH TRÌNH VÀO ĐỜI

Sau khi xong đại học (tốt nghiệp Đại học Văn khoa Đà Lạt năm 1972). Trước khi bắt tay vào nghề – lập nghiệp. Thực hiện mơ ước ấp ủ từ lâu, với chiếc Honda 50cc, chúng tôi gói gém hành trang, không quên mang theo bộ đồng phục GĐPT, độc hành vân du ra miền Trung, nơi nào có thắng tích – thắng cảnh thì dừng chân thăm thú, nơi nào có bạn bè một thời đi học, thì tìm đến thăm viếng hàn huyên tâm sự. Vào những ngày chủ nhật, thì ghé lại chùa, với bộ đồng phục trên mình chúng tôi hòa hợp – hoan hỷ tham gia sinh hoạt GĐPT cùng bè bạn tình lam.

Trên hành trình, vào đêm, hầu hết đều tìm đến Chùa nương náu qua đêm. Nhờ duyên kỳ ngộ – chúng tôi diện kiến đảnh lễ các bậc chân sự, được Chư Tôn thạc đức khai thị, thẩm thấu nguồn triết lý chân đế tuyệt bích, thức ngộ cuộc sống, làm hành trang tư lương vào đời, góp phần hy hiến – nhiệt thành phụng sự tổ chức – đạo pháp – dân tộc.

Có những chuyến vui nhất là đặt chân đến, từ Quảng Trị đổ ra, ngôn ngữ vùng miền mới lạ làm khó nghe – khó hiểu, phải nhờ đến bạn bè địa phương thông ngôn. Ra đến Do Linh, chúng tôi vượt lên dốc núi cao dựng đứng vào làng Cùa bạt ngàn cây mít. Đến tận Khe Sanh vùng phi quân sự, đồn quân dẫy đầy chằng chịt.

Rời miền Trung, chúng tôi vượt lên Tây Nguyên đồi núi chập chùng – những sáng sớm tinh sương mây giăng đầu núi trắng xóa. Trên đường hướng về Gia Nghĩa, bắt gặp một đàn voi (ước chừng trên 20 con) đang qua đường, chúng tôi dừng xe chờ đợi. Ngỡ rằng từ Gia Nghĩa sẽ về được Sài Gòn, nhưng đoạn đường này do Việt cộng chiếm đóng. Bạn bè và quý anh chị Huynh trưởng địa phương khuyên tôi nên quay trở lại.

Chúng tôi ngược về Quy Nhơn, ở đây có nhiều bạn bè, các bạn rủ tôi ở lại. Tôi vào dạy 1 trường trung học, tuổi đời còn rất trẻ (đâu như 23-24 tuổi), học sinh thì 17-18 xắp xỉ gần bằng tuổi nhau, chúng xem mình như bè bạn. Vào những chiều tan học, bọn chúng, trai – gái tập trung lại khu nhà nghỉ của giáo sự, tổ chức hát cho nhau nghe, có nhiều bạn – có giọng hát hay, những bài hát Bolero truyền cảm – làm gợi nhớ quê hương da diết. Thì thoảng nhằm ngày chủ nhật, rủ nhau lên Quang Trung – vào những khu vườn sắn, có những trái sắn dịu ngọt – mát rượi, hay ra biển – hòa mình vào dòng nước trong xanh – ngụp lặn chập chùng theo từng làn sóng, hoặc lên đồi Hàn Mặc Tử – trầm ngâm thả lòng theo từng dòng thơ suy tưởng…

“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

“Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…

“Bao giờ đậu trạng vinh quy đã

“Anh lại đây tôi thối chữ thơ.” Trăng vàng trăng ngọc – Hương thơm – Hàn Mặc Tử –

– 04 –

CÔ BÉ BÊN CỬA SỔ

(Nhớ thuở nào 30/4)

Kể từ khi về đây, hôm nào cũng vậy, vừa bước ra sân, là tôi đã thấy em ngồi bên song cửa sổ nhìn sang. Chúng tôi bỡ ngỡ nhìn nhau. Không biết thời gian trôi qua và đã bao lần như vậy. Tôi lân la đến bên cửa sổ làm quen. Chúng tôi thân nhau từ đó. Có một lần tôi hỏi.

  • Tại sao em không ra ngoài chơi ?

Em cúi đầu ngấn lệ. Tôi nhìn qua song cửa – bàng hoàng. Phía dưới cặp đùi của em, là một khoảng không trống lổng. Em không có đôi chân! Tôi bùi ngùi hỏi. Em cho biết.

Trước đây, em cũng có đôi chân tung tăng như chim sáo. Một lần trên đường đi học về, mãi mê đuổi theo đàn bướm, em lạc bước vào vùng phi quân sự. Một tiếng nổ kinh hồn, từ lòng đất bật tung lên. Đến khi tỉnh lại, cảm giác đầu tiên của em, là nỗi đau đớn tột cùng. Em cảm thấy hụt hẫng – trống vắng, như thiếu thốn một cái gì đó ở phía bên dưới. Thế là em mất đi đôi chân từ đó.

Rồi tôi tốt nghiệp, vào sư phạm. Trong thời gian này, tôi nhận được thư của em đều đặn. Bẵng đi một thời gian, tôi vắng bặt tín hiệu hồi âm. Ngày tôi về, thì được biết gia đình em tan tác. Sau trận pháo kích ào ạt của phía ngoài kia, ngôi nhà của em đã bị thiêu hủy hoàn toàn, bao người thân yêu mất cả, chỉ còn trơ trụi mình em, giữa cõi đời mù mịt. Trên chiếc xe lăn, em lăn lóc khắp các ngã phố, bán từng tấm vé số, đổi lấy miếng ăn qua ngày. Tôi đạp xe, hộc tốc tìm em, đưa em về, xin cha mẹ cho em được nương náu. Khi nhận được quyết định đi dạy ở một trường trung học ngoài tỉnh, tôi từ giã em, em nghẹn ngào tiễn tôi trong đáy mắt đẫm lệ.

Tôi cứ ngỡ rằng, em sẽ được an ủi – ấm êm trong vòng tay chở che của gia đình tôi. Nhưng luật đời khắc nghiệt, không dung thứ người bất hạnh, “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”. Trong đợt tiến công của người chiến thắng, đã xua đuổi biết bao người dân vô tội xa rời tổ ấm, tan tác lìa đàn, mỗi người mỗi hướng. Vật vã trên chiếc xe lăn, em cũng di tản theo đoàn người hỗn loạn. Đoàn người càng hỗn loạn hơn khi có những tiếng nổ kinh hồn, nổ ra từ bên này – bên kia – phía trước – phía sau, do những nồng pháo ác nghiệt, khạt ra từ trong rừng bắn đuổi theo.Em đã chết trong dòng thác hỗn loạn, trong lúc tuổi của em vừa tròn đôi mươi.

Đó là tội ác của chiến tranh. Dù anh có hoênh hoang nhân danh cho một chủ nghĩa rổng toếch, dù có núp bóng dưới một chiêu bài mĩ miều không tưởng, cũng không che dấu được dã tâm cuồng vọng. Dù anh là bên này hay bên kia, anh là kẻ chiến thắng hay người chiến bại, thì anh cũng là một gã đồ tể sắc máu, một kẻ sát nhân vô hồn, thiếu lương tri, không có tấm lòng nhân ái.

Thế mà có tôn giáo, họ lừa bịp tín đồ cuồng tín, xử dụng vũ khí giết người, mở ra các cuộc thánh chiến, giành giật tín đồ, rồi cho rằng vâng theo ý thánh, mở cửa thiên đàng.

Trên thế giới, có nhiều quốc gia ngông cuồng, tham vọng bá chủ, chế tạo ra hàng loạt vũ khí giết người, rồi tự lừa dối, là vì mục đích hòa bình.

Chiến tranh đã tạo ra biết bao thảm cảnh tang thương, vợ xa chồng, mẹ xa con, anh em trơ tráo ngoảnh mặt với nhau, làng mạc điêu tàn, cửa nhà tan tác, tình người phân ly.

Ai bảo rằng, chiến tranh sẽ đem lại hòa bình ? Thế tại sao, sau khi chiến tranh chấm dứt, cái mà người ta gọi là hòa bình – độc lập – tự do – dân chủ rổng toếch, thì từ mỗi cộng đồng… trong mỗi căn nhà tăm tối, còn có những nỗi ai oán thở dài, những tiếng khóc đắng cay, âm thầm rưng rức, không thốt nên lời, giữa đêm trường khuya khoắt !…

– 05 –

Về Lại Cố Hương

Tháng bảy – mùa Thu, mùa có từng đợt mưa phùn – mang theo những ngọn gió heo may – thổi bay những chiếc lá vàng rơi rơi phơi đầy sân cỏ. Tháng bảy – mùa Thu làm cho người ta hoài tưởng – ngậm ngùi nhớ về quê hương – nhớ nhiều về công đức sinh thành – dưỡng dục. Dù cho ai đó tha hương biệt xứ tận cuối chân mây. Hoài niệm – canh cánh hướng về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có dòng sông lặng lờ – êm đềm bên lũy tre già – mãi miết chảy dài theo năm tháng, nơi có mái ấm thân yêu – nơi có người mẹ… Mẹ tôi có tên Trương Thị Tuất, pháp danh Bích Ngọc, sinh năm 1923.

Mỗi lần về quê Ngoại, tôi nghe những người lớn tuổi nói lại, mẹ chúng tôi, thuở thiếu thời là hoa khôi trong làng. Sau khi ba tôi mất, mẹ thân cò tần tảo mua bán sớm hôm, chăm chút nuôi đàn con thơ dại. Mẹ lưng còng – má tóp – tóc trắng giăng mây, cặm cụi bên bếp lửa hồng – cho sợi khói vươn cao vào mỗi buổi lam chiều. Bên bụi chuối sau hè – có chum nước rửa chân – để được sạch bụi đường xa bao nỗi nhọc nhằn vất vã mưu sinh.

“Ngày xưa môi mẹ thắm hồng

“Tóc còn xanh mướt ấm lòng trẻ thơ

“Bây giờ tóc mẹ bạc phơ

“Trán thêm nhăn nhúm con khờ lớn khôn” 

Mẹ tôi đă mất lâu rồi !…

Sau 1975, trên đoàn tàu tốc hành vào Nam, chúng tôi trở về lại quê nhà, gặp lại người bạn học thuở thiếu thời, cô có tên là Lê Thị Luông – pháp danh Nguyên Trầm, chúng tôi đều có cùng năm sinh (1950). Rời tuổi học trò, cô mở một tiệm may – là một thợ may chuyên nghiệp, có nhiều học trò theo học lành nghề. Cô xinh xắn – hiền thục – nền nếp, có mái tóc dài đen tuyền xỏa gần chấm gót chân, làm say đắm biết bao chàng trai làng, nhiều sĩ quan trẻ thời bấy giờ đeo đuổi trồng cây si. Năm 1977 chúng tôi kết duyên cùng nhau, lúc bấy giờ chúng tôi cùng chung 27 tuổi. Theo năm tháng thời gian cô hạ sinh được 3 người con, 2 trai – 1 gái:

  • Người con đầu lòng: Phan Lê Nam Văn Thiên Chương, pháp danh Nguyên Minh, sinh năm 1979, Huynh trưởng cấp Tín GĐPTVN.
  • Người con thứ 2: Phan Lê Nam Văn Thư Vương, pháp danh Nguyên Vũ, sinh năm 1980, Huynh trưởng cấp Tập GĐPTVN.
  • Người con gái thứ ba: Phan Lê Nữ Thụy Nhã Thi, pháp danh Nguyên Thơ, sinh năm 1983, Đoàn sinh GĐPT, nghĩ sinh hoạt GĐPT phụ giúp mẹ buôn bán.

Sau khi kết hôn, vợ chúng tôi mở tiệm mua bán tạp hóa tại nhà. Nhờ bàn tay đảm đang mà các Phật sự – tham gia cùng Thầy Thiện Tâm, thường xuyên bôn ba đi khắp các xã – các huyện thị trong tỉnh vận động Chư Tôn Đức Tăng Ni – Phật tử tái sinh hoạt Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận – Và công tác sinh hoạt GĐPT, đều nhờ cô ân cần quan tâm – sẵn lòng rộng rãi tài trợ – chu toàn cho những chuyến đi xa.

Thầy Tịnh Thông thường ca ngợi: “Anh Nguyên Hoàng (pháp danh của tôi), đang lập hạnh Bồ tát, dấn thân làm công tác giáo dục GĐPT. Còn chị là một Bồ tát hạnh tại gia, nhiệt thành hộ trì Tam bảo – hy sinh hộ trì cho anh, nhờ chị mà anh hoàn thành phật sự”.

Vợ tôi, người đã cho chúng tôi hai chữ đúng nghĩa là gia đình thực sự.

Vợ tôi tận tụy hết lòng thu vén gia đình, cho chồng – cho con một mái ấm gia đình đích thực, chăm sóc cho chồng – con từng miếng ngon miếng ngọt, ngay cả khi kinh tế khó khăn – chung quanh chẳng có gì ngoài khoai với sắn trong thời bao cấp (sau 1975). Vợ tôi là nơi chốn bình an để cho chúng tôi trở về sau những ngày dài mệt nhọc. Vợ tôi luôn luôn lạc quan yêu đời, là sợi dây nối kết luôn luôn vang rộn tiếng cười đầy ắp ấm nồng tình cảm gia đình.

Cũng như tôi, vợ tôi bây giờ cao tuổi lắm rồi, bệnh hoạn gầy gò già yếu mong manh phất phơ trước gió như chiếc lá vàng sắp lìa cành. Chúng tôi đang đi những bước đi cuối cùng của cuộc đời mình, rồi một ngày nào đó, mỗi người trong chúng ta ai ai rồi cũng một lần ra đi vĩnh viễn. Nếu một mai có rời bỏ báo thân này, chúng tôi vẫn tự tại yên lòng với một đời thành toàn đong đầy ý nghĩa đáng sống.

Tính đến năm 2024, chúng tôi đã ở bên nhau suốt 47 năm, có vui có buồn – có sướng có khổ, trong ngần ấy thời gian chúng tôi luôn luôn nương tựa vào nhau – tương kính nhau, chưa bao giờ có những ngôn ngữ hành động nào làm đau lòng cho nhau. Chúng tôi đă cùng nhau trải qua biết bao gian nan bỉ cực – biết bao thăng trầm khốn khó. Nhưng chưa bao giờ chúng tôi làm mất niềm tin với nhau – mất niềm tin vào cuộc sống thiêng liêng êm đềm dưới mái ấm, đánh mất niềm tin truyền thống đạo đức gia đình, mất niềm tin vào các con – các cháu của chúng ta.

Vợ tôi ! cả một đời vất vả tròn vẹn chữ tòng – phu xướng phụ tùy ./-

– 06 –

(Xe chạy bằng than củi thời bao cấp)

Thảm Cảnh Xă Hội

Sau 1975, Nền kinh tế đất nước tụt hậu, đời sống dân sinh lầm than khốn khó cùng cực. Từ một giáo sư, chúng tôi tham gia hợp tác xã, tập tành cày ruộng, cấy lúa, gặt lúa, đập lúa để có điểm đổi thành chén cơm – manh áo (nghe bạn bè nói lại, còn có những giáo sư – tiến sĩ muốn tự do, phải lên rừng đốt than kiếm sống qua ngày, nhà tù cải tạo chật ních – phân biệt đối xử – tra tấn khốc liệt).

Từ một đời sống sung túc – đầy đủ tiện nghi, ra đường mỗi tấc đất có xe đưa xe đón, ăn thì gạo trắng nước trong. Bây gờ thì ép lòng ăn cơm độn khoai – độn sắn – độn bo bo, tắm giặt thì bằng nước ngâm tro củi, muốn sang chảnh thì uống bia được chế biến từ nước tiểu, muốn xin việc – học tập thì phải nhẩn nhục câm nín chịu đựng chế độ xin cho – đối xử tệ bạc khắc nghiệt bằng lý lịch. Mua hàng hóa bằng tem phiếu với những món hàng bất như ý. Di chuyển đi đây đi đó, đi công tác – kiểm tra, phải có giấy ưu tiên, đi trên những chuyến xe đò chạy bằng than củi cọc cạch – ì ạch – mệt mỏi ròng rã suốt cả buổi – cả ngày trời mới đến nơi đến chốn.

Hợp tác xã được hình thành, mọi công cụ sản xuất đều phải tập trung. Mặc dù mẹ chúng tôi phản đối kịch kiệt, họ vẫn tự động vào vườn khiêng máy bơm nước và dắt đi cặp bò cày. Mẹ tôi xuống Ủy ban lớn tiếng chưởi bới thậm tệ:

  • “Bọn bay là bọn cướp ngày, bọn ăn cháo đái bát”.

Rồi Bà te te – ngang nhiên đến dắt lại cặp bò và nhờ người khiên cái máy bơm nước về lại vườn nhà.

Bà chưởi câu ấy, bởi vì trước 1975, gia đình chúng tôi có mở một đại lý mua bán gạo, những chuyến hàng từ Sài Gòn về là 2 chiếc xe Ba lua (Poids lourd – loại xe tải hạng nặng lúc bấy giờ), 1 xe đưa gạo về nhà – và 1 xe thì đầy gạo – trong đó còn có cất giấu thuốc Tây, chạy thẳng vào rừng tiếp tế nuôi cách mạng, mỗi lần trong rừng nhận hàng chỉ ghi lại 1 cái phiếu. Đến khi đoàn quân từ trong rừng về (giải phóng), thì gia đình chúng tôi cũng cung cấp hàng chục tạ gạo để nuôi quân.

Có lần Ông Chủ tịch đến thăm nhà chúng tôi, bởi vì trước đây, trong chiến khu, Ông là học trò của Ba tôi. Thấy mâm cơm chúng tôi có thịt cá – cơm trắng không độn khoai. Ông nói:

  • Ăn tiệc sang nhỉ, tiểu tư sản có khác !

Bởi vì chúng tôi không quen ăn độn, mỗi lần ăn cơm độn khoai là cổ họng chúng tôi nóng bỏng. Hơn nữa gạo trong kho còn lại cũng khá nhiều.

Tôi có một ông anh họ, tôi gọi ông bằng anh, nhưng tuổi của ông gần bằng tuổi Ba tôi. Sau 1975, từ trong rừng về, ông được phân công làm Bí thư ở một huyện xa. Khi Bác tôi mất, ông có về, nhưng không chịu thọ tang, những người trong gia tộc trách cứ, ông trả lời:

  • Trên đầu tôi chỉ có Bác Hồ ! Ai nấy đều nghẹn lời !

Có lần Cô tôi mời ông lên ăn giỗ (Cô tôi cũng là Cô của ông). Vào dịp giỗ Dượng (chồng của Cô. Dượng cũng là chiến sĩ cách mạng tử trận). Ông nói trước mặt gia tộc:

  • Người chết là mất, chết rồi còn ăn uống được gì, mê tín – bày đặt cúng kiến linh đình, chỉ có ruồi bu kiến đậu.

Cô tôi giận quá, hốt hết tất cả cơm canh bánh trái trên bàn thờ, đổ vào xoong – vào thúng – vào giỏ, gọi xe Lam chở xuống huyện, đổ hết trước cửa huyện ủy.

Tôi có một người Bác họ, sau khi miền Nam thống nhất, ông hồi kết về lại quê nhà, nhưng ông không về thẳng nhà vợ con, mà ông vào ủy ban xã, ăn ở tại đây. Nhiều người thân trong địa phương đến thăm, hỏi ông:

  • Sao không về nhà, về với vợ – con ? Ông nói:
  • Bà ấy theo Mỹ theo ngụy, cho nên mới có được nhà to cửa lớn. Bởi vì theo Mỹ – ngụy cho nên con cái mới được vào đại học, làm việc cho Mỹ cho ngụy.

Ông đâu có biết rằng, vợ ông đã cực khổ quanh năm, thân cò lặn lội nuôi con mới có được ngày hôm nay. Sau thời gian được nhiều người khuyên giải, ông sượng sùng về nhà. Vợ ông thủ thỉ nhờ ông bảo lãnh cho đứa con trai lớn đang cải tạo được về nhà. Ông nói:

  • Thằng đó phản cách mạng, theo Mỹ – theo ngụy quân – ngụy quyền chống phá cách mạng, phải để cho nó ở tù mọt gông.

Những đồ đạc – dụng cụ – đồ dùng bày biện trong nhà, ông cho là đồ của Mỹ – của ngụy, nên ông hồng hộc đem bỏ hết ra ngoài vườn, bộ ghế Salon ông mang ra bỏ bên gốc xoài. Vậy mà mấy tháng sau, ông len lén hì hục mang vào lại phòng khách ./-

– 07 –

THẮT RUỘT NHẢ TƠ

Tôi rất yêu thích viết văn – làm thơ – viết hồi ký. Tiếc rằng những bài văn – bài thơ trước đây đã bị lưu lạc theo chiến tranh. Sau 1975, trở về lại quê nhà, nghiệp tầm nhã tơ – tôi lại tiếp tục viết. Vì tính chất công việc và sinh kế phải di dời đi nhiều nơi, tôi rất trân quý cất giữ cẩn thận, những không hiểu vì lý do nào đó mà nó lại thất lạc thêm một lần nữa, làm cho tôi tiếc nuối đến vô cùng. Những tác phẩm văn – thơ – hồi ký viết trong thời gian qua, đến giờ phút này lên đến vài trăm bản. Có lẽ đây là nghiệp dĩ – nợ văn chương, nếu sức khỏe còn dài – hơi thở chưa mỏn tôi vẫn tiếp tục chấp bút…

Tâm niệm của chúng tôi là sống thật thà, không quanh co – dấu diếm – tránh né. Không ưa bất công – yêu chuộng tự do – có đời sống tĩnh tại. Những bài viết hầu hết đều mang tính tả chân – lột trần như thật, hướng đến làm mới cách nhìn – cách làm việc. Có lẽ ít nhiều cũng làm chạm lòng những ai đó có tâm sự – ganh tị – hơn thua hèn mọn, nếu có chạnh lòng, thì mong rằng xem đây là phản quang tự kỷ, giúp chúng ta mạnh dạn nhìn lại – cùng nhau chuyển hóa – hướng đến hoàn thiện. Và có những bài viết mang tính lịch sử, mạnh dạn ghi lại những biến cố như thật – theo đúng lương tri của người cầm viết – của nhà viết sử, góp phần giúp cho thế hệ mại sau nhận chân được những bước đi đúng – sai của cha ông. Nếu có làm cho ai đó thiên tả phật lòng – chê trách – không vừa ý, thôi thì xin hãy chờ đó, cái gì rồi cũng có giá trị nhân – quả, thời gian rồi lịch sử sẽ trả lời !

Tại những kỳ đại hội GĐPTVN trên thế giới, quý anh chị áo lam từ các châu lục – quốc gia hội tụ về đông đảo, chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Đêm về cùng ngồi quay quần bên nhau – sách tấn nhau. Anh Tâm Đăng – Nguyễn Pháp (Trưởng BHD GĐPTVN tại hải ngoại lúc bấy giờ) và quý anh chị tình cảm tâm sự: Huy Tâm là nhà văn mà cũng là nhà thơ. Chúng tôi rất thích những bài viết của HT, rất hay – có ý nghĩa – có giá trị. Mỗi lần đọc thấy những bài văn hay bài thơ nào của HT là chúng tôi đều lưu giữ lại.

Và chúng tôi cũng được Chư Tôn Đức Tăng – Ni, nguyên là Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT cho biết, quý Ngài cũng đã đọc và lưu lại làm tư liệu những tác phẩm của Huy Tâm. Xin phép ghi lại nguyên văn lời Thầy Giải Ngộ nhắn nhủ:

“Thưa anh Phan Văn Huy Tâm ! Thầy đã kịp thời đọc được những bài viết của anh, hiểu được tâm sự của anh trước tình hình tổ chức và đạo pháp. Thầy chưa kịp có í kiến mà bài viết đã vội gỡ xuống. Thầy biết anh đang bị áp lực đâu đó, đáng tiếc thật !

“Nhớ một thời chư tôn đức trưởng lão đã dạy: “Thành phần tri thức trong Phật Giáo thì không nhiều, chỉ bàn bạc ít ỏi trong các vì sao, nhưng nó sáng chói long lanh như ánh sao mai rực rỡ, nhưng chỉ xuất hiện trong thoáng chốc rồi mất hẵn” tại sao ???

“Dưới ngòi bút của anh, sắc bén: “Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà…” Anh dám nghĩ, dám nói và dám viết. Một cây viết hiếm hoi ít thấy xuất hiện trên các diễn đàn trước quốc phá gia vong, đạo (tổ chức) nhược ma cường.

“Ước gì phải có những nhà lãnh đạo tài tình, không sợ hiểm nguy ít ra như vậy, may ra tổ chức, đạo pháp sớm vén màn tăm tối, đổi mới, khơi sắc …”

Nghe biết được những lời tâm sự chân tình này, làm cho chúng tôi bồi hồi xúc động, đây là niềm khích lệ lớn lao, giúp cho ngòi bút chúng tôi thêm mạnh dạn – cố gắng tiếp tục chảy mực, hy vọng có thêm nhiều nét văn hoa, dệt nên nhiều tấm lụa vàng óng ả để lại cho đời – để không phụ lòng Chư Tôn Đức Tăng – Ni và quý anh chị thương kính – bạn bè bốn phương mến yêu. Xin chân thành cám ơn sự ưu ái quan tâm của chư vị rất nhiều !

SỰ NGHIỆP NỬA VỜI

Bác họ của tôi, dù tuổi đời chênh lệch hơn kém nhau gần 10 tuổi, nhưng vì là dòng trên, nên tôi gọi là Bác. Bác từ trong rừng về, Bác làm Trưởng ban Tuyên giáo. Lợi dụng uy tín của tôi, Bác nhờ tôi vận động triệu tập thành phần trí thức tại địa phương, tập trung học tập đường lối cách mạng. Trong suốt buổi học, trong giọng nói huênh hoang có vẽ khinh thường – miệt thị, Bác gọi chúng tôi là thành phần – là giai cấp “Trí thức tiểu tư sản”. Có lẽ cái học biên kiến – nhồi sọ trong rừng, đã làm cho Bác hiểu nhầm và suy nghĩ sai lạc về trí thức tiểu tư sản – người có học thức học vị cao như là giai cấp hạ lưu, dưới đáy xã hội.

Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa), trước 1975, Sài Gòn được xem là “Hòn ngọc Viễn Đông” hay “Paris của Phương Đông” – có học thức cao – có nhà lầu – xe hơi có đời sống vật chật đầy đủ tiện nghi. Nơi đây là một thiên dường hoa lệ mà Singapore và Nam Hàn lúc bấy giờ mong muốn vươn đến. Oái oăm thay, bị người rừng rú – lạc hậu – ngớ ngẩn ngờ ngệch ngu ngơ kém hiểu biết giải phóng người văn minh. Người giải phóng lúc bấy giờ vào Nam, chiếm dụng nhà Cậu của chúng tôi (cậu là cựu đại tá quân đội VNCH đã về hưu), vào Toilet thấy cái Lavabo (bồn cầu) ngỡ là bồn rửa, họ mua cá thả vào để rửa – mò mẩm mở nước – cá chạy tuộc mất, họ cho rằng người văn minh cài đặt máy ăn cướp ngày. Thấy cái quạt trần treo lơ lửng, họ mày mò mở Contact – quạt quay vù vù, họ vụt chạy tán loạn – la hoảng: máy chém ! ăn thì cơm độn khoai mì – khoai lang – bo bo, đi xe chạy bằng than củi…

“Bà Dương Thu Hương, một trong những nhà văn nổi tiếng hàng đầu ở Việt Nam hiện nay, một người đã “lên đường xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước’’ và khi quân đội cộng sản Bắc Việt của bà chiếm được Sài Gòn thì bà đã khóc vì tỉnh mộng, không phải vì ‘’nhà cao cửa rộng của miền Nam’’ mà vì ‘’vào Nam tôi mới hiểu rằng chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người’’ và bà đã ‘’thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí’’. Do đó, Dương Thu Hương đã nhận thức được rằng bà đã bị lừa và cuộc chiến tranh ‘’giải phóng miền Nam’’ của cộng sản Bắc Việt là một ‘’cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất trong lịch sử dân tộc’’.

Trích dẫn từ nguồn: https://ongvove.wordpress.com/2022/04/26/viet-nam-10-ngay-cuoi-cung-tran-dong-phong/

Vài tháng sau, Bác đến gặp chúng tôi, yêu cầu mở lại cửa trường, vận động học sinh tiếp tục đi học lại. Tôi ngán ngẩm:

Tại buổi học tập cải tao (tư tưởng), Bác tuyên truyền đường lối cách mạng. Bác đánh giá chúng tôi là thành phần trí thức tiểu tư sản – xem thường chúng tôi như hàng hạ liệt !

Bác xuống giọng, và mong mỏi chúng tôi hợp tác với chính quyền cách mạng. Thế là chúng tôi vừa là Hiệu trưởng, vừa là giáo viện đứng lớp. Họ gọi chúng tôi là giáo viên, trong khi đó chúng tôi là một giáo sự giảng dạy tại một trường trung học tại miền Trung. Lương giáo viên hàng tháng của chúng tôi là 13 kg gạo, 1 kg đường và 2 lon sữa ông Thọ…

Chúng tôi vừa quản lý vừa giảng dạy trường trung – tiểu học tại địa phương, được một năm rưỡi là chúng tôi bị “mất dạy”. Vì nhu cầu phát triển ngành giáo dục huyện, tôi bị điều về xây dựng ngành giáo dục tại đây. Vừa làm việc phát triển ngành, vừa phải nhờ viết giúp các bài diễn văn cho Bí thư – cho Chủ tịch huyện đọc trong các phiên họp – hội nghị – lễ lượt của chính quyền – của đảng (vì lúc bấy giờ đa số cán bộ là từ trong rừng về – có lẽ ít học, chúng tôi phải cật lực đổ chất sám, mệt mõi kèm cặp cho học bổ túc mỗi tối, một năm được học 3 lớp, và được chỉ đạo là đến kỳ thi phải đạt kết quả cao. Cho nên ngành giáo dục rất được tôn trọng).

Trong giai đoạn phôi thai chưa có điện, chúng tôi phải cặm cụi dưới ngọn đèn dầu leo loét hết ngày này qua tháng khác (có lẽ do thiếu ánh sáng, cho nên ảnh hưởng đến đôi mắt, những năm tháng sau này, mắt của tôi yếu dần – phải mang kính mới thấy được mặt chữ). Trong quá trình viết diễn văn, tôi rút ra những kính nghiệm viết, bài viết nào cũng rập khuông, không đòi hỏi phải suy nghĩ – đầu tư nhiều chất sám, cho nên viết cũng nhanh: Phải viết – phải diễn tả sao cho lời văn kêu thật to – thổi phồng sự việc cho thật lớn – áp đặt người nghe phải tiếp thu – tuân thủ. Do tính chất công việc của huyện – của ngành đổ dồn – bề bộn – nặng nề, nên văn phòng UBND huyện ưu tiên cấp riêng cho tôi một chiếc máy đánh chữ loại nhỏ xinh xắn.

Vì làm việc tại huyện, nên gia đình chúng tôi cũng phải chuyển về huyện. Vợ chúng tôi có duyên buôn bán, nên cô ấy tiếp tục mở một gian hàng tạp hóa mua bán nhỏ tại tư gia, để cải thiện cuộc sống gia đình trong hoàn cảnh bao cấp khó khăn.

Vì chủ trương ganh gét tiểu tư sản, Ông phó Chủ tịch huyện phụ trách kinh tế, chỉ đạo phòng tài chánh kiêm thuế vụ, đánh thuế hàng tạp hóa Bà xã tôi, mỗi tháng tăng thuế một lần. Tôi bực bội đến gặp Ông Trưởng phòng tài chánh, Ông nói:

  • Thằng X (Phó Chủ tịch) tuyên bố, phải đánh thuế cho bọn tiểu tư sản – cho gia đình anh sụp đổ mới thôi !

Vậy mà sau xóa bao cấp, vợ của Ông phó Chủ tịch huyện, đang là một giáo viên. Để giải quyết những khó khăn gia đình, Bà bưng từng mẹt rau hành dạo bán quanh khắp phố thị. Không biết Ông có cảm thấy tủi hổ không.

Trong thời bao cấp, có lần Ông PCT đi công tác về xã, bắt gặp một cụ Bà đang dạo bán, Ông dừng xe tịch thu túm đậu, nói rằng chủ trương nhà nước không cho tư nhân buôn bán (không biết túm đậu này Ông mang về chia chác như thế nào ?).

Nghe phản ảnh nỗi khổ của một cụ già neo đơn, lụm khụm mót từng hạt đậu – hạt lúa rơi rớt kiếm sống qua ngày. Ngay tại cuộc họp Hội đồng nhân dân huyện, tôi phê bình – chỉ trích:

  • Ông PCT thiếu đạo đức – vô lương tâm.

Vừa lúc đến kỳ tái ứng cử, phe cánh của Ông PCT đến vận động tôi, đề nghị tôi nói lại lời kiểm điểm Ông PCT nhẹ nhàng hơn, để Ông được đắc cử lần này. Để lấy lại lá phiếu đắc cử, Ban bầu cử đưa tên Ông vào danh sách tận vùng sâu, nơi mà Ông hoạt đông trước đây, Ông đắc cử được sáu phiếu bầu !

SINH HOẠT GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

Vào dịp Lễ hội Vu Lan, Mẹ dắt em lên chùa từ rất sớm. Em quanh quẩn bên Mẹ. Quý bà – quý cô quây quần xúm xít bên nhau gói bánh. Những chiếc bánh ít – bánh cúng – bánh chưng trắng phau, gói mình trong những chiếc lá chuối xanh, được vớt ra từ những chiếc nồi to bốc hơi nghi nghút, phưng phức thơm tho mùi nếp mới hòa quyện nhân đậu xanh.

Dưới bóng Chân Như – Đức Phật từ bi mỉm cười hỷ xã. Mẹ và em gối quỳ – trang nghiêm, chấp tay sì sụp lễ lạy – dị khẩu đồng âm – trầm lắng hòa quyện theo từng dòng kinh văn cúng dường Đức Từ Phụ.

Em lân la – rụt rè bên gốc Bồ đề nhìn xem quý anh – chị chung cùng một mầu áo khói hương hiền hòa – không phân biệt tuổi tác, tuổi thơ – thiếu niên – trung niên hay người cao tuổi, không phân biệt giai cấp sang hèn, cao học hay ít học, công chức hay thợ thầy – công nhân, giàu có hay khốn khó, ‘Sĩ – Nông – Công – Thương – Dân – Quân – Cán – Chính’ bình đẳng như nhau, cùng chung mầu áo hòa hợp, cùng nhau vỗ tay – hát bài ca “Đây gia đình cùng nhau chung thân ái …” mà lòng thấy nao nao ước muốn.

Tối về, em vòi vĩnh xin Ba cho lên chùa – đến với Gia Đình Phật Tử. Mẹ may cho em chiếc áo lam xinh xắn. Xúng xính trong muồi vãi mới, Ba cầm tay – đưa em lên chùa. Trong đôi mắt dịu hiền – khả ái, chị trưởng dìu dắt em vào Đoàn. Mới tám tuổi bỡ ngỡ – thơ ngây như một tờ giấy trắng nỏn nà. Em được ấm áp trong vòng tay vững chãi từ ái của quý anh – chị trưởng, hướng dẫn – vẽ lên tờ giấy trắng đời em từng nét bút đầu đời – thấm đẫm từng hướng đi thẳng tắp. Em tập tễnh sinh hoạt – tu học từ đó.

Áo lam – quần Short xanh dương – nón Tứ ân trầm hùng tĩnh tại – vững chãi của người Nam Phật tử, chiếc áo dài lam thướt tha – chiếc nón lá xinh xắn dịu hiền thân ái của người Nữ Phật tử. Đàn em – như những cánh chim lam bầu bĩnh trong trắng từ mọi ngã hướng đường đời ùa về, xúm xít quây quần quanh anh – quanh chị, cùng nhau tay trong tay:

“Chúng ta là chim bốn phương bay về đây…

Nguyện đem gieo rắc khắp nơi ánh vàng !”.

Ý nghĩa màu áo lam:

Sau lễ ra mắt chính thức tái sinh hoạt Gia Đình Phật Hóa Phổ ‘ngày 08.12 năm Mậu Tý, tức chủ nhật ngày 06.01.1949’ tại chùa Từ Đàm – Huế. Đến cuối năm 1949, thì tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ ‘GĐPTHP’ đã có mặt, sinh hoạt khắp ba miền Nam – Trung – Bắc, nhưng chưa có đồng phục chính thức.

Năm 1950, Ban Hướng Dẫn ‘BHD’ GĐPHP – Thừa Thiên được hình thành. Chính BHD đầu tiên này đã hội họp nhiều lần và đi đến thống nhất chọn màu lam – màu khói hương trầm, làm màu sắc chính cho màu áo của tổ chức. Trong bản tường trình lên Tổng Hội có viết:

“Đây là màu khói hương trầm, tổng thể của mọi màu sắc, nói lên được tinh thần đồng sự, bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật, không phân biệt giàu nghèo – sang hèn – quý tiện – nam nữ, nói lên được chí nguyện xả thân của người Phật tử.”

‘Muốn có màu lam, lấy mực Tàu mài đặc hoặc tán nhuyễn, hòa với màu xanh dương, đun sôi, nhuộm vải màu trắng, giặt sạch, là ra màu lam’.

Bấy giờ chẳng những công nhận cho GĐPHP sử dụng màu lam là màu áo chính thức, mà Tổng Hội còn quyết định đây là màu áo thường ngày ‘nhật bình’ của Chư Tăng – Ni.

Từ khởi đầu bản tường trình lên Tổng Hội Phật Giáo, màu áo lam đã thấm nhuần ý nghĩa:

  • Màu Lam là màu khói hương trầm, tượng trưng cho sự thanh khiết – hướng thượng cao cả.
  • Màu lam là màu hoại sắc, không loè loẹt, tổng hợp của nhiều màu, nói lên tinh thần bình đẳng tuyệt đối của Đạo Phật.
  • Đồng phục màu lam còn toát lên ý nghĩa “đồng sự” của Đoàn sinh GĐPT. Vào GĐPT, gia nhập tổ chức áo lam, luôn giữ gìn nhân cách, phẩm hạnh để tự truyền Phật Đạo, tự thân quật ngã “Cái tôi” trong tinh thần xây dựng tự ngã hoà đồng.
  • Luôn tâm niệm màu lam: Thiêng liêng – tôn quý, nhưng gần gũi – hòa đồng. Khoác lên đồng phục màu áo lam, ta thấy tâm hồn cởi mở – phóng khoáng – cao thượng – dễ tha thứ.
  • Không mặc đồng phục áo lam trong lúc làm việc mưu sinh. Không mặc áo lam mà ăn mặn, vì đồng phục áo lam là lễ phục của tổ chức GĐPT.
  • Quý kính áo lam, quyết tâm tự tiết chế, không vi phạm sai lầm, quyết làm những việc lợi ích cho quần sanh để xứng đáng với ý nghĩa màu lam: Có hiếu với cha mẹ, thuận thảo với anh chị em – bạn bè… sẵn sàng giúp ích mọi người.

(Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549 )

Ý nghĩa quần Short xanh dương:

Màu xanh dương là một trong bảy màu sắc cầu vồng, là một trong ba màu gốc cơ bản: vàng và đỏ. Màu xanh dương còn được gọi là màu xanh lam hoặc màu xanh nước biển, tiếng Anh là blue. Một trong những đặc điểm thú vị là được khúc xạ bởi mắt người, khi nhìn vào một không gian hoặc vật thể có màu sắc xanh dương thì có cảm giác xa hơn – nhỏ hơn và sâu hơn.

Màu xanh dương là màu của tuổi trẻ, nhiệt huyết – sáng tạo, có nhiều ý nghĩa:

  • Nhẹ nhàng, biểu hiện cho sự tinh tế – tươi mới – mát mẻ, tạo nên sự phấn khởi.
  • Biểu hiện cho lòng tin – giá trị – sự thật – sự an toàn – chính nghĩa, có trách nhiệm – quyết đoán cao.
  • Khởi đầu một buổi sáng tươi mới – mênh mông – rộng lớn, cảm thấy bình yên và thoải mái.
  • Đại diện cho tình yêu và sự bất tử.

Ý nghĩa nón Tứ Ân:

“Tứ ân” là phạm trù đạo đức, thể hiện ân tình giữa con người với con người. Trong Kinh Tâm Địa Quán – Phẩm Báo Ân, Đức Phật Thích ca đã dạy: Phàm là con người phải ghi nhớ Tứ ân. Đó là:

Ân cha mẹ – Ân chúng sanh – Ân quốc gia xã hội và Ân Tam bảo.

Trong Tứ ân, đứng đầu là Ân đức của cha mẹ dành cho con cháu. Mỗi người làm con cần phải trân trọng gìn giữ và tìm cách báo đáp. Phải luôn phấn đấu sống, học tập và làm việc thật tốt, báo đáp bằng sự cung kính – vâng lời – siêng năng tu tập những thiện Pháp, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già.

Tứ ân tồn tại hiển nhiên trong cuộc sống mang tính khách quan, chuyển tải được giá trị chân thiện mỹ theo tinh thần Phật giáo, hàm chứa tinh thần đại hùng – đại lực – đại bi – đại trí. Mang sinh khí hòa bình – tự do – bình đẳng cho nhân loại, với hoài bão to lớn là giải phóng mọi ràng buộc khổ đau cho con người và muôn vật.

Ý nghĩa chiếc áo dài:

“Áo dài” là quốc phục, thể hiện bản sắc dân tộc Việt Nam. Mặc áo dài nhã nhặn – dịu mát, kèm chiếc áo lót màu trắng, tôn vinh vẽ đẹp người con gái, là sự gắn kết không chỉ với những người thân trong gia đình – trong tổ chức mà còn là sự gắn kết với quê hương – dân tộc.

Người phụ nữ Việt Nam khoác lên mình chiếc áo dài, ôm gọn cơ thể, toát lên đường cong hình chữ S, hình dáng uốn lượn tuyệt vời đất nước Việt Nam thân yêu.

Áo dài góp phần làm tôn vinh nếp sống văn hóa của người Việt Nam tin yêu – đoàn kết – hòa nhã – thân ái.

Áo dài nguyên bản từ áo dài ngũ thân lập lĩnh, ra đời năm 1744, sau cải cách trang phục Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Là loại trang phục có cổ cao, thẳng và vuông, tượng trưng cho sự trung trinh – chính trực của người thục nữ. Trải qua năm tháng đã được cách tân – cải tiến – Tây hóa. Với 2 tà áo tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, một thân con nhỏ nằm bên trong, tượng trưng cho người mặc áo. Tà áo càng xuống càng xòe ra, chân – đuôi tà (cuối tà) cong (đường cong hướng lên trên như miệng cười). 5 khuy áo cài bên ngực trái có tác dụng giữ cho chiếc áo ngay thẳng – kín đáo mà còn đại diện cho năm đạo làm người: Nhân – nghĩa – lễ – trí – tín.

Suốt cả dòng đời thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, mãi mãi khắc ghi – nhớ hoài lời ân cần dặn dò của quý anh – chị trưởng:

Có hiếu – kính trọng – vâng lời Ông – Bà – Cha – Mẹ.

Thương yêu quý mến anh – chị – em – người thân trong gia tộc – họ hàng.

Siêng năng – chăm ngoan, chủ động xắp xếp công việc – tự chăm sóc bản thân – học hành cho thật giỏi.

Phụ giúp gia đình – đỡ đần cha mẹ.

Kính trọng – giúp đỡ mọi người chung quanh.

Dành thời gian ưu tiên, luôn luôn thiết tha – tinh tấn duy trì sinh hoạt, đến chùa đúng giờ, dù trời mưa lạnh hay nắng gắt.

Luôn luôn tích cực – nghiêm chỉnh tu học để hoàn thiện bản thân.

Không chối từ gian khó – sẵn sàng nhận lãnh – hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Suốt dòng đời sinh hoạt, chúng em mãi mãi thao thức hướng về mái ấm Gia Đình Phật Tử, mãi mãi nao nao mong chờ, đến mỗi cuối tuần là rảo quanh thôn xóm, gọi nhau í ới, tay trong tay cùng nhau tung tăng lên chùa, gặp lại anh – chị – bạn bè thân thương, kịp giờ Lễ Phật – Lễ Đoàn – tu học Phật pháp.

Sau ba tháng tích cực sinh hoạt, chúng em được tham dự Lễ Quy Y Tam Bảo.

Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo:

Quy y còn được gọi là quy đầu – ngưỡng trượng. Quy y trong Phật giáo có nghĩa là quy y Tam bảo (Phật – Pháp và Tăng). Nghĩa là y thác vào Phật – Pháp – Tăng ba ngôi có thể bảo hộ che chở, cũng gọi là Quy y Tam Bảo.

Chữ Quy có nghĩa là trở về – theo về, Y là nương nhờ hay thuận theo, làm theo lối đã định, tam quy y là quy y Tam bảo. Chữ Quy cũng được viết là 皈 gồm bộ thủ Bạch 白 (“cõi sáng”) và chữ Phản 反, “quay về” là “quay về cõi sáng” – “dốc lòng tin theo”. Trong các bộ Phệ-đà có nguyên nghĩa là “bảo hộ” – “cứu tế” hoặc “chỗ tị nạn” – “chỗ bảo hộ”, là chỗ chúng sinh có thể đến, thân được an toàn – tâm được vô ưu. Quy y Tam bảo của Phật giáo chỉ sự nương vào uy lực của Tam bảo để đạt được an ổn vô hạn của tâm thức, thoát mọi khổ não.

Câu-xá luận quyển thứ 14 (Đại Chính 29.76c) nói:

“Nghĩa của Quy y là cứu tế, vì nương vào đó mà người ta có thể vĩnh viễn thoát khỏi mọi khổ ách”.

Người hâm mộ Phật pháp khi nhập môn tất phải thực hiện nghi thức quy y, thệ nguyện quy y Phật – quy y Pháp – quy y Tăng mới chính thức được xem là đệ tử Phật.

Người đã quy y có thể là một Phật tử – cư sĩ tu tại gia hay là xuất gia theo tăng đoàn.

Nếu hành giả muốn thực hiện quy y, tự đặt mình vào con đường tu học của nhà Phật bằng cách giữ giới. Một nguyện vọng tất yếu luôn được thực hiện một cách mặc định khi hành giả quy y Tam bảo là không được sát hại chúng sinh. Tùy theo các tông phái Phật giáo mà phương pháp thực hiện quy y và nguyện vọng có thể khác nhau. Năm giới sau được xem là những thành phần của nghi thức thực hiện quy y:

  1. Không sát sinh
  2. Không trộm cắp
  3. Không tà dâm
  4. Không nói dối
  5. Không uống rượu
  • Quy y Phật, hành giả tiếp cận bậc thầy, tức là đức Phật
  • Quy y Pháp, hành giả học hỏi và thực hành Phật pháp
  • Quy y Tăng, hành giả kính trọng Tăng già và tu học để đúng với gương của Tăng già.

Hành giả nên cố gắng:

  • Điều chế ba cửa ải thân – khẩu và ý, thay vì để các giác quan khống chế. Không nên nói lời thô lỗ – không nên nghi hoặc và cố gắng không phán đoán.
  • Sống một cách hoà thuận và giữ giới
  • Tôn trọng tất cả chúng sinh
  • Thực hiện các nghi lễ đặc biệt: Tham thiền – Tịnh độ – Tụng giới – Sám hối.

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_y

Em được dự Lễ vào đoàn – được chính thức là Oanh vũ – Đoàn sinh Ngành Đồng, được nhận châm ngôn và ba điều luật:

  1. Em tưởng nhớ Phật.
  2. Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em.
  3. Em thương người và vật.

Điều 1: Em tưởng nhớ Phật để được gần Phật và học theo tính tốt – hạnh lành.

Điều 2: Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em để tỏ lòng hiếu kính – thương yêu – không phụ công ơn cha mẹ. Anh em hòa thuận – một nhà thương yêu nhau – gia đình hạnh phúc.

Điều 3: Em thương người và vật bởi vì mọi loài đều biết đau đớn. Có yêu thương mới được yêu thương.

Trong buổi làm lễ phát nguyện đeo hoa sen trắng, chúng em nghiêm trang bắt ấn Cát tường kính chào.

Em vinh dự được quý anh – chị cài lên ngực áo chiếc huy hiệu xinh xắn – có biểu tượng hoa sen. Ấn tượng khắc ghi lời anh trưởng hướng giảng:

Hoa sen trắng muốt – tinh khiết vươn lên, không vướng bẩn mùi bùn nhơ tanh tưởi.

Dù giữa lòng đời uế trược – nhờ tu học Phật Pháp – đủ đầy chánh kiến – biết gạn đục lắng trong, mạnh dạn rời xa nơi chốn lao xao xô bồ lộn xộn, nơi có những trò chơi đam mê phồn tạp vô bổ – bê tha – sa đọa, nhiều màu sắc lôi cuốn cám dỗ ngoài xã hội, dễ dàng làm hư thân – mất nết – hủy hoại phẩm hạnh, mạnh dạn bước vào cổng chùa – gia nhập sinh hoạt Gia Đình Phật Tử, mà người Phật tử thuần thành được hướng thiện – luôn luôn tinh khiết sạch trong – không hề ô nhiễm.

Ý nghĩa Huy hiệu hoa sen:

Huy hiệu hoa sen là biểu trưng cho tinh thần của tổ chức GĐPT Việt Nam gần 70 năm qua, và được Hòa thượng Thích Tịnh Khiết Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam thay mặt Tổng Hội công nhận vào mùa Vía Phật Thành Đạo ngày 08 tháng chạp năm Mậu Tý (tức ngày 06 tháng 01 năm 1949) tại Ngôi Chùa Từ Đàm lịch sử, do H.Tr Lê Lừng sáng tác với sự chuẩn hóa kỹ thuật vẽ của H.Tr Phan Xuân Sanh.

Các em sẽ được cài trên ngực áo mình chiếc huy hiệu thiêng liêng chính thức trở thành Đoàn sinh của GĐPT. Việt Nam.

Tổ chức chúng ta chọn hoa sen làm biểu tượng tinh thần mà không phải là một loài hoa nào khác, bởi hoa sen có những đặc tính cao quý như sau:

  1. Là loài hoa sống gần bùn mà không bị nhiễm bùn, luôn vươn mình tỏa ngát hương thơm thanh khiết. Đây là biểu trưng cho sự vô nhiễm.
  2. Hoa sen không bị các loài ong – bướm – ruồi đến hút nhụy, ngửi hương và không dùng để trang sức. Chính là thể hiện tính ly dục của hoa sen.
  3. Hoa sen với thân ngay, ruột rỗng, gương đầy hạt biểu trưng cho tinh thần hành trực, ngay thẳng, hỷ xả và bao dung.
  4. Nơi nào ngó sen mọc lên thì bùn nhơ lắng xuống sạch trong thanh khiết, đó chính là đặc tính trừng thanh của Sen.
  5. Hoa sen biểu trưng cho nhân quả đồng thời, bởi khi nở thì gương và hột đã thành. 6. Tất cả từ lá sen, ngó sen, tim sen, hạt sen, cánh sen, củ sen đều dùng được là thể hiện sự rốt ráo trong tu tập.

Từ những đặc tính cao quý này, mà Chư Phật – Chư Bồ tát đều chọn hoa sen làm tòa, đây là loài hoa biểu trưng trọn vẹn tinh thần nhất thừa, thành tựu Phật quả. Người Đoàn sinh GĐPT Việt Nam khi cài hoa sen phải tâm niệm sống như những đức tính thanh cao của hoa sen.

Chiếc huy hiệu của tổ chức chúng ta là hoa sen 08 cánh với bố cục 05 cánh trên và 03 cánh dưới, hoa sen màu trắng, trên nền xanh lá mạ, được bao bọc bởi chiếc vòng tròn trắng bên ngoài mang đầy đủ giá trị tinh thần của tu tập:

Năm cánh trên tượng trưng cho năm hạnh lành của người Phật tử, từ ngoài nhìn vào, cánh chính giữa là biểu trưng cho hạnh tinh tấn, thể hiện sự siêng năng không biếng nhác, sự tích cực không mệt mỏi trong hành trì, trong tu tập, trong phật sự mà tổ chức giao phó, không giãi đãi, không thoái xuất chí hướng khi gặp khó khăn, đây là hạnh nguyện được biểu trưng bởi Đức Phật Thích Ca. Bên trái cánh tinh tấn là cánh sen Thanh tịnh, đây chính là sự trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm, thể hiện sự chân chánh của người Phật tử, đây là hạnh biểu trưng của Đức Phật A Di Đà. Bên phải cánh tinh tấn là cánh sen hỷ xã, đây chính là hạnh đức cao quý của Ngài Di Lặc, hỷ xả chính là bao dung, tha thứ trong niềm hoan hỷ không chấp trước, biết thương yêu, biết xây dựng cho nhau, biết mỉm cười để lỗi lầm của nhau tan biến trong tinh thần cầu sám hối. Cánh sen cạnh bên cánh thanh tịnh là từ bi, với hình ảnh tiêu biểu của Bồ Tát Quán Thế Âm, biết học và thực hành hạnh lắng nghe, đem đến cho người niềm vui, làm cho người vơi đi khổ đau đó chính là hạnh từ bi được thực hiện. Cánh sen cạnh bên cánh hỷ xả là Trí tuệ, tiêu biểu cho Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, trí tuệ là chất liệu để tiến tu, trí tuệ là sự hiểu biết chân chánh, cắt đứt mọi cấu uế phiền não, không chất chứa tà kiến.

Ba cánh dưới tượng trưng cho 03 ngôi báu Phật – Pháp – Tăng, nơi quy ngưỡng bền vững, quý báu nhất trên thế gian này.

Từ đó, chúng ta thấy nền tảng Tam bảo đã xuất sanh 05 hạnh lành, người Phật tử quán niệm và thực hành đúng tinh thần này thì thành tựu công đức, con đường đạt đến cứu cánh không xa.

Màu trắng của hoa sen biểu trưng cho sự thanh khiết, vô cấu nhiễm, thanh tịnh giữa cảnh trần nhiều sự nhiễm ô. Màu xanh lá mạ biểu trưng cho sức sống vươn lên của tuổi trẻ đầy hy vọng vào tương lai, biểu trưng cho tổ chức giáo dục Thanh – Thiếu – Đồng niên GĐPT chúng ta luôn hướng đến con đường hiền thiện.

Vòng tròn trắng bên ngoài chính là thể hiện ý nghĩa Đạo Phật Viên Dung Hoàn Toàn Vô Ngại, tròn đầy tâm nguyện và hạnh đức với con đường hướng đến giải thoát giác ngộ trong hào quang bảo bọc của Tam bảo, quang huy rực rỡ ánh sáng nhiệm mầu, vi diệu.

Với những ý nghĩa cao quý, huy hiệu hoa sen được cài ngay trái tim, khi nào hơi thở còn, nhịp đập con tim còn, thì còn nhiệt huyết cho lý tưởng, sức sống còn chúng ta nguyện giữ tinh thần cao quý cho Hoa sen, nuôi dưỡng hoa sen bằng đất tâm thuần khiết và gìn giữ sức sống, uy danh, sự trường tồn của tổ chức bằng tất cả con tim của mình.

Hãy trân quý huy hiệu hoa sen như quý con ngươi của mình, vì nơi huy hiệu đã chứa đựng tất cả công đức lành với các vị Phật và Bồ tát tiêu biểu, là 03 ngôi báu quý nhất trên thế gian này, là linh hồn của tổ chức, chớ để bừa bãi, chớ quên mất huy hiệu hoa sen trong những lần đến với áo lam. Quên huy hiệu chính là quên bản tâm, phật tánh trong mình. Mất huy hiệu là mất chính mình. Nên các em chớ bao giờ khinh xuất, phải cẩn trọng gìn giữ.

Trích dẫn: Lễ Lượt GĐPTVN (Phụ bản 1 Đính kèm Quyết định số: 13.114/HDTƯ/QĐ/TB ngày 22.11.2013)

Ý nghĩa ấn cát tường:

Gia Đình Phật Tử cũng như các tổ chức khác có cách chào riêng, khi mặc sắc phục, để tỏ lòng thân thiện, biểu lộ sự hoà hợp, nhắc nhau tinh tấn tu học, biết kính trên nhường dưới, và chứng tỏ tinh thần kỷ luật của Gia Đình Phật Tử.

Khi mặc đồng phục, chúng ta chào bằng cách bắt ấn Tam Muội (cũng gọi là ấn Cát Tường – ấn Chánh Định, ngón cái: tâm, ngón trỏ: thân, ngón cái ấn trên ngón trỏ, ý chỉ thân tâm không hai). Khi chào đứng nghiêm, mặt hướng vào người mình chào, tay phải gập lại, cánh tay song song với thân người, lòng bàn tay hướng về phía trước, cùi chỏ gần sát thân người và ngang bằng với tầm lưng (đừng đưa quá ra phía sau hay phía trước), các ngón tay khép vào nhau, ngón tay cái đè lên ngón tay đeo nhẫn, tay trái xuôi theo người.

Ấn Tam Muội có mục đích làm cho lòng mình lắng lại, chú tâm không tán loạn, phóng ra sự an lành (Cát Tường). Chào theo lối bắt ấn Tam Muội, là nhắc nhở chúng ta lắng lòng hướng về việc lành, tin theo đức Phật, tin vào chánh Pháp, chúc tốt lành cho nhau. Chính đức Phật thường dùng ấn này để phóng hào quang cứu độ chúng sanh.

Chào kính là những quy ước xã hội mang tính văn hoá, nhân bản nhằm thăng tiến cuộc sống tinh thần của con người nên thông thường :

  • Người nhỏ chào người lớn trước.
  • Khi đi trong hàng, gặp Thầy hay anh chị trưởng, chỉ người hướng dẫn chào mà thôi.
  • Khi gặp đám tang, tất cả đều chào.
  • Khi đón chào quan khách, hô khẩu hiệu tất cả chào một lần.
  • Khi chào cờ sen trắng, hô khẩu hiệu ( tiếng reo) chào xong, đứng nghiêm hát bài ca chính thức Sen Trắng.
  • Khi gặp quý Tăng Ni, thì chắp tay như búp sen ngang ngực, cúi đầu chào, khi gặp quý Bác ( đạo hữu ) cũng vậy.
  • Khi đi ngang qua nơi tôn nghiêm (chùa, đền thờ…) thì yên lặng để tỏ lòng thành kính.
  • Khi mặc thường phục: Cất nón – cúi đầu, vái chào tùy theo trường hợp.

Là đoàn sinh GĐPT, luôn luôn nêu cao tinh thần kỷ luật, danh dự của đoàn thể :

  • Gặp Tăng – Ni, chắp tay như búp sen để ngang ngực cúi đầu chào.
  • Gặp các anh, chị và bạn đoàn (có đoàn phục), tay bắt ấn Tam Muội (Cát Tường) để tỏ ý vui mừng, nhắc nhở nhau tinh tấn tu học.
  • Những lúc đi ngang qua nơi tôn nghiêm nên im lặng, không cười nói múa may, tỏ lòng tôn kính.
  • Khi vào nơi tôn nghiêm, xuống xe dẫn bộ để tỏ lòng lịch sự – tôn kính.

(Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549)

Mỗi dịp Xuân về. Từ mùa Đông lạnh giá, nàng Xuân duyên dáng bước ra, mang theo hương sắc trinh nguyên xinh tươi rực rỡ. Cây lộc đầu Xuân được Gia Đình Phật Tử trang trí muôn màu muôn sắc làm rực sáng cả góc chùa. Khách thập phương viếng chùa lễ Phật, ai nấy đều hoan hỷ hái cho mình một cánh lộc, mang những dòng kinh văn chúc phúc đầu năm.

Sau thời kinh lễ Phật chào đón năm mới, chúng em nối bước theo chân Huynh trưởng, thanh tĩnh vào phòng phương trượng, cúi đầu đảnh lễ, khánh chúc trên Chư Tôn Đức bổn tự thêm tuổi đạo – tăng long phước thọ. Chúng em hớn hở sung sướng được thầy chúc mừng cho mỗi người một bao lì xì xinh xắn.

Hằng năm đơn vị đều tổ chức ngày Dũng – ngày Hạnh bằng những đêm hội ngộ quanh đèn, nói lên hạnh nguyện – tinh thần – ý chí dấn thân của mỗi Nam – Nữ Phật tử.

Ngày Dũng ngành Nam GĐPT, vào dịp Lễ Phật Xuất Gia – mồng 8/02 (âm lịch). Ngành Nam GĐPT ý thức:

Tùy theo y báo – chánh báo mà nhân sinh thọ nhận báo thân sinh vào quốc độ thọ nghiệp khổ đau. Bằng tuệ giác kỳ vĩ thái tử Tất Đạt Đa đại hùng – đại lực chối từ thế nghiệp – vượt dòng A Nô Ma, năm năm tầm sư học đạo – sáu năm khổ hạnh rừng già – bốn mươi chín ngày đêm ròng rả hành thiền, Ngài giác ngộ thành Phật.

Đoàn viên ngành Nam GĐPT thức dậy – ý thức cộng sinh – lớn dần dòng suy tưởng xuất thế vị tha, trãi lòng rộng lớn vì tha nhân mà dấn thân phụng sự.

Ngày Hạnh ngành Nữ GĐPT, chọn một trong ba ngày lễ Bồ tát Quán Thế Âm trong năm: 19/02 – 19/06 và 19/09 (âm lịch). Đức Quán Thế Âm chứng đắc “Nhĩ căn viên thông”:

Người Nữ GĐPT nghe hiểu Phật pháp, nhận chân thật tướng như thật, ứng dụng Văn – Tư – Tu, Nghe – hiểu – thực tập hoàn thiện bản thân – ứng dụng vào phật sự giáo dục. Người Nữ GĐPT học hạnh Quán Thế Âm “Xoay cái nghe vào bên trong”, lắng nghe tự tánh thanh tịnh, “phản quang tự kỷ” soi rọi chính mình, dừng lại cái nghe thanh trần phồn tạp đạo đoạn sanh khởi vọng tâm.

“Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây hạnh để đời mai sau” ‘Ca dao VN’.

Mùa Phật Đản sinh – Hoa Ưu Đàm rộ nở, bảy đóa sen hồng nâng bước chân thơm – thái tử Tất Đạt Đa ra đời. Dưới sự hướng dẫn của quý anh – chị trưởng, chúng em tập trung thành đoàn. Tùy vào ý tưởng sáng tạo – trước mỗi ghi đông xe đạp – chúng em trang trí hình ảnh Đản sinh – cờ – hoa – bong bóng bay đẹp đẽ. Chúng em – GĐPT dẫn đầu đoàn xe hoa diễu hành qua khắp mọi ngõ phố – cổng chào – tư gia trang hoàng biểu tượng – hình ảnh – cờ hoa rực rỡ đón mừng ngày Phật Đản Sinh.

Ngày Hiếu ngành Đồng (Oanh vũ) GĐPT, được chọn thời gian trước Lễ Vu Lan. Ngày Hiếu được tổ chức nhiều loại hình sinh hoạt thể hiện lòng hiếu thảo dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Chúng em ấn tượng nhất là Lễ Cúng Dường Tứ Ân: Tứ ân là phạm trù đạo đức, giáo dục tinh thần:

“Uống nước nhớ nguồn”

“Ăn quả nhớ kẻ trông cây”.

Kinh Tâm Địa Quán – phẩm Báo ân, đức Phật dạy Tứ Ân:

Ân cha mẹ – Ân chúng sanh – Ân quốc gia xã hội và Ân Tam bảo.

Để thực hiện trang trọng buổi lễ cúng dường này, quý anh – chị trưởng đã thông báo – hướng dẫn từ trước. Chúng em ai nấy đều nức lòng, thể hiện lòng thành, tự để dành – nhín lại một phần tiền – bỏ heo ống những khoản tiền mà Ba Mẹ cho ăn quà vặt hay ăn sáng. Đến gần ngày lễ – chúng em đập bể heo đất, lấy ra những đồng tiền đã để dành được, mua những món quà mà Cha – Mẹ ưa thích.

Đến giờ phút thiêng liêng, được Huynh trưởng MC mời lên, chúng em hàng hàng thẳng tắp – đảnh lễ – tưởng niệm Tứ Ân. Đến nghi thức cúng dường Ân Cha nghĩa Mẹ, được Huynh trưởng tuyên xướng – hướng dẫn đến trước mặt Cha Mẹ đảnh lễ hai lạy, quỳ trang trọng nói:

  • “Con kính yêu cha ‘mẹ’ nhiều lắm !”

Rồi hai tay kính cẩn nâng phẩm vật cúng dường dâng lên Cha Mẹ kính yêu.

Trước giây phút trang trọng thiêng liêng này, cả thính phòng âm trầm lắng xuống, từng dòng nước mắt hoen mi, đây đó sì sụt từng tiếng nấc nghẹn ngào, làm cho Thầy chứng minh cũng xúc động lau nước mắt !

Lễ Hội Vu Lan, tháng bảy – mùa Thu, mùa có từng đợt mưa phùn – mang theo những ngọn gió heo may – thổi bay những chiếc lá vàng rơi rơi phơi đầy sân cỏ. Tháng bảy – mùa Thu – mùa Vu Lan báo hiếu Tứ trọng ân, làm cho người ta hoài tưởng – ngậm ngùi nhớ nhiều về công đức sinh thành – dưỡng dục. Dù cho ai đó tha hương biệt xứ tận cuối chân mây. Hoài niệm – canh cánh hướng về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có dòng sông lặng lờ – êm đềm bên lũy tre già – mãi miết chảy dài theo năm tháng, nơi có mái tranh nghèo xơ xác – có người mẹ lưng còng – má tóp – tóc trắng giăng mây, cặm cụi bên bếp lửa hồng – cho sợi khói vươn cao vào mỗi buổi lam chiều. Bên bụi chuối sau hè – có chum nước rửa chân – để được sạch bụi đường xa bao nỗi nhọc nhằn vất vã mưu sinh.

Văn hóa hoa hồng, niệm ân công đức Thầy Tổ – Mẹ – Cha, nhân mùa Lễ Hội Vu Lan người ta cài lên ngực áo tặng nhau những đóa hoa hồng.

Niệm ân Sư trưởng – người ta cài lên ngực áo Thầy đóa hoa Hồng vàng. Nếu Mẹ còn sinh tiền – người ta tặng nhau đóa hoa Hồng thắm. Nhớ về người Mẹ đã qua đời – người ta tặng nhau đóa hoa Hồng bạch.

Tháng 8 – Tết Trung Thu, còn gọi là Tết Thiếu Nhi, bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước. Sau vụ mùa lúa chín vàng óng ả hắt lên nền trời Thu trong xanh. Nông trang nhàn rỗi, người ta bày cỗ thưởng trăng, trẻ thơ hân hoan ríu rít rước đèn lồng – đèn ông sao sắc màu rực rỡ:

“Thùng thình thùng thình

Trống rộn ràng ngoài đình…”

Tuổi thơ Oanh vũ GĐPT cũng háo hức hòa nhịp lòng vui Tết đón Trung Thu dưới ánh trăng Rằm man mác, bên những mâm cổ tràn đầy bánh trái, để rồi ký ức tuổi thơ theo năm tháng ngọt ngào. Chúng em được thưởng thức – hòa mình vui cười thỏa thích vào những hoạt cảnh do anh – chị trưởng đóng vai chú Cuội – chị Hằng, cùng nhau cất cao tiếng hát:

“Bóng trăng trắng ngà

có cây đa to

Có thằng Cuội già

ôm một mối mơ…”

Rời tuổi thơ ngây, chúng em được lên Đoàn ngành Thiếu rồi ngành Thanh ‘Nam – Nữ Phật tử’ vào dịp trại lễ Phật Thành Đạo. Chúng em được phát nguyện nhận năm điều luật của Gia Đình Phật Tử:

Ý nghĩa 5 điều luật của Gia Đình Phật Tử:

Trước năm 1951, theo đề cương tám điểm của bác Tâm Minh Lê Đình Thám, điểm thứ tư có ghi

Phật tử sống trong Gia Đình Phật Hoá Phổ phải tuân hành 10 điều luật sau đây :

  1. Phật tử học kinh, niệm Phật.
  2. Phật tử kính mến cha mẹ và thuận thành với anh chị em.
  3. Phật tử sống nhân từ đối với người và vật.
  4. Phật tử lựa bạn tốt và mến thương bạn.
  5. Phật tử vui buồn cùng chia, nhắc nhở nhau lánh dữ làm lành.
  6. Phật tử giữ gìn lời nói ôn hoà, ngay thật.
  7. Phật tử thật thà , siêng năng, thứ tự, sạch sẽ.
  8. Phật tử sống giản dị và điều độ.
  9. Phật tử sống giản dị và lạc quan.
  10. Phật tử làm tròn bổn phận.

Đến năm 1951, Đại hội Huynh trưởng GĐPT đã xây dựng nên Nội quy trình gồm 5 chương – 15 điều. Chương thứ nhất – điều thứ tư ghi :

Luật của Thanh Thiếu Niên nam nữ và Huynh trưởng là :

  1. Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện.
  2. Phật tử mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống.
  3. Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật.
  4. Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.
  5. Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo.

Ngày trước, luật nặng tính cách xây dựng cá nhân con người theo Nhân thừa. Giai đoạn thứ hai nhằm phát triển huệ trí, tiến đến giác ngộ và giải thoát.

  • Điều thứ nhất phù hợp với hạnh Tinh tấn của Đức Phật Thích Ca.
  • Điều thứ hai thực hiện hạnh Từ bi mà Bồ Tát Quan Thế Âm là biểu tượng.
  • Điều thứ ba phù hợp với hạnh Trí tuệ mà Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là biểu tượng.
  • Điều thứ tư thực hiện hạnh Thanh tịnh của đức Phật A Di Đà.
  • Điều thứ năm thực hiện hạnh Hỷ xả của Đức Phật Di Lặc.
  1. Kỷ luật của đoàn thể hay pháp luật của quốc gia chỉ nhằm duy trì trật tự an ninh cho xã hội và con người chứ không nhằm đưa con người đến chỗ giải thoát – giác ngộ. Còn giới luật của đạo Phật, luật của GĐPT là đóng ngõ ác đạo, mở cửa từ bi – trí tuệ, vào căn nhà giải thoát – giác ngộ của Đức Phật.
  2. Đọc luật phải giữ tâm thanh tịnh, không khí trang nghiêm để từng lời nói, từng âm thanh vang vọng trong tiềm thức, trong tư duy của chúng ta, nhận ra những sai khuyết mà phát lồ sám hối, cũng như hướng đời mình đến các điều tốt đẹp để nở được bông hoa Phật tánh.
  3. Đọc luật là một hình thức tụng giới và phát tâm giữ luật như giữ giới, soi rọi cuộc đời mình. Luật là giáp phục của đoàn sinh GĐPT.
  • Hằng ngày, sau khi thức dậy, em nhẩm đọc luật và phát tâm giữ luật hằng ngày.
  • Hằng ngày, trước khi đi ngủ, em nhẩm đọc và kiểm lại bản thân nếu có sai phạm tức thì sám hối.
  • Giữ luật như giữ gìn hơi thở và sự ăn uống để nuôi dưỡng sinh mạng, để tu tập Phật đạo.

(Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549)

Buổi lễ lên Đoàn sao mà xúc động đến vậy, được anh trưởng dắt tay vượt qua chiếc cầu tre bập bênh để trao tay chúng em vào tay Huynh trưởng trên ngành, nước mắt ai nấy đều đầm đìa luyến tiếc rời xa tuổi thơ được nâng niu chìu chuộng. Mặc dù vẫn chung cùng đơn vị, nhưng sao mà lòng vẫn cảm thấy xa xót rời Đoàn – xa bạn bè thân ái.

Rồi buổi lễ lên đường đầy hào hứng, chúng em mỗi người tay cầm một chiếc gậy – đầu gậy lủng lẳng chùm dây dù, vai mang balô lên đường, được xây dựng bằng một kịch bản trò chơi lớn “Tầm sư học đạo”. Nhận được tín hiệu Morse, theo dấu đi đường đến điềm vượt khó – chúng em dùng gậy bắt cầu vượt suối – băng rừng – bám dây dù leo núi, chúng em nhận từng bảng văn – dịch từng mật thư lắt léo để qua biết bao trạm gian nan – dẫy đầy ma vương mang nhiều nhân dáng kinh hãi, rình rập mọi ngỏ ngách, cám dỗ – quậy phá để vượt qua. Làm cho nhiều ban gái nhát gan – sợ hãi – túm tụm – ôm chầm vào nhau – la chí chỏe suốt quãng đường rừng. Cuối cùng nhận được tín hiệu Semaphore, chúng em cùng nhau quay về lại chùa – đến đích. Đích là cội cây Bồ đề – cành lá xum xuê – che phủ mát rượi, nơi đây một Huynh trưởng hóa thân Đức Phật – đang ngồi tham thiền nhập định, còn chúng em hóa thân làm 5 anh em Kiều Trần Như – ngồi vây quanh nghe Phật thuyết giảng.

Em ấn tượng vui nhất là trến đường hướng về Chùa – đến trạm. Đội chúng em nhận được mật thư: Cấp cứu người bị nạn – gãy chân. Thế là 2 bạn rời hàng – cởi áo – dùng gậy làm cán. 1 bạn ngã xuống – nằm lên cán. Bạn phụ trách y tế mở túi cứu thương – lấy bông băng – tẩm thuốc đỏ, trình tự – cẩn thận băn bó gót chân. Chúng em công kênh nạn nhân lển đường, cả khu phố bàng hoàng túa ra! Qua cổng Chùa, chúng em tìm đến trạm có H.Tr hóa trang bác sĩ, kiểm tra cấp cứu – cứu thương. Đội viên y tế tháo gỡ bông băng, làm cho mọi người hiếu kỳ thấy ra chỉ là trò chơi thực tập, ai nấy đều kinh ngạt ồ lên, đập vui lên vai chúng em, rồi hỷ hả cười giải tán !

Chiếc gậy theo em suốt những kỳ trại thời niên thiếu, mỗi kỳ trại đi qua em đều khắc ghi tên trại – ngày tháng để lưu dấu kỷ niệm. Tiếc rằng chiến tranh – sau những năm tháng loạn ly – chiếc gậy thất lạc từ lúc nào – làm cho mãi tiếc nuối không nguôi !

Đến tuổi trưởng thành, qua trại huấn luyện, em được phát nguyện làm Huynh trưởng. Buổi lễ truyền đăng thiêng liêng, làm cho chúng em ai nấy nao nao dâng trào bồi hồi cảm xúc. Chúng em mỗi người trên đôi tay một cây nến, ánh nến lung linh theo tiếng vọng từ bóng đêm truyền về – đánh thức mê vọng từ lâu mãi mê ngã ái, lương tri bừng sáng, chối từ vị kỷ hèn mọn, phát nguyện dấn thân: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”. Mỗi cây nến truyền đăng còn lại qua các kỳ trại huấn luyên – em vẫn còn lưu giữ mãi đến hôm nay, để mãi mãi khắc ghí nhớ hoài một thời – nhớ hoài những giây phút thiêng được trưởng thành – được lớn khôn thêm.

Ý nghĩa “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”:

Kinh Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội dạy:

Năm sự ô trược ác thế – dơ dáy – xấu ác thiêu đốt thế gian: – Thời đại biến đổi không ngừng:

Kiếp trược. – Sự thấy biết sai lầm, tà bậy: Kiến trược. – Những si mê, tham đắm, thù hận: Phiền não trược. – Sự luân hồi sanh tử không ngừng dứt: Chúng sanh trược. – Đời thọ mạng ngắn ngủi, vô thường: Mạng trược.

Ngài A Nan phát nguyện: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”, thâm nhập vào ngũ trược ác thế để giáo hóa cứu độ cho chúng sinh.

“Nếu còn một chúng sinh nào chưa thành Phật. Nguyện chẳng tự mình chứng niết bàn. Dù chỉ còn một chúng sinh chưa thành Phật, Con nguyện không nhập niết bàn – không thành Phật – không được công nhận là người đã đạt được quả vị”.

Ý nghĩa truyền đăng:

Pháp truyền Vô Tận Đăng xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật sở thuyết – thời Phương Đẳng – phẩm Đệ tử (Thứ tư) nói về hành trạng Bồ tát Trì Thế:

Một thời cư sĩ Duy Ma Cật là hoá thân của Bồ Tát Tịnh Danh ở cõi Vô Cấu của Phật Bất Động Như Lai, thị hiện xuống Ta Bà làm trưởng giả cư sĩ, ngụ tại thành Tỳ Xá Ly.

Một ngày cư sĩ Duy Ma Cật thị hiện bệnh duyên, nhiều người tới thăm, Ngài tùy duyên thuyết pháp Đại thừa giáo hoá.

Đức Bổn Sư Thích Ca ngụ tại Tịnh xá Kỳ Viên, phân công các vị Đại đệ tử và Bồ Tát hướng dẫn đại chúng đến thăm bệnh Duy Ma, nhưng cả 10 Đại đệ tử Thanh Văn và 4 vị Bồ Tát không ai dám đến thăm bệnh Cư sĩ, vì trong quá trình giáo hoá, quý Ngài đã từng bị Cư sĩ Duy Ma vấn nạn về các mặt sở trường tu chứng, qua các lần Pháp thoại quý Ngài đã không trả lời được. Đến khi Đức Bổn Sư chỉ định Ngài Bồ Tát Trì Thế đến thăm bệnh Duy Ma Cật, Ngài Trì Thế cũng hồi bạch Thế Tôn không dám đến thăm bệnh, vì nhân duyên sau:

Ngày đó khi Bồ tát Trì Thế đang toạ thiền trong rừng, Thiên ma Ba Tuần giả dạng Thiên chủ Đế Thích (Vua cõi trời Đao Lợi), mang theo vô số Thiên nữ kỹ nhạc đến đảnh lễ Ngài Trì Thế. Trì Thế Bồ tát vốn là quốc sư của Đế Thích, nên y theo Pháp Phật mà khuyến tấn:

“Vua Trời Đế Thích không nên đam mê dục lạc mà hãy chú tâm vào việc thanh tịnh thân tâm – tô bồi phước đức – hoá độ chúng sanh”.

Vua Trời Đế Thích xin dâng tặng Bồ Tát Trì Thế 12 ngàn thiên nữ để phục dịch, nhưng Bồ Tát đã y theo pháp Thanh Tịnh vô nhiễm của Thích Tử Như Lai, nên không dám thọ nhận kỹ nữ để hưởng thú vui dục lạc.

Ngay khi đó, giữa không trung có tiếng của cư sĩ Duy Ma Cật khiển trách Bồ tát sao nhận lầm ma Ba Tuần là vua trời Đế Thích, đồng thời nói với ma Ba Tuần rằng:

“Trì Thế không dám nhận ma nữ nhưng ta thì nhận được, vậy ma hãy dâng tặng ma nữ cho ta thì mới đi được”.

Trước pháp lực của cư sĩ Duy Ma Cật, ma Ba Tuần không thể thoát thân đành phải hứa vâng chịu, dâng tặng 12 ngàn ma nữ cho Duy Ma Cật rồi về cung. Cư sĩ Duy Ma Cật nhận 12 ngàn ma nữ liền dạy cho họ các Pháp vui trong chánh Pháp đại thừa:

  • Vui tin Phật
  • Vui nghe Pháp
  • Vui cúng dường Tăng
  • Vui làm việc thiện
  • Vui giáo hoá chúng sanh…

Chúng ma nữ sau khi nghe Pháp, tín thọ phụng hành, được cư sĩ trả về cung ma và dạy rằng:

“Có pháp Vô Tận Đăng như ngọn đèn không bao giờ tắt, các người hãy đem chánh Pháp truyền dạy cho chúng ma tại ma cung, người này truyền người kia, ánh sáng tiếp nối mãi vô tận mà ngọn đèn đầu tiên vẫn không hao tổn. Chánh Pháp sẽ được tiếp nối mãi và ánh sáng không bao giờ dứt…”

Từ đó mãi mãi cung ma luôn luôn được thắp sáng bằng ngọn đèn chánh Pháp Vô Tận – nhân thiên đều an lạc.

Đời người có hai cuộc sống oằn nặng trên đôi vai. Một vai gánh vát đời sống vật chất:

Vật chất là một thực tại khách quan luôn luôn vận động – vô thường: Công danh – sự nghiệp – gia đình – quốc gia – xã hội.

Một vai trĩu nặng đời sống tâm linh:

Tâm linh là một khái niệm – một hiện tượng tinh thần được phát triển ý thức – tri giác – sinh học, tương tác lên đời sống thực thể. Nhờ tu – học Phật pháp tác động tìm năng – ý chí. Tri thức người Huynh trưởng Phật tử được trưởng dưỡng phát triển, ý thức được bản thân, phẩm hạnh được nâng cao, hình thành nhân cách đạo đức toàn diện, hướng tới toàn mỹ – toàn thiện – toàn chân. Ý thức được rằng: Ngoài tích cực tu học để tự thăng tiến – hoàn thiện bản thân, mà còn có trách nhiệm thiêng liêng cao cả mà tổ chức tin tưởng trao phó, đó là: “truyền đăng – tục diệm”, trao truyền – hướng dẫn đàn em thân yêu.

Tâm linh và vật chất phải được cân bằng trên đôi vai mỗi nhân giả, nếu bên này mà trĩu nặng còn bênh kia mà nhẹ tênh, thì đời sống trở nên dị tật, bước đi khập khiểng – mất thăng bằng – dễ dàng té quỵ giữa đời thường. Người Huynh trưởng có tri thức, có tu – có học, biết ý thức cuộc sống, biết làm chủ bản thân, vững vàng trong cuộc sống không dễ dàng để đôi vai bị xô lệch mất bình thường.

Cuộc đời em gắn liền với màu áo lam hiền hòa thân thương, được tắm mình trong suối nguồn cam lồ ngọt ngào mát rượi. Hằng đêm theo chân Mẹ lên chùa – cùng Mẹ ê a hòa vào những lời kinh trầm hùng trong những đêm tịnh độ. Những buổi cuối tuần – trong màu áo lam lên chùa nhập Đoàn lễ Phật – sinh hoạt. Và cứ mãi miết như thế, cuốn hút em lớn dần theo năm tháng dưới mái chùa làng yên ả, trong tiếng mõ nhịp nhàng cầu kinh – hòa quyện tiếng chuông ngân vang vọng vào thu không.

Tri thức vốn có hôm nay, cứ ngỡ rằng giỏi giắn – tài ba hơn người. Đâu có ngờ rằng, ngoài công đức sinh thành như trời biển bao la, sự nuôi dưỡng gian lao – tận tình dạy bảo của Mẹ – Cha. Ngoài những nỗ lực vật vã dùi mài kinh sử – thu nhặt được từ sách vỡ – Thầy Cô – bạn bè theo năm tháng mài đũng quần trên ghế trường đời – cộng đồng xã hội, chúng em đã tinh tấn – tích cực tu học. Nhờ công đức giáo dưỡng của quý Anh – Chị đi trước hướng dẫn, nâng niu dìu dắt từng bước chân đi, chăm chút tài bồi – truyền tải tri thức – vun xới – gọt tỉa – uốn nắn thân cành – làm mới, để cho chúng em mỗi ngày thêm được lớn khôn.

Biết bao năm tháng thanh tĩnh dưới mái chùa thân yêu chở che hồn dân tộc, trãi qua biết bao bậc học. Tính từ thuở ngành Đồng Oanh vũ: Mở mắt – Cánh mềm – Chân cứng – Tung bay. Đến khi được lên đoàn, ngành Thiếu: Hướng thiện – Sơ thiện – Trung thiện – 2 năm Chánh thiện. Bước lên ngành Thanh: 2 năm bậc Hòa – 2 năm bậc Trực, để rồi được bước lên cao hơn nữa, ngành Huynh trưởng: Bậc Kiên – 2 năm bậc Trì – 3 năm bậc Định – 5 năm bậc Lực, rồi qua các trại huấn luyện: Tuyết Sơn, Anôma Niliên – Lộc Uyển – A Dục – Huyền Trang – Vạn Hạnh và Phú Lâu Na. Cứ mỗi lần thi kết khóa hoàn tất bậc học vào dịp Lễ Phật Thành Đạo. Trong buổi lễ vượt bậc – vượt trại – thọ cấp, chúng em được quý anh – chị trao chứng chỉ – quyết định, gắn lên vai áo phù hiệu bậc học đã qua – cấp đang thọ, làm cho lòng chúng em cảm thấy nao nao, thấy mình được thêm tuổi đạo – được trưởng thành lớn khôn hơn, để rồi nao nức chờ đợi ngày khai khóa bậc học mới vào dịp Lễ Phật Xuất Gia.

Tổ chức trao cấp, là trao một sứ mệnh thiêng liêng trọng đại vào đôi tay vững chãi của Huynh trưởng. Người Huynh trưởng tài năng không dễ dàng cúi mặt – khuất phục trước cam go, mà với nguyện lực to lớn, sẵn sàng gánh vát gian nan để thành toàn trọng trách.

Thiết nghĩ, người lãnh đạo phải mang tâm trạng của một người đi tìm hướng sống, tìm cái hay – cái đẹp, cái chân thiện mỹ cho cuộc đời. Phải thao thức với những khám phá mới lạ một cách nhiệt thành. Không nên có tâm trạng của một lữ hành đi qua rừng trầm hương, mà không thưởng thức được mùi hương. Tắm mình trong dòng ánh sáng phật pháp, mà không nhận thức được chân đế. Hoặc bọc trong mình hạt minh châu, mà không biết là châu ngọc. Không thiết tha trân quí, không thẩm thấu được luồng sinh khí mới mẽ, để mang lại một kết quả tốt đẹp hơn.

Chúng ta sẽ rất thất vọng, nếu là một nhà lãnh đạo, mà không có một nhiệt tâm quên mình vì tổ chức. Không có một kế hoạch, một hướng nhìn sâu sắc. Không vạch ra một phương hướng mới mẽ để hành đạo, để khế cơ phù hợp xác đáng với tình hình. Thấy trầm lắng mà cứ thỏng tay, thấy dậm chân mà cứ chùn bước. Tối ngày chỉ biết loay hoay, đoanh vây trong tháp vàng, với những hương đăng nghi ngút, giữ mãi những hình thái sinh hoạt, không còn đáp ứng phù hợp, với những nhu cầu cấp thiết mới, tức là làm một việc làm vụng dại – ấu trĩ. Nếu cố chấp bảo thủ mãi những hình thức sinh hoạt lỗi thời, tức là vô tình đẩy lùi xã hội, và làm cho tổ chức GĐPTVN thoái hóa, khô héo dần trong xác cũ.

Đến hẹn lại lên, hằng năm tích cực tham gia các cuộc: Hội thảo – hội ngộ quanh đèn – các kỳ trại lễ – trại truyền thống – bồi dưỡng – chuyên năng – dã ngoại – giao lưu… Và cứ mãi miết như thế cuốn hút tuổi hoa niên. Bên ánh lửa trại lưu luyến còn sót lại – hay dưới lều trăng lộng gió, chúng em trao cho nhau từng cuốn lưu bút tình lam – ghị lại cho nhau biết bao cảm xúc thân thương, để rồi sau mỗi kỳ trại:

“Tay cách xa nhưng tim không xa

Gan thép ta chia tay đừng buồn !…”

Để rồi mỗi lần giở lại từng trang lưu bút “Vui tươi ta biết trong lòng nhớ lòng !…” Dưới mái lều chan hòa ánh trăng, chúng em lại gối tay nhau “thức trọn đêm nay…” để mà tâm sự – trao đổi kiến thức Phật pháp, khuyến khích nhau tinh tấn sinh hoạt – tâm huyết hy hiến phụng sự tổ chức, sách tấn nhau Tâm Bồ Đề kiên cố – dũng tiến trên đường đạo. Hứa hẹn với nhau cố gắng gìn lòng son sắc, gắn bó – giữ vững niềm tin tổ chức GĐPTVN, hẹn gặp lại nhau trong những kỳ trại giao lưu kế tiếp. Tiếc rằng cũng vì chiến tranh, sau những lần di tản, những cuốn lưu bút ghi lại biết bao dấu yêu ngày nào đã thất lạc đi theo năm tháng.

Những giai đoạn trước đây, hình ảnh – mầu áo Gia Đình Phật Tử tự do sinh hoạt bất cứ ở đâu – tất cả mọi nơi trên chính quê hương mình, từ mái chùa thanh tĩnh thân yêu, trường học văn hoa, công viên nên thơ, khu du lịch thơ mộng, khu dân cư nhộn nhịp nô nức hay núi – rừng yên ả u tịch.

Em đến với Gia Đình Phật Tử, được tu học – sinh hoạt 4 bộ môn:

  • Phật Pháp: Mục đích của Đức Phật vào đời:

“Khai thị chúng sinh – ngộ nhập Phật Tri Kiến”.

Phật Pháp là chân lý diệu hữu như thật, nhận chân thực thể “bản lai diện mục” hướng đến giác ngộ. Phật Pháp là một hệ thống triết lý sống phổ quát, trên nền tảng trí tuệ – từ bi, thực tập hướng đến đời sống đạo đức – chân hạnh phúc – thoát khổ.

“Phá vi trần xuất kinh quyển” -‘Kinh Hoa Nghiêm’

Thể tính của Kinh ‘Phật Pháp’ rộng lớn cả tam thiên đại thiên thế giới, vo tròn nhét trong hạt bụi nhỏ. Người có tuệ giác nhận chân thể tánh, đập vỡ hạt bụi ôm trọn quyển Kinh. Thế gian mãi mê thân phận lau sậy hèn mọn, hạt cát giữa sa mạc mênh mông, một giọt nước giữa trùng khơi dậy sóng, hời hợt hót suông – khởi niệm phiền não tam độc khổ đau – mãi miết trầm luân, chỉ là “Gã Cùng Tử hạt châu trong bâu áo” khó bao giờ mở mắt tỉnh thức, đập vỡ vô minh – ngộ nhập tri kiến Phật.

  • Hoạt động thanh niên GĐPT, nhằm mục đích rèn luyện thân – tâm, giáo dục kiến thức. Ý thức điều chỉnh – hoàn chỉnh nhân cánh – phẩm hạnh. Xây dựng đức tính kiên nhẫn – tự chủ tự lập – không vị kỷ tiêu cực – giao tiếp cởi mở vị tha, cộng tác hòa hợp. Đầy đủ kỹ năng vào đời, thích ứng – an toàn – lành mạnh trong cuộc sống, xử lý tình huống thực tiễn, kiện định lập trường. Có khả năng làm chủ bản thân, biết kiểm soát – thay đổi hành vi, biết giải quyết những những cơn lốc bốc đồng – mâu thuẩn va chạm xung đột những khó khăn thách thức trong đời thường. Có sức khỏe – tháo vát – có bộ óc nhạy bén, phát huy hiệu năng sáng tạo, ứng xử năng động, sáng suốt – biết thiết lập đề án – vạch kế hoạch – đặt mục tiêu, biết tổ chức – điều hành – lãnh đạo. 
  • Văn nghệ: Văn hóa – nghệ thuật là một mô thức sinh hoạt tinh thần – biểu hiện cảm xúc. Văn hóa – nghệ thuật qua lăng kính GĐPT phản ánh hiện thực Phật hóa – bắt nguồn từ tinh thần từ bi – giác ngộ – giải thoát, là phương tiện giáo dục truyền tải giáo lý tác động – chuyển hóa mạnh mẽ lên quan niệm – môi trường nhịp sống sống xã hội. Văn hóa – văn nghệ GĐPT xây dựng tôn vinh nhân bản, chọn con người làm đối trọng định hướng vươn tới giá trị đạo đức chuẩn mực – Phật hóa xã hội toàn diện.
  • Hoạt động xã hội: Mục đích GĐPT: “Đào luyện thanh thiếu đồng niên thành Phật Tử chân chánh. Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo”.

Với tinh thần giáo dục khai phóng – huân tu thiện hạnh – nuôi dưỡng hạt giống từ bi, GĐPT hòa nhập cộng đồng, phục vụ tha nhân, phụng sự xã hội, làm nhiêu ích nhân loại, thiện hóa xã hội.

Bốn bộ môn sinh hoạt – tu học của GĐPT là những hóa thành diệu dụng, có Học – có Tu, hướng đến cứu cánh giác ngộ – giải thoát toàn diện.

Ôi thân yêu biết bao tình lam ! Cái tình cảm thiêng liêng – ruột rà chung cùng dòng máu lam hiền hòa, mãi mãi thắm thiết khắc ghi khó bao giờ phai nhạt. Trên thế giới, chưa có một tổ chức nào có tinh thần dân chủ – bình đẳng – hòa hợp như Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Ở GĐPT có mối quan hệ đồng hạng, tình cảm anh – chị – em thiêng liêng thắm thiết tình lam. Ở đây không có mối quan hệ thầy – trò, ông – bà, cô – dì, chú – bác, mà chỉ có anh – có chị – có em, ‘anh – chị là Huynh trưởng kiêm Gia trưởng cũng vậy, bởi vì nguyên bản anh – chị là Huynh trưởng’. Dù em là tuổi thơ, tuổi đời mới lên bảy – lên tám, dù anh – dù chị có mái tóc bạc phơ trên bảy – tám mươi tuổi… thì vẫn là anh – là chị – là em, tay trong tay:

“Nào về đây ta họp đoàn cùng nhau …

Anh với em ta về sống vui trọn ngày …”

“Cùng nhau múa chung quanh vòng,

Vui cùng vui múa vui …”.

Để rồi mỗi lần vào dịp Phật Đản – Vu Lan – Tết Nguyên Đán, chúng em tổ chức thành đoàn, đến mỗi tư gia thăm hỏi thân thiết chúc mừng quý Anh Chị trưởng bối cao niên – thân thiết chúc mừng Huynh trưởng Đoàn – bạn bè đồng sự, làm rộn rã cả góc phố. Có ai đó trong chúng em, mỗi gia đình riêng, có cuộc vui, hoặc gặp hoàn cảnh khốn khó – ốm đau bệnh tật, hoặc mãi mãi nằm xuống. Dù có bận bịu – tất bật lo toan vì cuộc mưu sinh, chúng em đều gát lại một bên, không ai bảo ai, nhận được tin hiệu là chúng em nôn nã – vội vã đến với nhau, chung lòng thương yêu – tận tụy lo toan cho nhau.

Dù anh – dù chị – dù em, vì cuộc mưu sinh – nhu cầu công tác hay du học phương xa. Dòng máu lam trong mỗi anh – chị – em vẫn mãi mãi hiền hòa tuông trào trong huyết quản, mãi mãi hoài niệm nhớ về ngôi chùa xưa, nơi có mái ấm Gia Dình Phật Tử, nơi đã trưởng dưỡng đạo tâm cho chúng mình mãi mãi lớn khôn. Rồi một ngày nào đó, rồi anh – rồi chị – rồi em bất chợt trở về, gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, vội vã ôm choàng lấy nhau, trút cho nhau bầu tâm sự qua bao tháng năm dài nhung nhớ. Dù cho có anh – có chị – có em đến với GĐPT sau này, vẫn không cảm thấy xa lạ, anh chị em tình lam thắm thiết trăm trứng nở hoa, cùng nhau nắm tay – cùng hát:

“Đây gia đình cùng nhau chung thân ái !…”

Tôn kính niệm ân công đức Gia đình Phật Tử Việt Nam, một tổ chức giáo dục đạo đức tâm linh hiện đại, đào tạo nên những con người tri thức – tuệ giác, có đời sống văn hóa tốt đẹp thiết thực, được cộng đồng – xã hội nhiệt liệt chấp nhận, dang rộng đôi tay hoan nghênh – tận tình chào đón: Khai phóng – nhân bản – vị tha – giác ngộ – giải thoát. Đã đào tạo cống hiến cho đạo pháp biết bao Phật tử thuần thành – chân chánh, trao lại cho xã hội biết bao công dân tốt – đạo đức – hiền hòa – vị tha – gương mẫu. Dâng hiến biết bao hiền tài ắp đầy nhiệt huyết cho dân tộc – đất nước – Đạo pháp. Tôn kính niệm ân công đức tiền nhân – Huynh trưởng đi trước, những anh – chị có đức hạnh viên dung – có trí tuệ tỏa sáng – nhận chân thực tại như thật – phá vỡ tà kiến – nhiếp phục hàng ma, lợi lạc tiên giác – hậu giác, là long tượng – thạch trụ, là nơi nương tựa – là niềm tin vững chãi cho hàng hậu học, là uống nước nhớ nguồn, là tri ân tôn kính Phật Pháp.

Cương vị Huynh trưởng cao quý:

  • Là một nhà giáo mô phạm, có thân – khẩu – ý giáo gương mẫu.
  • Là một kỹ sư – chuyên gia bác học nghiên cứu tâm lý – sản xuất ra sản phẩm tâm hồn.
  • Là một chiến sĩ xung kích trên mặt trận tâm linh.
  • Là một thiền sinh với một công án to lớn – đang đối mặt trước hai bờ sinh – diệt.

Huynh trưởng, đây là trách nhiệm thiêng liêng mà tổ chức tin tưởng trao phó nhiệm vụ giáo dục, vì đàn em thân yêu mà:

“kế vãng khai lai – truyền đăng tục diệm”.

Là chiếc cầu kết nối – trao đuốc – thêm lửa – mở đường – truyền trao tri thức cho đàn em – hàng hậu học nối bước đi sau.

Thế gian luôn luôn bệnh hoạn, Tham – Sân – Si, Tam Độc tìm ẩn thâm sâu trong mỗi con người trần tục, tạo nên biết bao sóng gió đau thương cho nhân loại:

Tham: Lòng tham bất tận kích thích tham muốn chiếm đoạt: Giàu sang như hạt sương đọng trên nhành hoa buổi ban mai. Tiền tài như phấn thổ – vật chất tồn tại khách quan, dễ dàng nhận chìm lương tri, dẫm đạp nhân nghĩa. Người mà nô lệ đồng tiền “Tài”, xem người khốn khó nô lệ hèn hạ.

Lịch sử đã cho thấy, “Sắc” đẹp đã nhận chìm biết bao anh hùng cái thế, làm sụp đổ cả một vương triều. Tình ái là sợi dây xích thằng ràng buộc, làm tái diễn luân hồi khổ đau mãi miết.

“Con là nợ – vợ ‘chồng’ là oan gia – cửa nhà là nghiệp báo”

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.” ‘Truyện Kiều’.

Công “Danh” vinh hiển như bọt nước đầu gành, danh lợi vinh hoa như chiếc hài xinh xắn nâng bước chân đi, một mai đường đời mòn gót, chỉ còn trơ lại chiếc hài rách tươm xơ xác, thế thái – nhân tình ngoảnh mặt làm ngơ, chỉ còn trơ trụi người lữ khách độc hành gỏ bước đường khuya hun hút.

Nhận thức đúng về công danh chân chính là biết sống có lý tưởng, có đam mê, biết giữ lòng tự trọng, luôn luôn gột rửa tâm hồn, nỗ lực phấn đấu, cống hiến tài năng, có đời sống đức độ, có thái độ cư xử hòa nhã, biết lắng nghe – cảm thông, sẻ chia với mọi người bằng tài đức của chính mình.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất.

Phải có danh gì với núi sông” ‘Nguyễn Công Trứ’.

Thế hệ Huynh trưởng trẻ hôm nay nhận thức bổn phận – trách nhiệm – có ý chí – nghị lực sẵn sàng đương đầu với khó khăn, vượt qua thử thách dòng đời, cố gắng theo đuổi ước mơ – hoài bão – lý tưởng đến cùng. Với tự tin – bản lĩnh – bầu nhiệt huyết sẵn có, chắc chắn tuổi trẻ làm nên kỳ tích – sang trang lịch sử – tạo nên bước ngoặc lớn – xây dựng thành công – hãnh tiến vinh quang.

Lương “Thực” là món thuốc để chữa cái bệnh nơi thân, không đành nô lệ miếng ăn mà phải ngửa tay xin xỏ, đánh mất nhân phẩm.

“Ăn coi nồi, ngồi coi hướng”

“Miếng ăn là miếng tồi tàn,

Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu” ‘ca dao – tục ngữ’.

Phần lớn người ta xem trọng những giá trị vật chất, những tác động nhất thời mà nó đem lại, quên đi tính chất thấp hèn, chỉ tạo thỏa mãn giai đoạn. Vật chất là đầu mối khơi lên biết bao tranh chấp, giành giật hơn thua trong xã hội, vì thế mà thế thái nhân tình “mất đi một miếng lộn gan lên đầu”.

Một giấc ngủ sinh học tự nhiên – đúng lúc, sẽ giúp đầu óc tỉnh táo – thân thể thư giản sảng khoái, tái tạo lại nguồn năng lượng đã bị hao hụt trong ngày – tái sinh tràn đầy sức sống . Nhưng dung dưỡng mê ngủ “Thùy”, dẫn đến mụ mẫm, uổng phí thời gian vàng ngọc.

Sân: Bản chất sân si – nóng nảy làm nảy sinh đố kỵ – thù ghét – căm hận – giận dữ, không tự chủ – không kềm chế được ngã ái bản thân, dễ dàng mắc phải sai lầm, đào thêm hố ngăn cách – nhận chìm tình cảm thiêng liêng, không còn tỉnh táo kiểm soát hành vi – nhận biết được đạo lý – sự việc. Sân hận tạo nên nhiều thiệt thòi, làm cho mọi người chê trách – khó gần – xa lánh, làm ảnh hưởng đến sức khỏe – đến hệ tim mạch, nguy hiểm hơn là dẫn đến tai biến mạch máu não.

Kinh Hoa Nghiêm có dạy:

“Một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng mở ra.” Và:

“Một đốm lửa sân, có thể đốt cháy muôn ngàn cánh rừng công đức.”

Đức Phật khuyến nhủ:

“Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não không đến”.

Si: Thiếu ý thức, để cho mù quáng – mê muội dẫn dắt sai lạc – làm lu mờ lý trí – tri kiến, không nhận thức đúng sai – ảo tưởng không thực tế.

Tôn giáo có còn đủ tư cách độc tôn để làm cái chức năng thiêng liêng của mình là lãnh đạo tinh thần – giáo dục đạo đức tâm linh cho nhân loại được nữa hay không ? Hầu hết các Tôn giáo đang ráo riết tranh giành ảnh hưởng trên toàn thế giới, đang ra sức nhả ra biết bao độc tố mê hoặc, nhiều sắc màu quyến rũ, quy tụ tín hữu cho đông, mà không cần thiết phải giữ nguyên bản sắc ban đầu, không cần biết mục đích phải đi về đâu và nguyện vọng ý thức thâm sâu từ mỗi con người ! Sự cuồng tín của tôn giáo hữu thần, mang đến một cái nhìn thui chột – sai lầm – lệch lạc, đẫy con người què quặt – khập khiễng vào thời hoang sơ, đầy dẫy bóng tối dọa dẫm của thế giới Thần linh vô hình ảo tưởng, tách rời nhân bản, nhận chìm sinh linh vào chốn vô minh đen tối, chỉ còn biết có lễ bái – cầu đảo – cúng kính – van xin thần quyền, phó mặc đời mình cho năng lực vô hình – ngoại giới điều khiển. “Người ta đến với Đạo Phật bằng sự tự nguyện – tự giác. Qua nghiên cứu và thực hành để hoàn chỉnh nhân cách chính mình, chứ không phải đến để hoàn thành nhân cách của một vị Giáo chủ như ở các Tôn giáo duy tâm Thần quyền khác, để rồi tự vong ngã – vong thân – cúi đầu nô lệ thần phục những kẻ nhân danh…” Những kẻ lãnh đạo Tôn giáo quá khích – hiếu chiến, muốn bành trướng thế lực của đạo mình, mà đang tâm mở ra các cuộc bạo hành Thánh chiến – Thập tự chinh, khủng bố độc ác, lùa con người vào chỗ chết nếu không thần phục theo họ. Họ dùng sức mạnh của gươm đao – súng đạn quân sự, sức mạnh chính trị của kẻ thống trị và dùng cả sức mạnh kinh tế – tiền bạc (đã cướp giật được từ các cuộc xâm lăng) để dụ dỗ – mua chuộc – o ép – bắt buộc theo đạo của họ. Họ dùng cả hình thức đê tiện – hèn hạ như mua bán – gán ghép – gài thế – bắt bí cả vấn đề sinh lý. Lợi dụng sự ham muốn – đòi hỏi – khao khát tình dục của các cặp hôn nhân lấy vợ hoặc lấy chồng ngoại đạo. Họ thúc ép bắt buộc học giáo lý – rửa tội – cải đạo theo đạo của họ rồi mới cho kết hôn. Có Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT có tu – có học – có chánh kiến – tỉnh thức. Tại sao không đủ tỉnh táo để thức tỉnh – giác ngộ người bạn đời. Mà ngược lại, dễ dàng vô minh – dễ dàng để bị liệt vị một cách thảm hại. Nhẹ dạ cả tin, dễ dàng bị lôi cuốn mê hoặc vào quái đồ ngoại đạo, đánh mất Tâm Bồ Đề đã được trưởng dưỡng kiên cố. Hơn 25 thế kỷ trôi qua, lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao biến đổi bể dâu. Nhiều Tôn giáo xuất hiện – tăng trưởng – bành trướng – phân hóa rồi tự hủy diệt. Đạo Lão – Đạo Khổng đã trở thành lạc hậu. Các Thần linh đã bị lật đổ bởi Thượng Đế, rồi cũng chính Thượng Đế cũng bị tuyên bố là đã chết từ lâu rồi.

Tham – Sân – Si đốt cháy làm thiêu rụi tình người, làm cho vết thương đời rách tươm rỉ máu, làm cho lòng người hoang mang, niềm tin chợt mất. Tam độc, đây là những di căn trầm kha làm lây nhiễm suy yếu tạo nên sóng gió, nhận chìm sức sống nhân sinh.

Huynh trưởng có tu – có học – có hàm dưỡng, được trưởng thành bởi năng lượng từ bi đẹp đẽ. Luôn luôn tuệ giác – tỉnh táo, không hề khởi niệm vô minh, mê vọng ái nhiễm dẫn dắt làm cho sa chân lạc bước, làm mất khiểm soát trở thành nạn nhân để cho ngoại vật điều khiển – dẫn dắt chi phối. Với tấm lòng vị tha – nhân ái – cởi mở yêu thương bát ngát, không vì tuổi cao, sức khỏe yếu kém, sinh kế tục đế đời thường đa đoan làm khủng hoảng, đánh mất bình tĩnh, thể hiện quyền uy, lớn tiếng lấn lướt, làm mất lòng tin ảnh hưởng đến đạo đức – đến điều hành sinh hoạt.

Huynh trưởng là tấm gương sáng mà đàn em đang soi rọi vào, hình ảnh là thế giới ngữ, những hành động của quý anh – chị hôm nay là bài học không lời để cho các em nối bước, tái hiện lại trên mỗi bước đi sau này.

Nhờ gần gủi quý anh chị tri thức, được thương yêu dìu dắc sinh hoạt hướng đến đạo đức toàn thiện. chọn văn hóa Lục Hòa một hệ thống chủ nghĩa ý thức làm nền tảng sống – duy trì mạng mạch tổ chức GĐPTVN.

Người ta thường lầm nhận rằng “nhân sinh là không hư” không có giá trị đích thực. Ngoài thỏa mãn nhu cầu vật chất công danh – ăn uống – nhà ở – tiện nghi – trai gái… là đủ. Họ phó thác tinh thần vào tìm tòi hưởng thụ, do đó mâu thuẩn cạnh tranh sinh tồn, lấn lướt – dẫm đạp lên nhau, hơn thua tranh giành vì cuộc mưu sinh.

Con người được sinh ra đều trần trụi như nhau, đều bình đẳng trên mọi sự sống. Không ai giàu nghèo – quyền thế hơn ai. Không ai có quyền tự cho phép mình có cái quyền ngự trị lên sự sống kẻ khác, lầm nhận mình là trung tâm vũ trụ.

Con người mãi trôi lăn theo dòng định mệnh, mỗi sinh linh thọ nhận mỗi dòng sinh mệnh khác nhau, được thể hiện qua “Nghiệp”.

Nghiệp là hiện Quả của Nhân đã tạo nên từ trước đó. Nếu Nhân lành thì phúc khí được tốt hơn, nhưng nếu Nhân mà xấu ác, thì kết Quả phải là đắng cay khó tránh khỏi.

Mỗi người đều có sự sống tự do – bình đẳng, cùng nhau dừng chân đồng trú trên hành tinh này, do đó phải có đời sống đoàn kết – hòa hợp, biết chia sẻ cho nhau nơi chốn an trú yên bình, chung tay đối phó biết bao hiểm họa – chướng duyên – nghịch cảnh đời thường.

Huynh trưởng GĐPT những người tri thức, hầu như tinh hoa của trời đất đều quy tụ ở đây. Nhờ tu học tinh thần “Thân Hòa Cộng Trụ”. Các anh – các chị có phong cách sống hòa hợp – thân kính. Luôn luôn vì tình lam thân yêu – chung sống chan hòa tương trợ trong suốt thời gian tu học, giúp đỡ nhau trong những kỳ trại giao lưu. Tỉnh thức nhìn lại chính mình. tự vấn với lòng, nếu không có đàn em thân yêu thì TÔI có được vinh dự đứng trước Đàn – Đội – Chúng – Đoàn – Đơn vị ? nếu không có đàn em thì TÔI có còn là Huynh trưởng ? !

Ngôn ngữ là chìa khóa mở cửa tâm hồn – đi vào ngỏ lòng nhau. Nếu chìa khóa mà thô kệch gỉ sét chỉ làm thêm khúc mắc. Lời nói có tố chất êm ái truyền cảm hứng, dễ làm cho lòng người xua tan âu lo buồn nãn, làm cho người ta thêm phấn chấn – vươn lên – an lạc – hạnh phúc. Lời nói có chất liệu mềm dẻo, gắn kết tình người lại với nhau, cảm thông hòa nhịp trong cùng dòng sống.

Nếu không có tha nhân, khó hình thành nên bản ngã. Sự sống tồn tại hôm nay từ vật chất đến tinh thần, luôn luôn nương tựa – nhờ vã vào sự ban phát của đồng loại chung quanh.

Nhờ tu học tinh thần “Khẩu Hòa Vô Tránh”. lời nói lúc nào cũng hòa ái nhẹ nhàng dễ thương – dễ cảm mến. Luôn luôn tôn trọng – tương kính nhau, không tranh cãi, giữ gìn hòa khí – khuyến khích – khuyên bảo – sách tấn nhau, tế nhị – lịch sự – có văn hóa trong giao thiệp – sinh hoạt – hội họp. Ý thức là một vấn đề khúc mắc – nan giải. Ý thức được xây dựng trên mỗi nhận thức cá biệt. Có những dòng ý thức hệ áp đặt, tạo nên sóng gió – gieo rắc nỗi kinh hoàng – bất an, tạo nên thống khổ cho nhân loại.

Cùng trên một dòng sống, nhưng qua mỗi khúc quành mang mỗi địa hình khác nhau. Dù dòng nước có đi qua nhiều ngỏ ngách, mang nhiều dáng hình ngoằn ngoèo hay thẳng tắp – yên ả hay cuồn cuộn, nhưng bản chất của nước vẫn là hiền hòa – mát dịu. Hãy để cho mỗi dòng ý thức được hòa nhập vào biển cả mênh mông, dù cho có cố tình tạo nên nhiều mùi vị khác biệt, nhưng cuối cùng muối vẫn là một vị mặn bất biến.

Nhờ tu học tinh thần: “Ý Hòa Đồng Duyệt” lúc nào cũng biết lắng nghe – ái kính, tôn trọng tư tưởng – ý kiến, cùng nhau bàn bạc tìm ra chân lý chung nhất, hoan hỷ chan hòa chấp nhận.

Tất cả mọi người đều bình đẳng trong cuộc sống, cùng có dòng máu đỏ, giọt nước mắt cùng mặn. Không một ai có quyền lạm dụng quyền hạn – sức mạnh… xâm phạm lên tự do cá nhân hay tập thể. Không tự áp đặt tạo nên những luật lệ hà khắc để trồng lên đầu dân đen, nhằm mục đích phục vụ cho giai cấp thống trị, xem giai cấp khác là thấp hèn – nô lệ – bị trị. Hoặc cho rằng mình có đủ quyền lực trong tay, lúc nào cũng đeo nhiều loại mặt nạ khác nhau, để khỏi phải xuất hiện dưới bộ mặt hèn hạ – gian trá, để có thể dễ dàng chụp mũ, hống hách chèn ép – trù dập – phá rối…

Có những giáo điều được đặt ra để ràng buộc con người chỉ biết cúi đầu vâng phục một cách mù quáng, đánh mất tự chủ – nhân bản, phó thác đời mình cho thần quyền ngoại giới – hư vô không tưởng.

Phải nhanh chóng xóa bỏ những luật lệ vô hồn – khe khắt đánh mất tự do dân chủ, tao nên mâu thuẩn bất công, ngăn cách tình người – chia rẻ trình tự dân tộc.

Nhờ tu học tinh thần “Giới Hòa Đồng Tu” mà tinh thần tự giác nâng cao, tuân thủ – nghiêm túc thọ trì – chấp hành giới luật – nội lệ, chung sống hòa hợp, luôn luôn đoàn kết – không bao giờ bất hòa – tư ý chia rẽ. Tuân thủ – chấp hành – nghiêm trì giới luật – nội quy – quy chế – nội lệ để ngăn ngừa xấu ác, thì hạnh phúc phát sinh – tự do tự tại. Bởi do kiến chấp mà tự ngã nâng lên, dẫn đến cái thấy bất nhất. Có người “Thân kiến”, nhìn thấy vật chất là không hư hoặc tồn tại vĩnh viễn. Cùng có cái thấy mà người ta hời hợt chỉ nhìn phớt qua bên ngoài hoặc chỉ nhìn phiến diện “Biên Kiến” một bên. Hoặc mụ mẫm – vô minh nhìn thấy khác đi, mang màu sắc “Tà Kiến” – thần quyền dẫn hướng sai lạc. Có người cho rằng chỉ có cái thấy “Kiến Thủ” của riêng mình là đúng, còn cái thấy của người khác là sai “Người mù rờ voi…”.

“Chánh Kiến” là cái thấy chân chánh – rõ ràng, thấy biết đúng đắn nhân bản toàn triệt. Phải giúp cho mọi người hạn chế bất đồng – dị biệt, làm khủng hoảng tâm thức, cùng hướng về cái thấy chung nhất.

Nhờ tu học tinh thần “Kiến Hòa Đồng Giải”, trao đổi kiến thức, cảm hóa – hòa giải những ý kiến bất đồng, cùng nhau an nhẫn tìm ra kiến giải, hoan hỷ thống nhất, cùng nhau đồng bộ phát triển.

Nhân sinh trên hành trình tìm đến giác ngộ để giải thoát, chúng ta đang tạm dừng chân trên trạm viễn hành, để rồi còn phải tiếp tục khởi hành đi tới. “Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy” chỉ làm vướng bận thêm bước chân người lữ khách, đến lúc cần thiết là giũ áo ra đi. Những phước phận có được chia sẻ đồng đều cho bạn đồng hành có đủ tư lương để cùng dấn thân trên hành trình sống.

Nhờ tu học tinh thần “Lợi Hòa Đồng Quân”, có đời sống chan hòa – đồng sự bình đẳng, chia sẻ quyền hạn – phận sự – phạm hạnh đồng đều, sẵn sàng nhận lãnh phật sự – tinh cần hoàn thành nhiệm vụ giao phó tốt nhất. Không hề thể hiện hành vi thế gian gia trưởng – tự tôn, luôn luôn tự trọng – tôn trọng nhân chủ – tôn trọng đàn em, người nào việc nấy – không dẫm chân – lấn lướt hơn thua.

Có câu hỏi: “Nhân tài, người là ai, đang ở đâu ?”

Nhân tài là người có thành tích để đời, hiễn hách thực tiễn – đã thành danh. Nhưng cũng có những nhân tài chán muồi thế sự – xem thường công danh – rũ áo nhàn cư. Ngọa Long – Phượng Sồ đã một thời ẩn cư nơi hốc núi…

Nhân tài không phải bỗng nhiên mà có, hô lên là hiện diện. Muốn có tài danh, mỗi nhân giả phải được rèn luyện kinh qua thử thách gian nan, nỗ lực tu học, miệt mài hàm dưỡng mới đủ năng lượng hoàn thiện. Không chỉ với cái học nửa vời, bỏ trại – bỏ bậc – bỏ tu – bỏ học mà hoàn chỉnh được nhân cách Huynh trưởng. Với cái kiến thức nửa vời, cái tu hờ hững – lệch lạc, thì kết quả hành hoạt chỉ có là bản năng – cảm tính. Nếu làm việc chỉ với cảm tính – bất nhất – không có chương trình – kế hoạch thì hiệu năng chẳng đạt – mà góp phần làm suy yếu – phá rối mà thôi.

Thế gian có câu:

“Nhiệt tình + ngu dốt = phá hoại”.

Thành công phật sự – lịch sử được làm nên, là kết quả đóng góp của cả tập thể – tổ chức to lớn. Dù TÔI có tài ba, cá nhân khó làm nên được, bởi vì chưa phải là hiện thân của Bồ tát diệu thủ nghìn mắt nghìn tay. Sự thị hiện nghìn mắt nghìn tay, là người Huynh trưởng tri thức quán chúng, là người dám hy sinh – làm việc miệt mài tinh cần – có kế hoạch – hiểu biết thấu đáo – tận tường sự việc – tiên liệu thành bại, thiết tha vì đàn em – vì tổ chức mà phụng sự. Người biết tự gát mình qua một bên – biết lắng nghe – biết vận dụng tài năng thu hút – tập hợp quần chúng – hợp lực – chung sức – lục hòa cọng trụ thành toàn phật sự.

Triết gia Hy Lạp Diogène, ban đêm ông ngủ trong một cái thùng, ban ngày ông thắp đuốc lang thang đi khắp ngả phố. Có người hỏi, ông trả lời:

  • “Ta đốt đuốc đi tìm người hiền !”

Với ngã ái tham vọng với cao:

“Đời đục cả một mình ta trong

Người đời say cả một minh ta tỉnh”.

Với tâm lý ký gửi – sống nhờ tạm bợ – được chăng hay chớ, hụt hẫng – thở dài thổn thức, phó mặc bỏ đời mà đi – lang thang buông trôi dòng chảy vào ngỏ cụt – không lối thoát, thì đời sống vô vị – lãng phí biết bao!

Chả lẽ như gả lái đò:

“Đời say cả! Sao không ăn cả bã, uống cả hèm, cho say luôn một thể?

“Đời đục cả! Sao không quậy thêm bùn, vỗ thêm sóng, cho đục luôn một thể? Tội chi mà phải bỏ đời mà đi ?”

Thì diễn biến bi hài cuộc đời trôi nổi về đâu ?!

Người hiền là người biết sống, sống xứng đáng – sống có ý nghĩa giữa lòng đời, phải như đóa sen thơm được vươn lên từ bùn – ngát hương dấn thân – lan tỏa thể nhập vào đời. Với tinh thần xả kỷ – từ bi, đem vui – giải khổ. Từ thâm sâu ký ức một thời vàng son ùa về – một thời mà tuổi trẻ lên ngôi – là trụ cột vững vàng xây dựng – nắm vững – duy trì – mở rộng – phát triển tổ chức. Người Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử tâm huyết trải lòng vị tha, dù cuộc đời còn lắm phong ba – giông tố nghìn trùng – sóng dựng mù khơi, với hạnh nguyện bi hùng, nguyện làm chiếc thuyền giữa dòng đời gian nan để mà thế độ.

Văn hóa – đạo đức xã hội bệnh tật khập khiểng – thoái hóa dần đến tụt hậu rụi tàn, Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín bị coi là lỗi thời, nhường chỗ cho những mưu mô toan tính – tranh giành quyền lực – địa vị – lợi dưỡng. Năm hạnh: Tinh tấn – Hỷ xã – Thanh tịnh – Trí tuệ – Từ bi đang bị xem nhẹ, thiếu năng dưỡng – chuyên tu – hành hoạt.

Định mệnh nào đã đẩy đưa – con thuyền GĐPT sao cứ mãi chong chênh nghiệt ngã – chưa được yên ả – thong dong hãnh tiến ra khơi. Huynh trưởng thì thiếu nhiệt tình cống hiến – Đoàn sinh thì còn yếu kém thiếu niềm tin – sinh hoạt chưa đều. Đơn vị GĐPT còn có cái gì đó còn lỏng lẻo – chưa được vững vàng – phát triển !

Người Huynh trưởng GĐPT có nhiệt huyết – tĩnh tại – sáng suốt, biết ngồi lại với nhau – biết phân tích sự việc cụ thể – biết xây dựng kế hoạch chiến lược bền bỉ lâu dài – biết xác định hướng đi, mà phải đi thật vững vàng trên chính đội chân của mình từng bước đi thật hùng tráng – vững chãi, đem lại đỉnh cao giá trị văn hóa GĐPT tĩnh tại thời đại thiết thực.

Lý tưởng Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử:

  • Phụng sự Đạo pháp.
  • Phụng sự Dân tộc.
  • Phụng sự con người.

Với cái nhìn áp đặt thiển cận phong kiến – phi nhân bản của người xưa:

“Quân xử thần tử – thần bất tử bất trung, Phụ xử tử vong – tử bất vong bất hiếu”

“Chồng chúa – vợ tôi” – “Phu xướng – phụ tùy” “Cha mẹ đặt đâu – con ngồi đó”

Nó đã lạc hậu – không còn thực tế nữa.

Phật giáo có một nền giáo dục Nhân Bản giá trị thiết thực:

Nhân: người – Bản: gốc.

Nhân bản là đức tính tự chủ. Con người có thể làm chủ chính mình và tự quyết định vận mệnh của mình, không bị chi phối bởi một khuynh hướng – năng lực phi nhân ngoại giới.

Thẩm thấu tinh thần Nhân bản, tiếp cận khoa học hiện đại, tầm mắt của Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT hiện nay đã được sáng suốt – mở rộng kiến thức, hiểu biết thế nào là tự do – nhân chủ – tự tại, không còn bị kiềm tỏa, mà có cái nhìn tự chủ – bao quát phóng thoáng hơn, có đời sống chánh hạnh “Bát chánh đạo”, không chấp nhận nô lệ – áp bức – bất công. Vô úy đập vỡ vô minh, đoạn tận ngã ái – phiền não, khát vọng vươn cao, mạnh dạn khai thị – nhìn thẳng vào như thật duyên sinh để chuyển hóa. Đỉnh điểm của Phật giáo là chân hạnh phúc, chọn con người làm đối trọng để giáo dục, là hải đăng tự thân, giác ngộ – nhận chân thực tại như thật, hướng đến giá trị toàn thiện – an lạc hạnh phúc đích thực cho bản thân và tha nhân.

Người Huynh Trưởng GĐPT có trách nhiệm thiêng liêng – cao quý, sẵn sàng hy hiến phụng sự – bảo vệ đạo pháp – dân tộc – con người, để thành toàn đạo nghiệp, bởi vì.

Đạo Phật có một hệ thống giáo lý tỉnh thức – giác ngộ, nhận chân cuộc đời như thật, mang tính nhân bản – chọn con người làm cứu cánh, không tin vào viễn kiến mơ hồ xa vời. Tuệ giác kiến giải vô minh – vươn đến giác ngộ để giải thoát toàn diện. Phật pháp là một phương cách sống tỉnh thức – tích cực – toàn thiện. Ứng dụng giáo lý Phật Dà để giác ngộ nhân loại, giải trừ phiền não đem lại thanh tịnh an lạc cho con người – cộng đồng – xã hội. Ứng dụng tinh thần nhân bản, vô úy giải phóng áp bức – bất công, hủ hóa – lạc hậu, xây dựng công bằng – bình đẳng, hoàn chỉnh nền văn hóa – đạo đức Phật giáo – GĐPT toàn diện.

Trải qua biết bao dặm dài đoạn trường, một thực tại mà cái giá phải trả lại cho công cuộc an nhẫn duy trì mạng mạch “Duy tuệ thị nghiệp”, miệt mài tìm kiếm công lý rồi phải vượt qua. Ở cuối con đường, ngưỡng cửa của chân lý phải được mở ra tỏa sáng hiện thực.

Tìm lực của GĐPTVN trong lúc này không suy yếu. Cứ mỗi lần có cuộc phong ba, đứng trước nghịch cảnh thử thách, đối đầu với nghiệt ngã trái ngang, thì GĐPTVN lại càng đoàn kết chặc chẽ, vững vàng thêm hơn. Như đứa con ngoan hiền, GĐPTVN vẫn luôn luôn trung kiên, và sẵn sàng hy sinh vì đạo pháp, vì dân tộc vinh quang.

Đứng trước tình hình nghiệt ngã, diễn biến phức tạp dẫy đầy thử thách cam go. Nhưng con đường chính nghĩa của chúng ta đang đi – của GĐPTVN truyền thống. Trong giai đoạn thử thách đầy cam go nghiệt ngã cao độ này, không biết sẽ diễn biến đến đâu, hay chuyển bước qua khúc quanh lịch sử như thế nào. Mỗi người Huynh trưởng – Đoàn viên GĐPTVN cần phải cẩn trọng – tỉnh táo – tuệ giác, sẵn sàng gánh vát gian nan đi lên bằng nguyện lực vô úy kiên cố – ngũ trược ác thế thệ tiên nhập – Phát đại nguyện – tu hạnh Duy Ma Cật để chờ đợi và sẵn sàng cho một bước tiến mới …

Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có … , có cuộ̣c sống tục đế – đi lên bằng con đường đạo hạnh đại bi Bồ tát, thể nḥập trí tuệ siêu việt – tính không – bất nhị ̣̣- ly ngôn thuyết, không giải bày bằng ngôn ngữ phiền não – kiến chấp đạ̣o đoạn, mà bằng tri kiến im lặng – một lập trường phương tiệ̣n thiện xảo. Im lặng ở đây không phải là không hiểu, không diễn đạt được, mà là diễn bày một ngôn ngữ tuyệt đỉnh – một sự im lặng sấm sét bất khả tư nghị – mặc như tôi.

Qua kinh Duy Ma Cật, cho chúng ta thấy cư sĩ và tăng sĩ đều có chung một mục đích đại nguyện như nhau, cùng đi lên trên con đường trọng yếu là tiến đến giác ngộ – giải thoát hoàn toàn.

“Thoát khỏi thế gian không phải là xuống tóc, là dồn hết sức lực để phá tan sự đam mê của mọi chúng sinh. Không phải một mình tuân theo giới luật, nhưng chối bỏ sự đức độ trong thanh tịnh an lành. Không phải là thiền định trong sự yên lặng của rừng thẳm, nhưng ở lại trong cơn xoáy lốc của luân hổi, và dùng trí tuệ cùng những phương tiện thiện xảo để độ chúng sinh tràn đầy phật pháp”

Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – Vimalakirtinirdesa .

Tiếng gõ đồng hồ Tích – Tắc, Tích – Tắc mãi miết vang lên, cứ ngỡ rằng bất tận đến vô cùng. Nhưng thực tế, tính vô thường hiển hiện, sinh – diệt đang diễn ra từng sát na, có – không, còn – mất, được – thua, cụ thể – rõ ràng – như thật. Đó là quy luật, không tránh cải hay thay đổi được.

Đời sống con người mãi miết bập bềnh tuông theo dòng chảy. Trên mỗi dòng chảy cuộc đời không yên ắng tĩnh lặng như mặt hồ thu êm ả, mà cuồn cuộn – dậy sóng – chảy xiết, có quá nhiều khúc quành điên đảo và cũng còn có quá nhiều vũng xoáy não loạn làm cho đời sống bất an.

Cuộc đời không phải là nhung lụa ấm êm – bằng phẳng, trãi thảm – tung hô mời gọi nhân giả vào đời, mà ở cuối mỗi con đường, dẫy đầy nghiệt ngã, đang chờ đón thách thức từng bước chân khach lữ hành. Trên hành trình đi tìm lẽ sống, tha nhân cảm thấy lẻ loi – lạc loài – bất lực, mệt nhoài trước những trò chơi phóng tưởng của tạo hóa.

Con người được thăng hoa – hạnh phúc, hay khổ đau do hưởng nhờ vào NGHIỆP.

Nghiệp là kết quả tạo tác, là tài sản tích cóp – tạo nên trong hiện kiếp.

Nghiệp có: Nghiệp tốt – nghiệp xấu.

Nghiệp có tốt thì đời sống đẹp đẽ dễ chịu hơn. Nghiệp mà xấu thì đời sống dẫy đầy đau khổ nghìn trùng bủa quanh.

Nghiệp ! đeo đuổi đến suốt cả luân hồi.

Luân hồi là tái hiện lại sự sống của kiếp trước.

Muốn dứt nghiệp, giải thoát luân hồi, vượt ra vòng não loạn điên đảo, là mỗi tự thân chấm dứt tam nghiệp: Thân – Khẩu – Ý

  • Thân, không hành động xấu – ác.
  • Khấu, không nói những lời xấu – ác.
  • Ý, không có những suy tưởng, mưu kế xấu – ác.

Có – không – còn – mất chỉ là một sự thay đổi hành dạng – trạng thái, từ cái này hình thành một cái khác, thực chất nó không biến mất đi đâu cả.

Đạo Phật là đạo nhân bản, con người có đủ năng lực để tự giải quyết lấy thân phận – đời sống của chính mình. Một việc xấu xảy ra, hay một việc tốt đưa đến, là do tự thân tạo nên từ trước đó. Đạo Phật không thừa nhận thuyết định mệnh, bởi vì không có bàn tay của Thượng đế vô tưởng nào áp đặt lên đời sống nhân sinh.

Con người luôn luôn cúi đầu trước áp lực nặng nề được gọi là “Nghiệp”. Nghiệp có ra do khởi niệm vô minh. Cái hạt giống đầu tiên đã nông nỗi vội vàng gieo vào lòng đời, gặp phải gió duyên tác động tạo nên dòng sống khổ.

Nhân – Duyên – Quả đây là quy luật biện chứng tất thảy, một quy trình khép kín hình thành muôn sự muôn vật. Và cũng từ Nhân – Duyên – Quả tác động lên nhau dẫn đến vong ngã, làm biến dạng – mất đi một vật thể. Sự mất đi của một sự vật, không phải là mất hẳn, hoặc vắng bặt bóng dáng của nó trong không – thời gian, mà nó được thay đổi – biến dạng từ một trạng thái này sang một dạng trạng thái khác.

“Sinh – Trụ – Di – Diệt” hay “Thành – Trụ – Hoại – Không” là một trình tự được gắn liền song song với hoạt động nhân quả biện chứng.

“Cái này có thì cái kia có – cái này sinh thì cái kia sinh – cái này diệt thì cái kia diệt – sinh diệt tương tục không gián đoạn.”

Người xưa nói: Cái chớp cánh của một con bướm tại cửa ngọ môn Tử Cấm Thành – Bắc Kinh, có khả năng làm xao động cả Kim Tự Tháp – Ai Cập. Một cái vẫy đuôi bé nhỏ của một con cá cũng làm xung động cả một đại dương mênh mông. Một phúc khí dù nhỏ bé của một cá nhân cũng làm ảnh hưởng cả một tập thể to lớn – một vũ trụ bao la và ngược lại. Vũ trụ cũng dư thừa khả năng tác động lên đời sống sinh thể. Cũng như thế, một cá nhân xấu cũng làm ảnh hưởng đến đời sống dân sinh cộng đồng – xã hội. Mỗi gia đình – thôn xóm đều có đời sống thiện lành, thì quốc gia thanh bình. Từ giới lãnh đạo cho đến nhân dân đều có cuộc sống Chân – Thiện – Mỹ, thì đất nước thịnh trị – mưa hòa gió thuận, thiên tai – dịch bệnh không còn, biến cố không hề xảy ra.

“Nhất nhơn tác phước – thiên nhơn hưởng.

“Độc thọ hoa khai vạn thọ hương”

‘Một người làm phước – ngàn người được hưởng.

‘Một cây trổ hoa, ngàn người được thơm lây’.

“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,

“Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”.

‘Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi.’

“Chư ác mạc tác,

“Chúng thiện phụng hành,

“Tự tịnh kỳ ý,

“Thị chư Phật giáo.”

‘Đừng làm các điều ác,

‘Các điều thiện nguyện làm,

‘Tự thanh tịnh ý mình,

‘Ấy lời chư Phật dạy.’

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

“Phải có danh gì với núi sông” – Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ –

Sĩ phu với tâm thế – cốt cách trượng phu, trải qua dòng đời nghiệt ngã vì cuộc mưu sinh, gầy dựng gia nghiệp – đạo nghiệp, có chí nguyện vị tha, vì tha nhân mà hi hiến phụng sự. Dẫu biết rằng, với thân thể còm cõi còn lại – một ít hơi tàn ngắn ngủi, vẫn miệt mài vun xới mảnh đất vườn tâm, làm kiếp con tằm cần mẫn thắt ruột nhả tơ, trao lại cho đời gia bảo quý giá trác tuyệt, lưu lại cùng trời đất sử xanh muôn thuở.

Mạnh dạn nhìn thẳng vào như thật duyên sinh: Sinh – Lão – Bệnh – Tử, đây là dòng chảy tư tưởng đại thứ – là quy luật các pháp vô thường bất biến, ai ai rồi cũng nếm trải qua giấc mộng:

“Nhất thiết hữu vi pháp,

“Như mộng, huyễn, bào, ảnh,

“Như lộ diệc như điện,

“Ưng tác như thị quán.”

‘Tất cả pháp hữu vi,

‘Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

‘Như sương, như chớp loé,

‘Hãy quán chiếu như thế.’ – Kinh Kim Cang –

Khi còn hơi thở là đời sống kéo dài. Những giây phút ít ỏi còn lại, phải sống sao cho xứng đáng – có ý nghĩa. Đến lúc tử thần gõ cửa, với dấu chấm hết tròn trịa, thì không hổ thẹn với lương tâm, thảnh thơi – nhẹ nhàng – an lạc – như “cánh nhạn quá từng không” – tự tại cất cánh ra đi như trút bỏ chiếc áo rách. Bởi vì từ khi vào đời, với hai bàn tay trắng, thì đâu có gì để mà vướng bận – nuối tiếc !

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

“Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.” – Thiền sư Vạn Hạnh –

‘Thân như bóng chớp chiều tà

‘Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời

‘Sá chi suy thịnh việc đời

‘Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.’ – HT.Mật Thể dịch –

Viêt xong: Lam Nhã Thảo Am, PL: 2566 – cuối Đông – Nhâm Dần – 2022.

PHÁT NGUYỆN TU HỌC

Tri thức vốn có hôm nay, cứ ngỡ rằng giỏi giắn – tài ba hơn người. Đâu có ngờ rằng, ngoài công đức sinh thành như trời biển bao la, sự nuôi dưỡng gian lao – tận tình dạy bảo của Mẹ – Cha. Ngoài những nỗ lực vật vã dùi mài kinh sử – thu nhặt được từ sách vỡ – Thầy Cô – bạn bè theo năm tháng mài đũng quần trên ghế trường đời – cộng đồng xã hội, chúng em đã tinh tấn – tích cực tu học. Nhờ công đức giáo dưỡng của Chư tôn đức Tăng – Ni, của quý Anh – Chị đi trước hướng dẫn, nâng niu dìu dắt từng bước chân đi, chăm chút tài bồi – truyền tải tri thức – vun xới – gọt tỉa – uốn nắn thân cành – làm mới, để cho chúng em mỗi ngày thêm được lớn khôn.

Biết bao năm tháng thanh tĩnh dưới mái chùa thân yêu chở che hồn dân tộc, trãi qua biết bao bậc học. Tính từ thuở ngành Đồng Oanh vũ: Mở mắt – Cánh mềm – Chân cứng – Tung bay. Rời tuổi thơ ngây, chúng em lên Đoàn – ngành Thiếu, được tiếp cận các bậc tu học: Hướng thiện – Sơ thiện – Trung thiện (2 năm) – Chánh thiện (2 năm). Đến tuổi trưởng thành, bước lên ngành Thanh ‘Nam – Nữ Phật tử’: Bậc Hòa (2 năm) – bậc Trực (2 năăm).

Rồi dần bước lên cao hơn nữa, ngành Huynh trưởng:

Bậc Kiên – BHD GĐPT Lâm Đồng, năm 1995.

Bậc Trì (2 năm) – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 1996.

Bậc Định (3 năm) – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2004

Bậc Lực (5 năm) – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2015

* Bậc Lực BHD.GĐPTVN tại Hải Ngoại, năm 2012 – 2016 .

Trải qua các trại huấn luyện:

Sơ cấp Lộc Uyển – BHD GĐPT Lâm Đồng, năm 1995.

Cấp một A Dục – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 1996.

Cấp hai Huyền Trang – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2004.

Cấp ba Vạn Hạnh – BHD.GĐPTVN tại Hải Ngoại, năm 2016.

Huấn luyện viên Phú Lâu Na – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2005.

Cấp đã thọ:

Cấp Tập – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2002.

Cấp Tín – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2008.

Cấp Tấn – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2020 Giới đã thọ:

Quy y Tam bảo, năm 1970, pháp danh: Nguyên Hoàng.

Thọ Thập thiện giới, năm 2005, pháp tự: Viên Đăng.

Thọ Bồ tát giới tại gia, năm 2011, pháp hiệu: Minh Kiên.

Nhiệm vụ đảm nhận:

  • Liên đoàn trưởng GĐPT Đại Giác – Bảo Lộc – Lâm Đồng, năm 1989 – 1995.
  • Liên đoàn trưởng GĐPT Đạt Ma – Phan Thiết – Bình Thuận, năm 1996 – 2003.
  • Liên đoàn trưởng GĐPT GĐPT Khánh Long – Lagi – Bình Thuận, năm 2004 – 2007.
  • Phụ tá Gia trưởng GĐPT Bồ Đề – Philadelphia – Hoa Kỳ, năm 2007 – 2009.
  • Liên đoàn trưởng GĐPT Khánh Hiệp – Lagi – Bình Thuận, năm 2010 – 2016.
  • Thư ký Ban Đại Diện GĐPT Bắc Bình Thuận, năm 1996 – 2003.
  • Thư ký Ban Đại Diện GĐPT Lagi – Bình Thuận, năm 2010 – 2021.
  • Phụ tá Ủy viên Oanh vũ nam BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2002 – 2007.
  • Phụ tá Ủy viên Nghiên huấn – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2010 – 2022.
  • Phụ tá Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2010 – 2011.
  • Phó Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2012 – 2022.
  • Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2022 – 2023.
  • Phụ tá ngành Thiếu nam BHDTƯ GĐPTVN, năm 2012 – 2016.
  • Cộng tác viên tập san Sen Trăng GĐPTVN, năm 2002 – 2020.
  • Công tác viên truyền thông trang nhà GĐPTVN trên Thế giới, năm 2011 – 2020. – Tham dự Đại hội GĐPTVN trên thế giới 2 lần: Năm 2022 và năm 2016.

Biên tập Sáng tác hàng trăm tác phẩm thơ – văn về Đạo pháp – GĐPT và văn chương:

  • Bộ Gia Đình Phật Tử Những Đoạn Trường Trải Quan, 6 tập – dày 4.826 trang (mang tính lịch sử Đạo pháp – GĐPT – và dân tộc).
  • Hồi ký cuốn theo chiều gió.
  • Toàn tập Nguyên Hoàng-Phan Văn Huy Tâm. 
  • Thi Tập Nguyên Hoàng-Phan Văn Huy Tâm.

Qua các trại huấn luyện, em được phát nguyện làm Huynh trưởng. Buổi lễ truyền đăng thiêng liêng, làm cho chúng em ai nấy nao nao dâng trào bồi hồi cảm xúc. Chúng em mỗi người trên đôi tay một cây nến, ánh nến lung linh theo tiếng vọng từ bóng đêm truyền về – đánh thức mê vọng từ lâu mãi mê ngã ái, lương tri bừng sáng, chối từ vị kỷ hèn mọn, phát nguyện dấn thân: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”. Mỗi cây nến truyền đăng còn lại qua các kỳ trại huấn luyên – tôi vẫn còn lưu giữ mãi đến hôm nay, để mãi mãi khắc ghí nhớ hoài một thời – nhớ hoài những giây phút thiêng được trưởng thành – được lớn khôn thêm.

Đến hẹn lại lên, hằng năm tích cực tham gia các cuộc: Hội thảo – hội ngộ quanh đèn – các kỳ trại lễ – trại truyền thống – bồi dưỡng – chuyên năng – dã ngoại – giao lưu… từ địa phương đến toàn quốc, và cứ mãi miết như thế cuốn hút tuổi hoa niên. Bên ánh lửa trại lưu luyến còn sót lại – hay dưới lều trăng lộng gió, chúng tôi trao cho nhau từng cuốn lưu bút tình lam – ghị lại cho nhau biết bao cảm xúc thân thương, để rồi sau mỗi kỳ trại:

“Tay cách xa nhưng tim không xa

“Gan thép ta chia tay đừng buồn !…”

Để rồi mỗi lần giở lại từng trang lưu bút “Vui tươi ta biết trong lòng nhớ lòng!…”

Dưới mái lều chan hòa ánh trăng, chúng tôi lại gối tay nhau “thức trọn đêm nay…” để mà tâm sự – trao đổi kiến thức Phật pháp, khuyến khích nhau tinh tấn sinh hoạt – tâm huyết hy hiến phụng sự tổ chức, sách tấn nhau Tâm Bồ Đề kiên cố – dũng tiến trên đường đạo. Hứa hẹn với nhau cố gắng gìn lòng son sắc, gắn bó – giữ vững niềm tin tổ chức GĐPTVN, hẹn gặp lại nhau trong những kỳ trại giao lưu kế tiếp. Tiếc rằng cũng vì chiến tranh, sau những lần di tản, những cuốn lưu bút ghi lại biết bao dấu yêu ngày nào đã thất lạc đi theo năm tháng.

GĐPT là một tổ chức giáo dục, một trường học duy tuệ giữa đời thường. Muốn thành toàn sứ mệnh cao cả, là chuyển hóa để hoàn thiện nhân cách, thì phật sự quan trọng – tối cần thiết là mối quan hệ – gắn kết keo hồ giữa GĐPT với gia đình riêng – học đường và xã hội không phải là một sinh hoạt mới mẻ. Là một H.Tr có tay nghề tinh chuyên, biết ứng dụng sinh hoạt này trong hành hoạt trưởng dưỡng – trồng người, tiếp cận – gần gũi, mở rộng vòng tay nhân ái, hiểu biết từ sâu thẳm tâm tư, thẩm thấu tình người, thì sứ mệnh truyền đăng thành toàn thù thắng.

Trong quá trình tu học qua các bậc học và chịu huấn luyện qua các kỳ trại, tổ chức đã tài bồi – truyền trao cho mỗi nhân thân Huynh trưởng, để trở thành một tay nghề tinh chuyên – thù thắng, một đạo đức xả kỷ – vị tha, biết gát mình qua một bên, mà vì đàn em thân yêu – vì tha nhân mà phụng sự.

Sau thời gian rời đất trại, Huynh trưởng tự biết miệt mài cầu học thêm hơn, không nề hà nản mỏi, để được nâng cao tay nghề, làm giàu thêm vốn sống. Không dậm chân dừng lại buông rơi, biết nhìn lại thân phận lau sậy hèn mọn, không mãi mê mơ ngủ. Với cái vốn liếng kiến thức hạt cát bé mọn, giữa sa mạc mênh mông, một nấm lá vàng khô, ít ỏi trong lòng bàn tay nhỏ bé, giữa rừng Ta la bạt ngàn xanh mướt.

Người Huynh trưởng hướng đến toàn thiện, luôn cảm thấy chưa đủ, không tự mãn, không đánh mất tự chủ, hụt hẩng – co quắp, phó mặc buông xuôi thoái hóa giữa dòng hiện đại từng giờ từng phút! Luôn luôn hâm hấp hướng về phía trước, cập nhật kiến thức phong phú – đáp ứng thỏa đáng các nhu cầu cấp thiết mà đàn em thao thức mong chờ.

Từ khi cất tiếng khóc tu oa vào đời, phản ứng tự nhiên của các hiện tượng sinh vật lý: Đói khát, đau nhức, nóng lạnh, đã làm cho bé bật khóc. Nhờ vào giác quan, cảm nhận được: Hình ảnh – âm thanh – mùi vị – xúc giác – dễ chịu – sướng khổ – sợ hãi – buồn vui. Trí nhớ nhỏ bé phát triển dần theo thời gian, tích lũy phân biệt, nhận thức được mình là ai, ý thức cái tôi hiện hữu, tương quan xã hội

“Nhơn chi sơ tánh bổn thiện” bản tánh con người sinh ra vốn thiện, nhưng “ Tánh tương cận, tập tương viễn”, tùy vào môi trường sống, sự tiếp thu giáo dục, ảnh hưởng của xã hội, tạo nên nhận thức – ý thức phức tạp. Trôi dài theo năm tháng, trong cái hình hài bé nhỏ, hình thành nên cái tôi cá thể khác biệt, cái bổn tánh thiện thuở ban đầu không còn nữa. Do ảnh hưởng môi trường sống, hình thành tạo nên bản chất:

  • Tham: Ham muốn, chiếm đoạt – sở hữu, thỏa mãn cho riêng tôi
  • Sân: Nóng giận, dẫn đến bạo lực
  • Si: Mê muội, không trí tuệ, không hiểu biết lẽ phải

Y thức bắt đầu hoạt động, là lúc đối mặt đương đầu, đối kháng với thực tại cam go. Từ những ức chế tìm tàng, những bất công vây bủa nghiệt ngã của xã hội, hình thành nên những định kiến – ngã chấp. Tự tạo nên một khuôn mặt, một cá tính, một phong cách lập dị khác. Cảm thấy bị đối sử bất công – đời sống bị đe dọa, dẫn đến bất đồng – bất mãn. Để tự vệ, phản ứng tạo nên những cuộc bùng nổ vùng lên, đập phá – gào thét, để thỏa mãn cá tính điên loạn ngông cuồng tư kỉ. Hoặc dẫn đến tự ti – mặc cảm, buồn chán – khép kín nội tâm. Ngã ái được hình thành, chỉ biết có tôi, tôi là tất cả. Cái tôi vị kỉ tác động lên xã hội, làm xung động tha nhân, nhiễu nhương – bất an toàn xã hội.

Để hình thành nhân cách theo chiều hướng xã hội, nhiều chủ thuyết được đặt ra, nhằm mục đích áp đặt – nhồi nhét, chỉ biết hưởng thụ – lãnh cảm trước cộng đồng, biến cái tôi cá thể, mất tự chủ, phục vụ cho cái tôi giai cấp.

Giáo dục để hướng tới tiêu chuẩn tối ưu, hình thành nhân cách hướng thiện đạo đức không phải là dễ. Muốn được vậy, nền giáo dục không còn khép kín mang tính kinh viện mù quáng – không thực tại, mà phải đầy đủ tố chất nhân bản tự giác vượt trội, nuôi dưỡng sức sống tự chủ, giữ gìn khí tiết, nẩy mầm vị tha, vươn tới nhân văn cộng động, vận hành – thúc đẩy xã hội thăng hoa vươn lên – hiện đại hóa kiến thức – phát triển tuệ giác siêu việt.

Nhân bản là một thế giới quan luân lý giá trị nhân văn, bao dung tự chủ cộng sinh, tự tin vững vàng – mạnh mẽ – sáng tạo. mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật duyên sinh giả hợp. Thao thức – tâm huyết, quyết định dấn thân, đảm trách sứ mệnh đi tìm chân lý trung hòa – ánh sáng đạo đức tương hợp, để phụng sự công ích dân sinh. Bác bỏ hệ thuộc siêu nhiên, chối từ ngoại giới mơ hồ, lý thuyết vong bản vô tưởng. Tập trung nâng cao đặc tính bản chất tìm tàng, khắn khít tình người, tôn trọng phẩm giá – nhân chủ – tự do con người.

Muốn hoàn thiện nhân cách, hoàn thiện bản thân. Đến với GĐPT để chọn cho mình một pháp môn tu, nhằm mục đích thanh lọc tam nghiệp, tịnh thân, định ý. Sau khi đã được tự giác, sẽ thực hiện giác tha, để đạt được giác hạnh viên mãn.

GĐPT là một tổ chức giáo dục, muốn hướng thiện được tha nhân, đòi hỏi mỗi nhân thân phải đầy đủ thân giáo, khẩu giáo, ý giáo. Phải là một tấm gương sáng, một nhà mô phạm với đầy đủ đạo đức uy nghi, đủ sức truyền tải nguồn năng lượng Phật chất vô biên vào tận mọi ngõ lòng thâm sâu của mỗi nhân sinh. Kiến thức đâu phải bổng nhiên mà có, đòi hỏi phải hội đủ thời gian để dùi mài, đào luyện. Bỏ tu, bỏ học, bỏ bậc, bỏ trại nửa vời, không có quá trình sinh hoạt lâu dài với tổ chức, thì chỉ có mai một, lạc hậu, làm sao mà đuổi bắt theo kịp với thời gian, làm sao đủ năng lực, đủ bản lĩnh, nhất là làm gì có đủ tinh thần trung kiên, đủ niềm tin son sắc vào tổ chức, đủ nghị lực vô úy để mà lãnh đạo cầm đoàn, điều hành một đơn vị GĐPT sở tại, lội ngược dòng đời, góp phần làm thanh sạch, thiện hóa xã hội.

Huynh trưởng GĐPT nỗ lực tu học, thực tập tinh thần siêu việt Duy Ma Cật, từ đó tỏa sáng sức sống diệu kỳ, mạnh dạn bước vào thế giới tâm linh sinh động, kiến giải, làm toát lên sự trong sáng tuệ giác, hiển bày bản nguyện, nâng cao phẩm giá, hun đúc ý chí, thành tựu thảnh thơi giải thoát đến vô cùng.

“Chư Phật và Bồ tát có pháp giải thoát Bất tư nghì. Khi Bồ tát trụ nơi pháp, đem núi Tu Di (Sumeru) để vào trong một hột cải vẫn không dư không thiếu. Hình dạng núi Tu Di cũng không biến đổi, trời Tứ thiên vương và chư thiên cõi trời Ba mươi ba (Ðao Lợi) cũng không biết là mình vào trong đó. Chỉ những bậc Ứng hợp độ thế mới có thể biết rằng núi Tu Di đã được đem vào trong hạt cải. Ðó là pháp môn Bất tư nghì giải thoát”.

Đạo Phật xuất hiện từ một thực tại vô ngã, từ trạng thái hữu ngã vô minh, đoạn trừ phiền não, thể nhập biện chứng nhân bản, giác ngộ, ngã không, giải thoát. Có, không, còn, mất, hơn, thua. Dù trong nguy khó là vậy, nội ma ngoại chướng vây bủa nghìn trùng. Người Huynh trưởng PT thực tập, tu học, phát nguyện vững chãi, gánh vát gian nan, an nhiên tĩnh tại, vô úy đi tới, giữ vững tay chèo, cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, đưa con thuyền GĐPTVN cặp bến bình yên.

Ngoài trí tuệ và năng lực hiện thực, người Huynh Trưởng thiện tri thức, còn phải có tâm huyết thiết tha, nồng nhiệt. Với cái tâm hết lòng vì tổ chức mà phụng sự, mang lại một giá trị đích thực cho cuộc sống.

“Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.

Người Huynh trưởng Phật tử, là người có đầy đủ kiến thức về cuộc sống, không mụ mẫm trước niềm tin thiếu kiểm chứng. Vào đời với biết bao thao thức, khát khao đi tìm một định hướng sống mới mẽ thiết thực, chuyển hóa tự thân , thăng hoa tốt đẹp cuộc đời.

Người thiện sĩ Huynh trưởng GĐPTVN, vững vàng trong thế đứng thẳng tắp, với tấm lòng vị tha bát ngát vào đời, vì tha nhân mà phụng sự. Chọn tuổi trẻ làm đối trọng để khai thị tuệ giác. Chọn nhân sinh làm nấc thang thăng tiến, kiến thiết một xã hội công bằng an lạc. Mỗi tham vọng, mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm từ dục vọng thấp hèn, từ hận thù nghi kỵ, từ ganh tị hơn thua, xô đẩy nhau đọa đày đau khổ.

Người Huynh trưởng GĐPT biết nhóm lên ngọn lửa thương yêu, đem lại niềm tin yêu và vui sống cho mọi người, xua tan đi mê mờ kiến chấp.

Người Huynh trưởng GĐPT, là người nghệ sĩ biết rung cảm trong từng mỗi suy tư, sáng tạo nên những công trình nghệ thuật vĩ đại, đáp ứng vẹn thỏa những khát khao thưởng thức nét đẹp tâm linh thanh thoát.

Người Huynh trưởng GĐPT, là người biết dóng lên những hồi chuông tự tại ngân dài, như những đợt sóng hải triều âm, làm lắng xuống vạn lòng thanh thoát.

Người Huynh trưởng GĐPT, là một chiến sĩ trên mặt trận tâm linh, một kỹ sư tâm hồn, một thiền sinh đang đối mặt trước thực tại vô minh, thắp sáng trí tuệ. Phải luôn luôn nỗ lực, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng GĐPTVN hướng về phía trước. Không lùi bước khi nhắm vào mục phiêu cứu cánh, không xuê xoa trước những sai trái đời thường, không chùn bước trước những xuyên tạc, những rắp tâm bẻ cong chân lý. Trên hành trình đi tìm lẽ sống, mỗi trở ngại, mỗi gian nan, đều có giá trị riêng của nó. Nếu đường đời mà bằng phẳng cả, thì khó mà đánh giá được giá trị, là vốn sống dài lâu.

Sự hội ngộ giữa Văn Thù và Duy Ma Cật là cuộc gặp gỡ giữa đỉnh cao của thanh tịnh và trí tuệ, làm đảo lộn cái thấy đoạn kiến hạn cục, rơi rụng vô minh phiền não. Từ cái tri thức khái niệm mù mờ sanh diệt đạo đoạn, thấy được cái không hiểu được, tịch diệt vắng lặng, khó diễn tả bằng ngôn ngữ, đó là bất khả tư nghì !

Phật tính được lan tỏa từ đức hạnh thanh khiết, không biểu hiện phô trương bằng sắc tướng dị biệt, nhưng mở rộng đầy đủ diệu hữu, an trú pháp không, thành tựu trang nghiêm công đức.

Đứng trên hiện tượng còn vướng mắc vọng niệm nhiễm trước không tưởng, không có lý do tồn tại mà diễn bày Phật pháp, là phản tác dụng giáo dục, chỉ dẫn đến thế gian pháp, mơ nằm trong mơ. Trong dục vọng vẫn còn có ươm mầm trí tuệ, nếu sự ham muốn được hướng đến từ bi vị tha, thì dục vọng được chuyển hóa thành hạnh phúc an lạc hoàn toàn.

Huynh trưởng GĐPT thực tập tu học Phật pháp đứng trên lập trường chánh niệm bất tư nghì, vượt lên trên nhị nguyên, mới cảm nhận được sự thật chuyển biến từ sâu thẳm. Hương vị giải thoát được toát lên, chỉ có người khát nước, khi hớp tùng ngụm trà sen, mới thẩm thấu, thấm đẫm được hương vị mát dịu đậm đà của nước, hạnh phúc thật sự thật bình dị nhẹ nhàng thanh thoát.

Tư tưởng Bất tư nghì là hướng nhìn mới, thông thoáng, không hạn cục giữa nhân và ngã. Thấy tâm còn bệnh, thì tìm cầu thiện tri thức để được khai thị, thấy kiến thức còn khiếm khuyết, thấy đức hạnh còn hèn kém, thì nỗ lực tinh tấn rèn luyện vươn lên. Thấy tha nhân còn tha hóa lạc lõng, thấy người cần phải độ, phát tâm tích cực kiên cố lập chí hành hoạt phật sự chuyển hóa dung nhiếp đến toàn thiện. Phương tiện diệu thủ tạo nên mãnh đất phì nhiêu, giúp tha nhân gieo trồng hạt giống bồ đề kiên cố. Đem vật lý tòa sư tử vô ngại đặt vào đúng nguyên vị “Ưng vô sở trụ” bình đẳng.

Nhân thức hiện tượng nhị nguyên mà có uế có trược, có tịnh và bất tịnh. Bởi ý niệm sai biệt, cắt xén thực tại thành những mãnh vụn rời rạc nhằm phục vụ cho dục lạc đam mê vị kỷ. Nhưng mặt trái của thỏa mãn nhất thời là nỗi nhàm chán rây rức nhứt nhối triền miên, khi đối mặt chạm trán với thực tại chông gai gian khó làm chùn lòng thối chí đau khổ tột cùng.

Từ tục đế tỉnh thức, thể nhập bản chất như thật sinh diệt, trên dưới, thấp cao của thế giới khái niệm hữu hạn khách quan. Đạt được chân đế bất nhị bình đẳng nhất quán kỳ diệu toàn triệt “Tâm tịnh thế giới tịnh” ./-

Định Hướng Sinh Hoạt

GĐPT Rời cuộc sống tha phương để chuẩn bị cho chuyến hành trình mới… chúng tôi gồng gánh trở về lại cố hương. Sau 1975, phí Bắc Bình Thuận, vào những thập niên 80 – 90 sinh hoạt GĐPT nơi này hầu như tan rã tắt lịm.

Sức sống diệu kỳ “sinh hoạt Gia Đình Phật Tử” luôn luôn hừng hực bùng cháy trong trái tim nóng hổi – tôi tìm phương cách tùy duyên tái sinh hoạt GĐPT. Tôi tìm cách liên lạc với Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận (trước 1975, tỉnh Bình Thuận chưa sáp nhập tỉnh Bình Tuy). Vào dịp lễ đặt đá xây dựng lại trường trung cấp Phật học Bình Thuận, nhận được lời mời của Ban tổ chức, chúng tôi lên đường tham dự. Trên mình tôi, chiếc Áo Lam lẻ loi giữa biển người mênh mông. Tôi bắt gặp các anh: Tâm Quang Nguyễn Văn Mẫn, Lệ Duy Phạm Dự (thành viên BHD GĐPT Bình Thuận trước 1975), gặp được nhau chúng tôi tay bắt mặt mừng chào hỏi nhau. Thấy các anh mặc áo sơ mi trắng, tôi chỉ tay vào áo của mình hỏi: Tại sao các anh không có Lam ! Các anh chỉ vào áo trắng của mình trả lời: Chúng tôi thích màu áo này ! tôi ngỡ ngàng. Sau vài câu chuyện xã giao, chúng tôi vội vàng cáo từ.

Vào dịp Lễ Phật Đản, chùa chúng tôi tổ chức đoàn về chùa huyện hội tham dự tại lễ đài chính. Thấy tôi có chung màu áo Lam các anh chị tại địa phương, Nam áo lam quần dài – Nữ áo dài lam ùa đến mừng rỡ bắt tay, qua câu chuyện, chúng tôi biết các anh chị là giáo viên – là Huynh trưởng – Đoàn sinh trước 1975, ước muốn tái sinh hoạt lại GĐPT, tôi hoan hỷ đồng tình, hẹn ngày chủ nhật hằng tuần về đây cùng nhau xây dựng GĐPT. Thế là GĐPT Thiện Định được hình thành.

Năm 1995, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra Thông bạch 455/TB-HĐTS ngày 21/7/1995 hướng dẫn việc thực hiện việc quản lý sinh hoạt GĐPT. Năm 2001, Phân ban HHD GĐPT Bình Thuận (phía Bắc Bình Thuận) ra đời. Các anh chị Huynh trưởng GĐPT Thiện Định, trước 1975 sinh hoạt cùng BHD GĐPT BÌnh Thuận, nay thấy các anh chị của mình thành lập Phân ban HHD GĐPT, đồng lòng đăng ký. Tôi không đồng tình, sau khi thuyết phục không được tôi rời khỏi GĐPT Thiện Định.

Nhận lời mời của thầy Trưởng ban pháp chế huyện hội mời tham gia Ban tổ chức và giao nhiệm vụ MC điều hành chương trình lễ lạc thành chùa, trong thời gian này – tại đây tôi tiếp xúc nhiều Thanh niên thường xuyên đến chùa lễ Phật tụng kinh – làm công quả, tôi tranh thủ trao đổi Phật pháp – gieo ý thức hướng thiện – phụng sự đạo pháp hướng đến hình thành tái sinh hoạt GĐPT Thiện Duyên, chúng tôi tổ chức đêm văn nghệ cúng dường lễ lạc thành. Sau lễ khánh thành chùa, tôi tiến hành tổ chức Trại A Nô Ma – Ni Liên khóa đào tạo Đội – Chúng trưởng, thu hút trên năm mươi trại sinh. Chúng tôi đang tiến hành đồng phục và đội ngũ hóa Ngành Thanh (chưa có Ngành Thiếu và Ngành đồng). Không biết lo sợ điều gì – không chịu tìm hiểu – không biết lắng nghe, sau khi tác động với thầy trụ trị, vào một đêm tối trời CA đột nhập chùa, với lý do cư trú bất hợp pháp họ trục xuất tôi ra khỏi chùa.

Về lại chùa làng, tôi đến gặp thầy chánh đại diện (lúc bấy giờ chưa có chức danh Ban trị sự) huyện hội và cũng là Phó Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Thuận, được sự đồng ý, chúng tôi tổ chức văn nghệ cúng dường Phật Đản – Vu Lan – văn nghệ quần chúng tại địa phương, qua đó chúng tôi vận động tập hợp trên 30 Thanh – Thiếu niên Nam – Nữ, mở Trại A Nô Ma – Ni Liên (Đội – Chúng trưởng) chuẩn bị tái sinh hoạt GĐPT Thiện Lương. Trại đang tiến hành trong niềm hân hoan phấn khởi kỳ vọng của đồng bào Phật tử. Chính quyền địa phương tác động, thầy buộc phải dừng lại – không cho tái sinh hoạt GĐPT Thiện Lương. Thầy chánh đại diện thuộc hệ phái Cổ Sơn Môn – có gia đình riêng – không trường chay – hành nghề thầy cúng. Có lần chúng tôi tổ chức khóa tu Bat Quan Trai cho cư sĩ Phật tử, chúng tôi cung thỉnh thầy thuyết pháp, trong thời thính pháp, có lẽ do không có tu học – không thẩm thấu giác ngộ Phật pháp, thầy giảng về ý nghĩa Bát Quan Trai: Bát là tám – Quan là ánh sáng hào quang chớp qua xẹt lại, Trai là ăn chay…

Có lẽ thấy được khả năng tập hợp Thanh – Thiếu niên, ông chủ tịch Hội Chữ Thập Đỏ đến gặp và trao đổi với tôi mong muốn thành lập Đội xung kích Chữ Thập Đỏ. Nhận thấy đây là công tác xã hội – nhân đạo đúng với năng khiếu – sở trường của mình, tôi nhận lời. Tại những buổi sinh hoạt Thanh niên địa phương, tôi tiếp cận trao đổi nói lên tinh thần nhân đạo và sinh hoạt cộng động, sau gần một tháng vận động, nhiều Thanh niên (Nam – Nữ) hưởng ửng đăng ký tham gia Đội xung kích CTĐ. Chúng tôi vận dụng sinh hoạt vòng tròn – hoạt-động-thanh-niên tạo nên sân chơi sinh thú hấp dẫn thu hút trên bảy chục Thanh niên tham gia. Chúng tôi tổ chức nhiều chương trình văn nghệ quần chúng tại địa phương và đem trống đi đánh xứ người – lưu diễn tại nhiều địa phương khác nhau.

Có lẽ do lý lịch tốt – có trình độ học thức cao và đã từng là giáo viên giảng dạy – là cán bộ quản lý ngành giáo dục huyện, các hoạt động an sinh tại địa phương, các tổ chức ngành – đoàn thể – chính quyền và cấp ủy đảng tại địa phương đều muốn nghe ý kiến tư vấn của tôi. Có lần anh Bí thư đoàn địa phương tổ chức khóa bồi dưỡng cảm tình đoàn, qua hơn một tháng, chỉ lèo tèo vài Thanh niên quần chúng đăng ký học, anh bức súc gặp chúng tôi, khó từ chối được. Các buổi sinh hoạt Thanh niên tại các thôn ấp, tôi được trịnh trọng mời đến, qua các đề tài diễn thuyết tôi lồng vào những bài thơ những mẫu chuyện hài về tình yêu trong sáng – về tinh thần dân tộc yêu quê hương đất nước, tôi nhận được nhiều tràng pháo tay phấn kích – hưởng ứng nhiệt liệt. Thế là lớp cảm tình đoàn có được gần một trăm Thanh niên (Nam – Nữ) tham dự.

Nhận được lời mời của Ban trị sự Phật giáo tỉnh, về việc tổ chức cái gọi là ngày hội xem xét – góp ý Nội Quy – Quy Chế GĐPT. Tôi đồng phục nghiêm chỉnh về tỉnh hội dự hội. Tại cuộc họp tôi bắt gặp cả một rừng Lam, mới biết được có Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận, do quý anh chị phía Nam Bình Thuận (Bình Tuy) lãnh đạo – điều hành. Tối hôm đó chúng tôi gặp nhau chia sẻ tâm tình cùng các anh Trưởng BHD – anh Phó Tổng thư ký và anh Bổn Đồng-Phạm Lợi. Tôi mừng mừng – tủi tủi như người con thơ dại sau những năm tháng lưu lạc tha phương bây giờ gặp lại được êm ái ấm cúng trong vòng tay mẹ hiền thân yêu, tôi gặp lại đúng hệ thống truyền thống GĐPT, thế là tôi đã có điểm tựa tinh thần – an trú vững chãi, tiếp tục tu học – sinh hoạt lại từ đó ./-

Lam Nhã Thảo Am, 09102567 – 21112023.

Thân Cận Xứ

Trong sinh hoạt GĐPT, chúng tôi được phân công làm công tác Lãnh đạo. Chúng tôi được tổ chức điều động trãi qua 4 đơn vị GĐPT – 4 ngôi Chùa.

Trong những thập niên 80 – ảnh hưởng một thời bao cấp lạc hậu – tối tăm – tồi tệ !

Chúng tôi đến đây, phố núi thưa thớt đìu hiu, cư dân nghèo nàn cơ cực. Với chiếc xe đạp cọc cạch chạy quanh khắp các ngã phố. Được người dân ở đây hướng dẫn, chúng tôi tìm đến, Chùa chỉ còn là một kho bãi. Tìm hiểu những vị cao niên, được cho biết:

Kể từ sau 1975, chùa không còn bóng dáng Tăng Già – người dân âu lo không dám đến Chùa. Nhà nước địa phương chiếm dụng, ngôi Chùa trở thành kho chứa hàng hợp tác xã mua bán.

Sau nhiều lần tới lui thăm viếng, vận động – động viên bà con địa phương xin lại ngôi tín ngưỡng. Trãi qua một thời gian dài nhọc nhằn – gian nan, cuối cùng cũng được toại nguyện.

Sau nhiều ngày thui thủi – tích cực dọn dẹp vệ sinh – lau sạch tượng Phật – hương trầm xông ngát – tiếng chuông chùa lại được ngân nga đầm ấm, như giục giã lòng người tục lụy, quên đi hư vinh, mau chóng quay về bờ giác.

Dưới ngọn đèn dầu tù mù – leo loét, tiếng chuông – tiếng mõ – tiếng kinh trầm lặng – lẽ loi – đơn độc, ê a gọi thức bao đêm. Rồi dần hồi cũng rung động – cảm ứng lòng người. Ban đầu là những trẻ em hiếu kỳ, rồi đến những người lớn tuổi. Được động viên – được phân tích nhân quả – thiện ác – tội phước, ai nấy đều hẹn nhau, hằng đêm về chùa lễ Phật – tịnh độ cầu kinh. Sau thời kinh, chúng tôi quây quần bên tách trà xanh đàm đạo – trao đổi Phật pháp, lâu dần thành nề nếp, không đêm nào thiếu vắng được. Những đêm thứ Bảy – Chủ Nhật, sau thời kinh tịnh độ, chúng tôi tập hợp các em lại, tập cho các em những bài hát sinh hoạt, kể cho các em nghe những mẫu chuyện đạo và sinh hoạt vài trò chơi nhỏ. Nhiều Bác đạo hữu thấy vui, cũng thích thú hòa mình tham gia.

Sau đại lễ Vu Lan Báo Hiếu được tổ chức hoành tráng, chúng tôi tập họp các em – tay trong tay, hát lại bài ca:

“Chúng ta là chim bốn phương bay về đây…

“Đây gia đình cùng nhau chung thân ái…”.

Để rồi năm sau, mùa Phật Đản về. Trước ngày Đại Lễ, chúng tôi mời quý Bác đạo hữu có uy tín trong làng, hình thành Ban Hộ Tự, thống nhất cử chúng tôi làm thư ký. Và tập hợp những Huynh trưởng – Đoàn sinh trước năm 75 có tham gia sinh hoạt GĐPT, hình thành Ban Huynh Trưởng, thống nhất cử chúng tôi làm Liên Đoàn Trưởng (mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi chưa qua bậc tu học nào – chưa qua trại huấn luyện nào và dĩ nhiên là cũng chưa có có cấp). Chúng tôi vận động các nhà hảo tâm tài trợ, cùng nhau thực hiện vườn Lâm Tỳ Ni – trang trí Lễ Đài rực rỡ. Tổ chức may cờ GĐPT – may áo lam. Gấp rút thực hiện một chương trình văn nghệ hoành tráng.

Trong ngày Đại Lễ Phật Đản Sinh – ngày trọng đại ra mắt GĐPT, trong niềm hoan hỷ vô biên, tất cả chúng tôi, gần 60 anh – chị – em đều đồng phục tề chỉnh, lá cờ nền xanh – Hoa sen trắng tung lượn phất phới. Một buổi lễ Đoàn được chính thức cử hành trang trọng trong xúc động tràn trề – nghẹn ngào nước mắt. GĐPT gần 20 năm bị chựng lại, giờ đây được tái sinh hoạt! Từ đó, chúng tôi đưa màu Áo Lam đi khắp các Chùa – đến các địa phương sinh hoạt – vận động tái sinh hoạt lại các đơn vị GĐPT.

Có lẽ các Anh – các Chị, trong mỗi chúng ta, ai nấy đều nhớ lại cái thuở ban đầu ấy!… Ai mà không ngậm ngùi rơi nước mắt khi nhìn thấy lại màu cờ – sắc áo thân thương, cứ ngỡ rằng đã bị vùi dập mai một với thời gian mưa sa – bảo táp. Trong khó khăn là vậy, ai nấy cũng ẩn nhẫn dùi mài ý chí, tự giác vận động tự thân vươn lên dưới mọi hình thức, để cho mầu cờ – sắc áo kỳ vĩ được sống mãi. Thế là chúng ta đã được sống – tự sinh – tự tồn…

Nhưng hôm nay thì sao ?

Một dấu hỏi to lớn đang được đặt ra, một công án thách đố ý chí mỗi Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPTVN !

Chúng ta đang đối mặt trước vô vàn khó khăn (lòng người tráo trở – khúc mắc), một thách thức lớn trước thời cuộc, một sa bàn của một trò chơi lớn đang được mở ra trước mắt, đòi hỏi mỗi tự thân phải có đủ năng lực huyền nhiệm, để kiến giải – chuyển hóa – định hướng đường về ?!…

Sau năm 1986, nhà nước VN mở cửa, mở rộng tầm mắt nhìn ra thế giới bên ngoài – kinh tế tư sản dần hồi phục hồi – phát triển.

Trong giai đoạn mở rộng lộ giới, mặt tiền Chùa bị thu hẹp. Chúng tôi tư vấn, Ban Hộ Tự và đồng bào Phật tử địa phương nhất trí ủng hộ, đất Chùa được chia lô – sang nhượng lại. Nhờ nguồn tài chánh này, chúng tôi chọn mua một đồi cây bên ngoài khu dân cư và tiến hành xây dựng Chùa mới. Ai nấy đều than thở: Chùa nằm giữa khu phố – đông dân cư, còn ít người lui tới, bây giờ dời Chùa xa khu dân cư, lại ở trên đồi cao, không biết có còn ai đến Chùa ? Chúng tôi hết lòng – tùy duyên trấn an, mọi người ai nấy phần nào nguôi ngoai.

Đến ngày khởi công, GĐPT nhận nhiệm vụ san mặt bằng – đào móng – mở đường – trồng cây tạo cảnh quang. Chúng tôi và Ban Hộ Tự chia nhau đi khắp các thôn – xóm, vận động đồng bào Phật tử, chia thành nhiều đội – nhiều tổ – xoay vòng – tham gia – nhiệt tình công quả. Gần một năm nhọc nhằn – gian khổ trôi qua, ngôi Chùa dần hồi được hình thành – trang nghiêm – thanh tĩnh – đẹp đẽ.

Có lẽ như là duyên định. Sau khi xây dựng Chùa xong, chánh quyền địa phương quy hoạch: Một một công viên – một ngôi chợ mới được mọc ngay dưới chân đồi – phố thị mở ra rộng rãi – đường xá thênh thang – dân cư đông đúc – nhà cửa mọc lên như nấm bao quanh chân đồi. Chúng tôi thường hay nói vui với nhau: Chùa tuy xa mà gần – tuy động mà tịnh. Vì chùa thì ở trên đồi, núp mình dưới những tán lá cây xanh yên tĩnh, còn chợ và khu dân cư tấp nập – náo nhiệt thì ở dưới chân đồi.

Được Thầy Chánh Đại Diện thị hội (lúc bấy giờ cấp huyện – thị chưa có danh hiệu Ban Trị Sự) giới thiệu 1 Thầy thanh tu ẩn cư. Sau 3 lần phái đoàn chúng tôi đến tư am đảnh lễ – thiết tha – thành tâm cung thỉnh, Thầy mới nhận lời – chấp thuận về Trụ trì.

Thực hiện mô hình cơ cấu tổ chức GHPGVNTN. Sau khi trình bày – thỉnh ý, được Thầy thống nhất. Chúng tôi tập họp quý đạo hữu có uy tín, đại diện các thôn – xóm, hình thành các Chúng – Vức cư sĩ Phật tử theo từng khu phố – mỗi khu dân cư. Hưởng ứng cuộc vận động, nhận thấy quyền lợi thích đáng khi tham gia Đạo tràng. Đồng bào Phật tử truyền tai nhau: Nếu không vào Đạo tràng – không về chùa, khi gia đình riêng gặp hữu sự, thì không ai quan tâm – không đến tương trợ – không được giúp đỡ. Thế là, ngoại trừ người theo đạo Thiên Chúa Giáo. Từ những hộ gia đình đã quy y cho đến những hộ gia đình chưa quy y – chưa từng đến Chùa, ai nấy đều lũ lượt – tấp nập đổ dồn về Chùa – nhiệt thành đăng ký tham gia Đạo tràng – Tham gia các Lễ Quy Y. Kể từ đó, những đêm tịnh độ không dưới 1 trăm Phật tử. Chưa nói đến các ngày lễ trọng, chỉ nói đến các ngày Lễ Sám Hối hàng tháng, đồng bào Phật tử về Chùa đông đảo – nườm nượp, chánh điện lớn như vậy mà không đủ sức chứa, phải đứng tràn ra ngoài sân – chung quanh Chùa, hàng hàng lớp lớp nghiêm trang chấp tay – hướng về Đại Hùng Bảo Điện – tâm thành – niệm kinh – làm lễ.

Chúng – Vức nhiều, Đạo tràng đông đảo thì GĐPT cũng khởi sắc. Số lượng Đoàn sinh tham gia sinh hoạt bình thường hàng tuần lên trên 500 – những ngày lễ – ngày trại thì tập trung quá tải. Nhờ đất vườn chung quanh Chùa rộng rãi – thoáng mát, được chia thành nhiều khu vực cho mỗi Đoàn. Lều trại – cổng trại từng Đàn – Đội – Chúng (Nam – Nữ riêng biệt), được dựng dưới những tàng cây rợp mát, cờ xí – đèn hoa giăng đầy – trang trí rực rỡ như từng khu phố thu hẹp, làm khởi sắc – huy hoàng ngày lễ. Những buổi chiều Chủ Nhật sinh hoạt – hoặc các ngày trại lễ, GĐPT đều được quý Cô – Bác đạo hữu thương yêu – ưu ái dành cho bánh trái – những thùng nước chanh – tắc – hoặc sắn dây giải khát và tổ chức những buổi cơm chay đầy đủ – suốt thời gian GĐPT ở lại Chùa.

Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT, ai nấy đều xem Chùa là ngôi nhà thứ 2 – là mái ấm thân yêu của mình, hằng ngày, không hẹn mà lên, ai nấy đều dành thời gian rảnh rỗi lên Chùa công quả, chia nhau dọn dẹp vệ sinh, xới đất trồng rau, tưới cây, chăm sóc vườn hoa – cây cảnh, trồng thêm cây xanh.

Sau khi ổn định cơ cấu tổ chức, chúng tôi tư vấn, được Thầy đồng ý. Dưới sự hướng dẫn của Thầy, chúng tôi tiến hành tổ chức – điều hành các khóa Tu Bát Quan Trai và thực tập quán niệm hơi thở – hướng dẫn tu học Phật pháp trong 1 ngày – 1 đêm, mỗi tháng 2 lần vào các ngày 14 – Rằm và 30 – Mồng Một hàng tháng. Số lượng cư sĩ Phật tử tham gia mỗi khóa tu giao động trên 7 – 8 trăm người. Ngoài số Huynh trưởng – Đoàn sinh tham gia khóa tu, các chị Ngành Thanh lớn tuổi nhận nhiệm vụ Trai soạn (nấu ăn), các em Ngành Thanh tuổi trẻ tham gia Hành đường.

Các ngày lễ trọng trong năm: Tết Nguyên Đán – Phật Đản – Vu Lan – Giỗ Tổ khai sơn (chùa cũ) – Trai Tăng – Trai Đàn Chẩn Tế, Thầy là Trưởng Ban – anh Liên Đoàn Trưởng là Phó ban điều hành Tổ Chức, tất cả Huynh trưởng và Đoàn sinh – cùng đạo hữu bổn tự tham gia trong các Tiểu Ban – Ban Tổ Chức. Trong suốt thời gian trước và sau tổ chức Lễ, GĐPT tích cức phục vụ hoàn thành các phật sự được giao. Sau khi đồng bào Phật tử thập phương trai phạn xong, thì GĐPT mới cùng Thầy thọ trai, những buổi thọ trại này, lần nào cũng vậy, đều được nhà trù – ban trai soạn thiết đãi đặc biệt ngon hơn.

GĐPT là cánh tay đắc lực, luôn luôn sát cánh cùng Thầy trong mọi hoạt động của Chùa. Mỗi lần Thầy cần – chùa có hữu sự, là GĐPT sẵn sàng có mặt. Cho nên GĐPT luôn luôn được Thầy yêu thương – cư sĩ Phật tử quý mến. Mỗi lần GĐPT tổ chức cứu trợ, tổ chức trợ cấp học bổng cho học sinh là Đoàn sinh nghèo, tổ chức các sinh hoạt quan trọng – hay đi sinh hoạt – phật sự xa, chúng tôi vào thưa trình, được Thầy hoan hỷ mở hầu bao trợ cấp, được quý Bác đạo hữu – mạnh thường quân vui vẻ ủng hộ. Mỗi lần Ban Tổ Chức Hội Chợ địa phương, mời GĐPT tham gia tổ chức các gian hàng trò chơi, hoặc GĐPT tổ chức Hội Hoa Xuân tại Chùa – gian hàng trò chơi – lô tô hoặc xổ số nhận thưởng, đều được quý đạo hữu mạnh thường quân, chủ các cửa hàng hoan hỷ – sẵn sàng – tích cực đưa các mặt hàng hóa đến từng gian hàng để hỗ trợ, qua Lễ Hội mới thanh toán – nếu hàng còn tồn đọng, vẫn vui vẽ nhận lại.

Qua đây cho thấy, muốn tổ chức một ngôi chùa mạnh – một GĐPT mạnh, thiết nghĩ không khó. Với tinh thần Thân Cận Xứ – với tấm lòng vị tha cao cả – với tâm Bồ đề kiên cố, với lý tưởng son sắc, biết găn bó – hy sinh cá nhân, biết tổ chức –- biết tập hợp, có kế hoạch – có ý chí – sẵn sàng gánh vác gian nan, thì việc gì cũng làm nên – kết quả thành toàn viên mãn.

Trong giai đoạn khủng hoảng – tranh tối tranh sáng, một vài anh chị em quay lưng, Phân ban GĐPT thọc sâu tạo mâu thuẩn chia rẽ nội bộ, đa số Đoàn sinh bi lôi kéo sang Chùa tỉnh hội sinh hoạt Phân ban. BHD điều động chúng tôi về đây.

Quan điểm của chúng tôi, khi đi đến bất cứ nơi đâu, bất cứ ngôi Chùa nào. Muốn phát triển một đơn vị GĐPT, điều tiên quyết là phải thực hiện tinh thần “THÂN CẬN XỨ”, phải tiếp cận chư tôn đức tại trú xứ – tạo sự tín nhiệm ở quý Thầy. Thầy thương – thầy mến, thầy xem chúng ta là một phần thân thể vốn có – không thể thiếu, mọi tổ chức – hoạt động – sinh hoạt của Chùa – Thầy đều cần đến sự có mặt trợ duyên của chúng ta.

Vào năm 1996, chúng tôi về đây, chùa Đạt Ma – thành phố Phan Thiết – Bình Thuận. Với tâm nguyện phụng sự tổ chức Áo Lam – phụng sự Đạo pháp – phụng sự dân tộc. Trên chiếc xe 4 chỗ quá date – cũ mèm, đã cọc cạch đưaThầy trò chúng tôi lủi thủi đi đến các Chùa, trong các thành phố – thị xã – huyện – xã trong tỉnh, vận động chư tôn đức Tăng – Ni để hình thành Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận. Sau khi được chư tôn đức hứa khả, thống nhất cử chúng tôi làm Thư Ký Ban Đại Diện. Hòa thượng Trưởng Ban tiến hành tập hợp tổ chức các phiên họp hàng tháng. Đa số chư tôn đức Tăng – Ni và cư sĩ Phật tử tham gia BĐD lúc bấy giờ, hiện nay vẫn còn đó, tấm lòng trung trinh vẫn luôn luôn hướng về.

Trên chuyến xe bôn ba đây đó, có lần Thầy cho xe ghé lại tư gia chúng tôi. Bà xã chúng tôi lăng xăng cúng dường nước và bánh – trái mời Thầy thọ thực. Thầy ngỏ lời động viên:

  • Anh Nguyên Hoàng (pháp danh chúng tôi) tham gia nhiều phật sự, thường xuyên đi cùng Thầy. Cô hoan hỷ để cho anh đi làm việc Phật. Anh Nguyên Hoàng làm việc Phật là lập hạnh Bồ Tát. Nhưng cô mới là một vị Bồ Tát tại gia đáng quý, nhờ cô ủng hộ – hoan hỷ giúp đỡ mọi điều kiệu và cô ở nhà tận tụy lo toan gánh vác mọi công việc gia đình, để cho anh Nguyên Hoàng an tậm đi theo Thầy làm tròn phật sự !

Bà xã tôi chấp tay cung kính Mô Phật – y giáo – đảnh lễ Thầy.

Ở đây, không như các vùng nông thôn hay huyện – thị, mỗi địa phương có một ngôi Chùa. Chùa ở đây nằm trong lòng thành phố. Trong thành phố có rất nhiều ngôi Chùa, mỗi phường cũng có vài Chùa. Người cư sĩ Phật tử ở đây về Chùa tùy thích, mỗi nhóm cư sĩ Phật tử ở mỗi phường khác nhau, mến – thích Thầy nào là về Chùa đó, không có ranh giới – mà liên kết với nhau dưới dạng da beo – không tập trung. Chúng tôi nhận thấy tổ chức loại hình chúng – vức cư sĩ Phật tử khó thực hiện được.

Chúng tôi quay ra – hằng tháng tổ chức khóa tu Bát Quan Trại kết hợp tu Chánh Niệm (quán niệm hơi thở) – thọ trai dưới hình thức khất thực (tự chọn).

Thời gian đầu, giới tử tham gia khóa tu vài chục cư sĩ Phật tử thường xuyên về chùa tịnh độ hằng đêm. Có lẽ do tiếng lành đồn xa, có lẽ hình thức tu tập mới lạ tại địa phương, có lẽ do quá trình thực tập có kết quả an lạc thực tại trong đời sống. Cư sĩ Phật tử ở các Chùa khác trong thành phố đổ dồn về tham gia tu tập, mỗi khóa tu có số lượng lên đến 7 – 8 trăm người.

Trong thời điểm đó, tôi có nghe quý vị cư sĩ Phật tử thân quen nói lại, Hòa thượng Trưởng ban Trị Sự Phật Giảo tỉnh nói:

  • Ông HT về đây thu hút hết Phật tử Chùa tỉnh hội và các Chùa khác trong thành phố.

Về phía chánh quyền gọi chúng tôi là: Nhà hoạt động tộn giáo từ đó.

Trong những khóa tu, tiếp xúc với chúng tôi, nhận thấy có nhiều thành phần xã hội, từ những anh – những bác cư sĩ Phật tử trong giới xe xích lô – xe ba bánh, đến các em học sinh cấp 2 – cấp 3 – sinh viên, có những vị cư sĩ Phật tử là giáo viên – kỹ sư – bác sĩ – thương gia V.v… mỗi người đều thể hiện tự thân tỉnh thức – nhiệt thành tham gia khóa tu. Sau mỗi năm, chúng tôi tổ chức tổng kết mãn khóa dưới hình thức truyền đăng mới lạ – hấp dẫn, mỗi người ai nấy đều nhận lại một cuốn sổ ghi nhận kết quả tu học – thực tập trong năm, làm cho giới tử ai nấy đều nhiệt thành – phấn khởi – thích thú.

Hằng năm, sau lễ Vu Lan, kết hợp cùng Thầy viện chủ tổ chức Đại lễ cúng dường Trai Tăng. Hình thành một Ban Tổ Chức khá quy mô – đầy đủ ban bệ. Tiến hành vận động tài chánh – vật thực, dự trù trên 5 ngàn phần ăn – trong đó có phát chẩn bố thí cho người dân nghèo. Chúng tôi tham gia cùng Thầy – đi khắp các Chùa trong thành phố và các huyện, đảnh lễ cung thỉnh đủ 100 chư Tăng về dự. Và tại buổi lễ này hàng ngàn đồng bào Phật tử trong thành phố về dự lễ – cúng dường và thọ trại.

Nhờ kết quả các khóa tu, chúng tôi tiến hành vận động phụ huynh cho con em về tham gia sinh hoạt GĐPT.

Trong quá trình sinh hoạt, chúng tôi tổ chức mỗi Đoàn có từ 2 đến 3 Đoàn Phó (ĐP), chúng tội tận dùng cử làm ĐP các em đang học từ lớp 9 trở lên. Em đang học lớp 9 được cử vào làm ĐP, được chúng tôi bồi dưỡng – thực tập, đến năm lớp 10 các em đã quen dần – biết cách điều hành và hướng dẫn, đến năm học lớp 11 thì các em đã hoàn chỉnh. Khi em đang học lớp 12, đang là Đoàn Trưởng (ĐT), em này tốt nghiệp 12, đi Sài Gòn vào Đại học, thì em đang học lớp 11 lên thay làm ĐT và cứ phải bổ xung như thế để có nhân sự liên tục xoay vòng.

Có một câu chuyện rất hài lòng – đáng nhớ:

Có lần, trong một buổi sinh hoạt, sau giờ học Phật pháp, mỗi Đoàn tách ra sinh hoạt riêng và Đội – Chúng sinh hoạt tự trị.

Chúng tôi vòng tay sau lưng, lững thững đi quanh các Đoàn xem tình hình sinh hoạt. Chúng tôi vừa bước đến phòng của Đoàn Thiếu Nữ đang sinh hoạt, em Đoàn Trưởng – Đoàn Thiếu Nữ bước ra, đi song song bên tôi em nói:

  • Anh HT thấy không, em bây giờ cũng vòng tay sau lưng, và đi lòng vòng cũng giống như anh.

Tôi dừng lại, ngạc nhiên nhìn em, như chợt hiểu ra – tôi bật cười sảng khoái !

Chúng tôi bước trở lại phòng Đoàn Thiếu Nữ đang sinh hoạt, đứng ngoài khung kính nhìn vào, thấy khung cảnh sinh hoạt trật tự – nền nếp. Em Đoàn Trưởng giới thiệu:

  • Các bạn đang thực tập môn nữ công.

Tôi nhìn thấy các em, trên tay mỗi em đang cầm 1 khung thêu, mỗi khung căng 1 mảnh vải trắng, trong đó có lẽ là những cánh hoa sen đang thêu dang dỡ. Em Chúng Trưởng đang đi đến từng bạn, tay chỉ vào khung thêu hướng dẫn. Chúng tôi nhìn sang các Chúng khác ở mỗi góc phòng, thấy mỗi Chúng, Chúng nào Chúng nấy cũng trình tự sinh hoạt y như vậy.

Sau những năm tháng tâm huyết tận tình hướng dẫn, em nỗ lực tu học – rèn luyện – thực tập. Em bây giờ đã được trưởng thành – xứng đáng là một Đoàn Trưởng. Đây là kết quả truyền trao, chúng tôi cảm thấy sung sướng – hoan hỷ vô cùng.

Mỗi tuần sinh hoạt, chúng tôi tổ chức luân phiên mỗi Đoàn trực 1 lần, Đoàn trưởng trực tuần đó, chúng tôi ủy quyền Xử lý Liên Đoàn Trưởng. Các Anh – Chị điều hành từ A đến Z tất cả mọi sinh hoạt của đơn vị trong tuần trực. Nhờ vậy mà Đoàn trưởng nào cũng vững vàng – đủ năng lực quán xuyến tất cả. Mỗi khi có phật sự phải đi xa, chúng tôi rất yên tâm, không phải bận bịu – lo lắng.

Mỗi dịp Đại Lễ Phật Đản – Vu Lan, GĐPT đều tổ chức đêm văn nghệ cúng dường. Trước đây, mỗi lần tổ chức văn nghệ đều thực hiện trước tiền đường Chùa, phục vụ nội bộ. Khi chúng tôi về đây, chúng tôi xin phép Thầy cho dựng sân khấu lộ thiên ngoài mặt tiền Chùa – bên đường nhựa – giữa khu phố đông đúc dân cư. Nhờ đó, đêm văn nghệ thu hút hằng ngàn quần chúng tham dự, đứng tràn lan đầy đường – trên hè phố, làm cho nguồn thu lớn lao vô cùng.

Hằng năm chúng tôi đều tổ chức lễ Chu Niên đơn vị. Cứ 1 năm thì tổ chức nội bộ – trong đơn vị – trong phạm vi Chùa, 1 năm thì tổ chức rộng rãi, mời tất cả các đơn vị GĐPT trong toàn tỉnh về tham dự. Năm nào tổ chức rộng rãi, thì chúng tôi lo lắng chu toàn hơn. Chúng tôi hình thành 1 Ban Tổ Chức quy mô lớn, đầy đủ các ban bệ phục vụ. Khi tổ chức lớn, thì yêu cầu phải có nguồn tài chánh lớn để chi phí các mặt tổ chức, trong đó nguồn chi phí cho ẩm thực là lớn nhất. Nhờ vào đạo tràng khóa tu cư sĩ Phật tử nhiệt tâm ủng hộ và tham gia hỗ trợ các mặt, cho nên tổ chức năm nào cũng thành công viên mãn.

Lễ Chu Niên, trong vườn dừa rộng rãi, chúng tôi tổ chức chia ra nhiều khu vực trại: Trại trung tâm, khu vực mỗi Đoàn Nam – Nữ riêng biệt. Trước khu vực trại mỗi Đoàn có 1 cổng trại, có giây găng chung quanh làm hàng rào, chia ranh giới. Trước mỗi lều Đàn – Đội – Chúng đều có 1 cổng trại – trong mỗi lều đều có thiết trí 1 bàn Phật trang nghiêm, hoa – quả đầy đủ.

Có một phòng triển lãm, được chia ra làm nhiều khu vực trưng bày sức sống của Đơn vị – của mỗi Đoàn – mỗi Đàn – Đội – Chúng. Trước đó, các ngày Chủ Nhật, dưới sự hướng dẫn của Đoàn trưởng, các em Đoàn sinh tập trung về Chùa, khẩn trương thực hiện các sản phẩm để trưng bày triển lãm.

Dễ thương nhất là các em Oanh Vũ, Nam có – Nữ có, với bàn tay nhỏ nhắn – xinh xắn, các em đã cặm cụi – chăm chỉ làm ra những sản phẩm theo ý tưởng của riêng mình đã tu học được.

Đêm văn nghệ Chu Niên, chiều hôm đó mưa bay lất phất. Anh Đoàn Trưởng – Đoàn Thiếu Nam phụ trách sân khấu, vào thưa với chúng tôi, cho phép các anh chuyển sân khấu vào trước tiền đường Chùa, lúc ấy chúng tôi đang tiếp chuyện với chị Phó Trưởng Ban Ngành Nữ Ban Hướng Dẫn. Được sự đồng ý, toàn thể Nam Huynh trưởng và Đoàn sinh túa ra, mỗi người 1 tay chuyển sân khấu vào tiền đường. Sau khi anh ĐT bước ra, Chị PTB nhắc nhở chúng tôi:

  • Tại sao anh không ra hướng dẫn cho anh em làm, mà lại để cho AE tự làm có được không vậy ? Tôi nói với Chị:
  • Thưa Chị ! AE tự chủ làm rất tốt. Em xin đưa chị ra xem.

Khi chúng tôi đưa chị đến tiền đường, thấy sân khấu được thiết trí lại, đâu vào đó rất đẹp đẽ. Chị nhận xét – khen:

  • Tôi nhận thấy, Anh hướng dẫn – điều hành đơn vị, tổ chức các mặt sinh hoạt – các hoạt động rất tốt.

Trong quá trình vận động tái sinh hoạt, có 1 em Đoàn sinh Thiếu Nữ. Gia đình em theo Thiên Chúa Giáo, nhưng em xin gia nhập GĐPT. Gia đình em không đồng ý, mỗi ngày Chủ Nhật sinh hoạt, bằng mọi cách, em trốn tránh gia đình để vđến Chùa sinh hoạt. Có lần mẹ em đến Chùa gặp chúng tôi, nói rõ trường hợp và ý kiến của gia đình. Sau khi nghe chúng tôi trình bày tường tận về mục đích hướng thiện con người của tổ chức GĐPT. Bà gọi em vào, nghe ý kiến quyết tâm của em, bà đành nhượng bộ đồng ý, và xin chúng tôi cho gửi gắm con em sinh hoạt GĐPT.

Còn có một em Đoàn sinh Thiếu Nữ, gia đình em từ miền Bắc chuyển vào, cả cha – mẹ đều là đảng viên – cán bộ cấp tỉnh. Mỗi lần đi sinh hoạt, em luôn luôn bị cha – mẹ ngăn cấm, không cho em sinh hoạt GĐPT. Em đến Chùa khóc nấc nở, các bạn đưa em vào Đoàn quán gặp chúng tôi, chúng tôi trấn an, hứa hẹn với em sẽ đến tư gia gặp cha – mẹ em. Được các em Đoàn sinh hướng dẫn, tôi vào nhà gặp cha – mẹ em. Có lẽ như biết trước mục đích, sau khi mời uống nước, 2 ông bà im lặng nhìn chúng tôi. Chúng tôi tình cảm chân thành, trình bày mục đích hướng thiện cao cả của tổ chức GĐPT, và cũng nhằm mục đích góp phần cống hiến hiền tài cho đất nước. Sau khi nghe chúng tôi trao đổi, 2 ông bà im lặng, có lẽ đang suy ngẫm. Ông lên tiếng:

  • Chúng tôi là đảng viên, gia đình không có tín ngưỡng tôn giáo. Từ trước đến nay, chúng tôi chưa từng nghe ai phân tích tỉ mỉ về tinh thần Phật Giáo và đủ sức thuyết phục như anh. Qua lời trình bày của anh, chúng tôi đã nhận thấy được sự lợi ích thiết thực của Phật Giáo. Chúng tôi đồng ý cho cháu tham gia vào GĐPT. Chúng tôi tin tưởng gửi cháu cho các anh, kính mong các anh quan tâm thay gia đình dạy dỗ cháu nên người !

Hai ông bà vui vẻ bắt tay, tiễn đưa chúng tôi ra đến tận cổng.

Hàng tháng, cứ đến kỳ Lễ Sám và các dịp Lễ Phật Đản – Vu Lan, chúng tôi đều thấy 2 ông bà thường xuyên đưa các con của mình lên Chùa tham dự lễ. Những kỳ họp phụ huynh và vào dịp Lễ Chu Niên hằng năm, nhận được thừ mời, 2 ông bà cũng đến đơn vị để dự lễ.

Sau khi ổn định sinh hoạt đơn vị GĐPT, chúng tôi tiến hành vận động thành lập Ban Đại Diện GĐPT liên huyện – thành phố. Chúng tôi được tập thể cử làm nhiệm vụ thư ký.

Hai anh Trưởng và Phó BĐD, có anh sinh hoạt trước 1975 có anh anh mới sinh hoạt sau này. Có lẽ vì lớn tuổi, cho nên hiểu biết về tổ chức không nhiều. Mỗi lần chúng tôi lên đề án tổ chức sinh hoạt, vì muốn được việc – đạt kế hoạch trong năm, với chiếc Vetba cà tàng, chúng tôi phải đến tận tư gia từng anh để tư vấn – xin ý kiến cụ thể, sau khi được thống nhất, mới tổ chức phiên họp trển khai phật sự, thành lập Ban Tổ Chức – Ban Quản Trại V.v…. Những năm tháng ở đây, chúng tôi cùng nhau kết hợp các đơn vị GĐPT, tổ chức nhiều khóa tu học các bậc học, tổ chức Trại Dũng, Trại Hạnh, trại dã ngoại vượt núi cao, trại huấn luyện Tuyết Sơn – Đầu – Thứ Đàn, Trại huấn luyện A Nô Ma – Ni Liên Đội – Chúng Trưởng, và Trại huấn luyện Huynh trưởng sơ cấp Lộc Uyển …

Năm 2004, chúng tôi được Ban Hướng Dẫn chuyển sinh hoạt về đây, chùa Huyền Long – thị xa Lagi – Bình Thuận. Chúng tôi được mời vào làm thư ký Ban Hộ Tự. Khi đến đây, đơn vị GĐPT Khánh Long sinh hoạt lèo tèo vài mươi Đoàn sinh. Do hiểu biết cách tổ chức mà Chư Tôn Đức trước năm 1975 đã chỉ dạy, và chúng tôi đã thực hiện thành công tại một số địa phương. Căn cứ địa giới hành chánh địa phương, chúng tôi chia thành 13 khu dân cư Chúng Cư sĩ Phật tử.

Chúng tôi mới tiến hành thành lập được 2 chúng Cư sĩ Phật tử, đồng bào Phật tử địa phương nô nức về chùa. Mỗi buổi Lễ Sám, ngôi chánh điện lớn như vậy mà không đủ sức chứa, người dân phải đứng tràn ra ngoài sân – chung quanh chùa, chúng tôi hướng dẫn qua loa, mọi người nghiêm trang chấp tay, hướng vào Đại hùng Bảo điện làm lễ.

Hằng tháng chúng tôi tổ chức các khóa tu Chánh Niệm, số lượng Giới tử tham gia thường kỳ lên đến 7, 8 trăm người. Có lần chúng tôi tổ chức Lễ Phóng Sanh Đăng, dự kiến làm 1 ngàn cây đèn hoa. Nhưng khi đến giờ làm lễ, hàng ngàn người dân cả làng đổ xô về chùa. Chúng tôi thông báo trên loa phóng thanh, đồng bào tự động vào các quán bán tạp hóa bên đường, mỗi người tự mua cho mình 1 cây đèn nến cầm tay, có người trên tay không có đèn nến, vì không còn có quán nào còn nến để bán. Số lượng người quá tải, Ban Tổ Chức bó tay không còn xắp xếp được theo từng hàng quy định, người dân đi – đứng tràn lan hết cả con đường to lớn. Đoàn dẫn đầu đã đến cửa biển, cách xa hơn 2 ngàn met, mà cái đuôi vẫn còn ở trước cổng chùa và số lượng người vẫn còn kẹt 2 bên lề đường chưa nhập đươc vào đoàn. Nhận được thông tin, an ninh tỉnh vào gặp chúng tôi, được chúng tôi trấn an, cuộc lễ Phóng Sanh Đăng vẫn trình tự diễn ra tốt đẹp.

Đạo hữu đông thì GĐPT cũng đông, số lượng Đoàn sinh lúc bấy giờ tăng lên trên 2 trăm 5 mươi ĐS. Nếu chúng tôi tiếp tục tiến hành hình thành đủ 13 chúng Cư sĩ Phật tử, thì thử hình dung, số lương Đoàn sinh tăng lên biết bao kể xiết. Sau khi rời quê hương ra đi xuất cảnh, khi chúng tôi trở về lại, nhìn thấy chùa đìu hiu, đạo tràng tu chánh niệm không còn hoạt động, GĐPT rơi rớt còn lại vài chục em. Như vậy thì đủ biết rằng, người H.Tr được giao lại, không đủ khả năng – không điều hành được tổ chức (nhân chứng sống vẫn còn đó).

Tôi tiếp xúc Ban Huynh Trưởng, thì được nghe nói, Sư Cô tham quyền, nhận chức Phó Ban Trị Sự thị xã, nghe lời giáo hội – nghe lời chánh quyền, nhiều lúc Sư Cô đóng cửa chùa, không cho GĐPT vào chánh điện làm lễ, không cho tổ chức trại – không cho tổ chức văn nghệ vào các dịp lễ tại chùa.

Sau thời gian rời chùa, chúng tôi về lại, tham gia đạo tràng – tịnh độ hằng đêm, hy vọng tiến hành kế hoạch sắp đến. Qua tiếp xúc gần gũi, qua những lần thầy trò tâm sự, Sư Cô cho biết:

  • Sư Cô rất thương mến GĐPT. Như thời gian qua Chú về lại chùa, Chú Nguyên Hoàng đã thấy rồi đó, những buổi về chùa sinh hoạt, Ban Huynh Trưởng xem quý Chư Ni như người xa lạ, có bao giờ vào gặp gỡ – chào hỏi – trao đổi thân tình.

Có lẽ Ban Huynh Trưởng thiếu tinh thần Thân Cận Xứ, nên các em GĐPT đành phải mất trắng – lủi thủi mồ côi.

Trước tình hình GĐPT tại đây èo uột – thiếu sức sống, Phân ban GĐPT xâm nhập lấn áp phá rối. Năm 2010, Ban Hướng Dẫn điều động chúng tôi về đây GĐPT Khánh Hiệp, thị xã Lagi, Bình Thuận củng cố lại đơn vị. Sau khi anh Liên Đoàn Trưởng từ trần, tôi tiếp nhận một đơn vị sinh hoạt lèo tèo chỉ có hơn 10 em. Chúng tôi cố gắng củng cố phục hồi sinh hoạt lên dần 5, 6 chục em. Trước đây, vào các ngày lễ, nhà bếp không cho các em ăn cơm, các buổi chiều Chủ nhật sinh hoạt, không cho các em vào uống nước. Thầy không thường xuyên ở chùa, Ban Hộ Tự lấn át, đạo tràng tách ra riêng tư. Chùa mất đoàn kết, chia ra làm 2, 3 phe nhóm. Khi chúng tôi về đây thì khác, hằng đêm tôi về chùa, các đạo hữu Nam trí thức dần hồi về chùa lại, trong đó có cả giáo viên, có đêm lên đến trên 20 người, cùng nhau uống trà đàm đạo – hướng dẫn Thiền tập. Có lúc vì lý do công việc, chúng tôi vắng đến chùa, thì chùa trở lại vắng teo. Có đêm tôi về lại chùa, thì Bác Ban Hộ Tự vội vàng nhấc máy gọi báo từng người một: Có anh Tâm về chùa, mau mau gọi nhau lên chùa. Thế là anh em lần lược lại về chùa, làm cho không khí ngôi chùa rộn rã – vui tươi hẵn lên. Chúng tôi gắn kết các nhóm lại với nhau, tuy bằng mặt – nhưng không bằng lòng. Còn GĐPT thì được quý bác ưu ái thương yêu. Các ngày lễ, GĐPT được ưu tiên hai dãy bàn dài đầy ắp thức ăn – thức uống đặc biệt, các ngày chủ nhật sinh hoạt, quà bánh – nước giải khát được quý cô trong đạo tràng gửi đến ăn – uống thừa mứa.

Vì Thầy không thường xuyên có mặt ở chùa, chúng tôi không trình bày được kế hoạch – thống nhất thực hiện chúng – vức cư sĩ Phật tử. Chúng tôi lên kế hoạch phát triển đơn vị. Chúng tôi xuống tận dưới làng, vận động bà con về chùa. Chúng tôi gặp quý Bác đạo hữu, trong đó có Huynh trưởng và Đoàn sinh kỳ cựu trước đây. Trước đây vì tranh chấp ảnh hưởng hơn thua, bị Ban Hộ Tự đương nhiệm đang nắm quyền hành trong tay, cấn cái – xem thường – ruồng rẫy đẩy đuổi ra khỏi chùa. Các Bác và các Huynh trưởng – Đoàn sinh kỳ cựu, đề nghị chúng tôi thành lập Ngành Thanh, họ sẽ kẻo cả dân làng về hết gia nhập GĐPT, còn con em thì tùy vào lứa tuổi mà vào các Đoàn. Hởi ôi ! Nếu tôi mà đồng ý, thì chùa trở thành một bãi chiến trường, đấu tranh khốc liệt, một còn – một mất.

Vào dịp lễ Phật Đản, Thầy mời họp để phân công phụ trách ngày lễ. Oái oăm thay, Thầy không giao cho các Bác Ban Hộ Tự, mà đề nghị thẳng chúng tôi thủ chương trình, tôi vô tình nhận điều hành buổi lễ. Ngờ đâu vì tự ái, bị Thầy xem thường, nghĩ rằng tôi hớt tay trên, làm danh dự mấy bác mất mặt. Một cuộc chiến tranh lạnh âm thầm diễn ra. Vì bảo vệ tôi, đạo tràng lại tách ra, đấu võ mồm tay đôi với nhau kịch liệt. Chúng tôi vào đề nghị Thầy chủ trì xử lý vụ việc, nhưng thầy lúng túng, không biết phải ngã về bên nào. Vì mong muốn để cho Thầy được yên tĩnh, vì mong muốn để cho ngôi chùa được êm ấm, chúng tôi đành phải chấp nhận lui về. Còn ở đó thì 2 phe cứ tranh chấp với nhau diễn ra âm ỉ mãi mãi. Còn một phe ở dưới làng, thì âm thầm chực chờ thời cơ bộc phát ./-

Duyên Trần Còn Vương

Chúng tôi, những người cư sĩ tại gia cùng nhau đứng ra lập thủ tục di dời chùa cũ lên đồi cao, xây dựng chùa mới. Chùa xây dựng xong, thiếu vắng bóng dáng Tăng già, thiếu người lãnh đạo tinh thần. Thầy có trình độ học vấn cao – thâm Nho – giỏi tiếng Anh – tiếng Pháp, sau 1975, vì lý do thời cuộc Thầy ẩn tu tự lao tác sinh sống tại một hốc núi hẻo lánh vắng vẻ xa lánh chốn thế sự trần ai nhốn nháo. Ba lần chúng tôi đưa đoàn đến biệt thất đảnh lễ cung thỉnh Thầy về Trụ trì, thấy được tâm thành, Thầy hoan hỷ hứa khả cùng chúng tôi về chùa. Có Thầy, chúng tôi tiến hành dựng thêm một căn nhà dài – vách ván – mái lợp tole, căn cuối làm nhà trù (nhà bếp), phòng thọ trai (phòng ăn), Đoàn quán GĐPT, phòng chúng rộng lớn – dành cho các điệu (chú tiểu) học tập – sinh hoạt – ngủ nghỉ, phòng tiếp khách và phòng Thầy Trụ trì. Thương Thầy – thương chúng, những đêm – ngày gió bấc – mưa tầm tả, mưa luồn vào khe hở vách ván lạnh căm.

Chính quyền CS không ưa tôn giáo, luôn luôn dè chừng – làm khó dễ các sinh hoạt tôn giáo. Thầy mới về Trụ trì, nên được chính quyền địa phương khá quan tâm. Con của một ông cựu cán bộ cách mạng tại địa phương được cài vào làm Trưởng Ban Hộ Tự, không thân thiết với Thầy lắm. Lúc bấy giờ, tôi là Liên đoàn trưởng cùng anh chị em GĐPT luôn luôn kề cận bên Thầy – ủng hộ Thầy, khi Thầy cần là có mặt ngay. Tôi cận sự bên Thầy, giúp Thầy tổ chức – điều hành các khóa tu học Bát Quan Trai một ngày – một đêm hằng tháng cho Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT và cư sĩ Phật tử. Có lần anh CA an ninh đến chùa, Thầy đi phật sự xa, tôi mời anh vào phòng khách, qua câu chuyện thăm dò, anh lý luận về tôn giáo – Phật giáo với mớ hiểu biết nông cạn – thiển cận – một chiều theo xu hướng XHCN, tôi vận dụng kiến thức Phật học phản biện, các chú tiểu phòng bên nghe được vỗ tay hưởng ứng, anh hổ thẹn lúng túng chuyển qua câu chuyện khác – xin phép ra về.

Thầy có nghiên cứu – hiểu biết thuật số – tử vi – phong thủy. Những lần Thầy trò đèo nhau trên chiếc Honda đi phật sự, có lần chạy theo lối mòn qua các đồi núi, Thầy cho xe dừng lại, Thầy chỉ cho tôi những khe núi – dòng thác, hướng dẫn giảng giải về phong thủy, nhưng tôi thì không ưa thích môn này, Thầy biết vậy nên sau này thôi không nói đến nữa.

Thầy hiểu biết cảm nhận về tâm linh: Chị Đoàn trưởng đoàn Thiếu Nữ, có cha là cán bộ cách mạng, đang lâm trọng bệnh hấp hối, chúng tôi gọi điện thoại cho Thầy, Thầy bảo Thầy đang phật sự xa, Thầy dặn dò nên phân công người nhà túc trực bên Ông, tổ chức niệm Phật cho Ông nghe – để lòng được nhẹ nhàng thanh thảng. Thầy còn cho biết trước, đến giờ phút lâm chung Ông không nhìn thấy được mặt một ai bên mình, đến lúc này Thầy mới về đến nơi. Mọi người thân trong nhà ai nấy đều không tin lời Thầy, vì con cháu đông luôn luôn túc trực bên Ông. Nhưng đúng như lời thầy nói, đến khuya ai nấy đều cảm thấy đói bụng, nghĩ rằng chỉ rời đi trong chốc lát có lẽ không sao. Tất cả rủ nhau sang Cantine bên hông bệnh viện. Khi vào phòng bệnh kiểm tra lại, thì Ông đã qua đời, vừa lúc Thầy cũng vừa đến nơi. Một lần khác, có một Phật tử lớn tuổi đang hấp hối, chúng tôi báo cho Thầy, vì lý do phật sự Thầy chưa đến được, Thầy bảo tôi đưa Ban Hộ Niệm đến tư gia trước, tổ chức niệm Phật và hướng dẫn người nhà chuẩn bị các điều kiện – thiết trí bàn Phật, đúng giờ phút lâm chung là Thầy có mặt. Y như rằng, cụ Ông vừa trút hơi thở cuối cùng là có mặt Thầy. Có lần hai bác sĩ đến thăm Thầy, vừa thấy mặt, Thầy vụt hỏi, khi đi có ba vị, sao khi đến đây chỉ còn hai vị. Hai vị bác sĩ ngạt nhiên, vì không báo trước khi đến thăm Thầy, trên đường đi, một anh nhận được tin đột xuất nên đã xuống xe quay trở về.

Khi chùa đào giếng lấy nước, Thầy dẫn chúng tôi đi quanh vườn chùa, Thầy nói: Không chọn nơi nào được vì những nơi đó không có mạch nước. Đến bên hông chánh điện, thầy nói, chùa chúng ta thì ở trên đồi cao, đào giếng nơi này thì có mạch nước rất mạnh. Nhưng nếu chúng ta đào giếng ở đây thì chận hết mạch nước, các nhà phía dưới chân đồi sẽ không có nước để mà mà sử dụng. Thầy lại đưa chúng tôi đến bên hông nhà trù, Thầy chỉ tay vào một tản đá, chúng ta đào giếng tại đây, khi đào xuống trên mười mét sẽ bắt gặp một tản đá cũng khái lớn nằm ngang, chúng ta cố gắng lấy tản đá đó lên thì gặp mạch nước ngầm …

Vào dịp Tết Nguyên đán năm 2000, tôi về thăm lại chùa xưa – thăm Thầy cũ. Thầy cũng từ Anh Quốc mới về. Thầy trò lâu ngày gặp nhau, mừng mừng tủi tủi, ôn lại kỷ niệm xưa. Thầy ngỏ ý muốn tôi về với Thầy, cùng Thầy đi các địa phương xây dựng chùa – thành lập đạo tràng. Theo lời Thầy, tôi có năng khiếu tổ chức – vận động – tập hợp quần chúng – ngoại giao về mặt chính quyền. Và cũng theo lời Thầy, số của Thầy sẽ thu nhận được trên hai mươi đệ tử. Là trách nhiệm làm cha – làm mẹ phải chăm lo nơi ăn chốn ở cho con cái, Thầy phải xây đựng nhiều chùa dành cho nhiều đệ tử sau này. Hứa lời Thầy, tôi về xắp xếp công việc gia đình riêng, vội vàng khăn gói lên với Thầy. Thầy trò chúng tôi đến khu rừng thông – mảnh đất đầu đèo mà người dân địa phương hiến cúng trước đây, chúng tôi tập hợp đồng bào Phật tử địa phương, được sự thống nhất nhiệt thành hưởng ứng, chúng tôi tất bật tiến hành làm thủ tục – làm lễ đặt đá mở móng xây dựng ngôi chánh điện. Sau ba tháng – công trình còn đang dang dỡ. Không biết nghe lời mẹ như thế nào, các con của tôi, cả ba đứa đều lần lượt lên gặp tôi khóc lóc – các con nhớ ba – xin ba về lại gia đình. Van xin tôi không được, chúng đến phòng phương trượng gặp Sư phụ khóc lóc van xin cho ba về. Động lòng trước sự thiết tha của các con, Thầy “đuổi” tôi về. Nếu không vì nghiệp duyên trần tục ràng buộc nặng nề này, có lẽ giờ đây tôi đã xuất gia trên hai mươi năm ./-

Lam Nhã Thảo Am, 02102567 – 14112023

MỘT CHUYẾN ĐI XA

Cái xám ngắt của bầu trời, cái lạnh lẽo của đất trời đã làm thấm lạnh vào lòng tôi với nỗi nhớ quê hương da diết. Ra đi là bỏ lại sau lưng tất cả, nào những người thân yêu nhất với biết bao nhung nhớ ngập lòng, nhứt là cả một tổ chức Gia Đình Phật Tử (GĐPT) rộng lớn, mà người Huynh Trưởng (H.Tr) phải có trách nhiệm lo toan gánh vát sứ mệnh trên vai. GĐPTVN quốc nội đang rơi vào thảm cảnh xé lòng. Đã trên ba mươi năm (kể từ sau năm 75), các anh – các chị trưởng bối cao niên của chúng ta, chưa có được một ngày ngơi nghỉ, lúc nào cũng bôn ba nặng trĩu lo toan, với dẫy đầy gian nan thử thách. Nhìn thấy các anh các chị mà chúng em bồi hồi thương cảm vô cùng. Thế mà bây giờ lại thêm ma chướng, với nỗi bức xé dày vò làm xót xa đau nhói những tấm lòng của những người H.Tr có lương tri, có tâm huyết, có trách nhiệm với tiền đồ tổ chức – đạo pháp – dân tộc. Vết thương khủng hoảng do những bàn tay nham nhúa dẫy đầy tham vọng nào đó, đã nỡ đành đang tâm dằn xé, tạo cảnh phân ly, biết đến bao giờ mới hàn giắn lại vết thương đau nhứt nhối.

Đứng trước thảm cảnh đau lòng này, tôi cảm thấy sự ra đi của mình là chối bỏ phủ phàng một trách nhiêm thiêng liêng cao qúi của người H.Tr GĐPTVN. Là một kẻ thua cuộc – chiến bại – đầu hàng, tự ý rời bỏ chiến hào, rời bỏ hàng ngủ, phó mặc cho biết bao chiến hữu thâm tình đang tĩnh tại tắm lửa xối dầu, đối đầu trước nghịch cảnh khói lửa gian nan !

Có những người thật ngây thơ, tự đặt câu hỏi. Tại sao GĐPTVN không đăng ký, không hòa tan vào các tổ chức GĐPT tự phát để có pháp lý. Tại sao GĐPTVN chính thống không biết nghe lời … để được bảo trợ ? Thật là oái oăm đến nực cười ! …

Ngày xưa, tại một đại tòng lâm. Có một con rắn chúa, cùng với bày đàn tinh khôi của mình, đoàn kết xúm xít bên nhau giữa bảo đời khắc nghiệt để bảo vệ đại tòng lâm – bảo vệ chăm chút đàn em thơ dại của mình. Không biết từ đâu, một cái đuôi, rồi thêm hai – ba cái đuôi khác ngoan cố tự phát mọc ra. Mỗi cái đuôi đều bướng bỉnh với lý lẽ kiến chấp riêng tư, rồi bắt buộc – rồì áp đặt rắn chúa phải theo hướng đi cuồng tín – nô dịch riêng lẻ của mình. Nhưng rắn chúa với tinh thần tự tại và cặp mắt tinh nhuệ đong đầy tuệ giác, với tấm lòng mẫn ái vì bày đàn, vì đàn em thân yêu, đã nổ lực lãnh đạo – hướng dẫn chân thân đi đúng chánh đạo. Thế là mỗi cái đuôi lại ngoe ngoảy tách rời thân mẹ, lẻ loi độc hành tả đạo. Không biết rồi mai này, với cái đuôi củn cởn thiếu đầu – thiếu mắt ấy sẽ đưa nó đi về đâu, và đến với hầm lửa tự hủy diệt nào, thật tội nghiệp đáng thương !

Các tổ chức GĐPTVN từ đơn vị cơ sở thôn – ấp, xã – phường đến huyện – thị, tỉnh – thành phố, là một đơn bào trong một tập hợp đại thể. Đã tự đặt mình dưới sự chỉ đạo của Ban Hướng Dẫn Trung Ương (BHDTƯ). Tự thân nổ lực vân động – định vị hướng đi của mình sao cho nó song song đồng hành – sát cánh cùng với BHDTƯ. Trong tình hình này, phải tự mình xắp xếp – xác định và giữ vững lập trường – trung kiên trước sau như một, không phải trông chờ ở sự hà hơi tiếp sức. Phải đồng lòng từ tiếng hô “Quyết tiến” tại hội nghị Diên Hồng mới viết nên lịch sử vẻ vang. Là Huynh trưởng GĐPT Phật tử Việt Nam (HTGĐPTVN), ai ai cũng có trách nhiệm trước lịch sử – trước tiền đồ của tổ chức. Nếu ở mỗi con ong tự thân thiếu cần mẫn chăm chỉ thì tổ ong khó mà hình thành để trao lại cho đời vị ngọt thơm ngon. Tự thân mỗi HTGĐPTVN tự giác phát huy nội lực để tạo nên khí thiêng cho tập thể lớn mạnh. Đây là cái đức tính truyền thống cao qúi tối ưu vốn có đã được thử thách – hình thành từ lâu đời của tổ chức GĐPTVN. Chúng ta hãy nghiên cứu thật kĩ lại quá trình hình thành GĐPTVN sẽ thấy rỏ ở điểm son nổi bật kì vĩ này, mà không phải ngồi ì chê trách – than thở – vòi vĩnh – đòi hỏi ở một ai ! Nếu một cá nhân mà bỏ ra riêng lẻ độc hành, thì nó trở nên vô nghĩa – vô vị. Nhưng cũng một cá nhân ấy nếu biết tận dụng khả năng vị tha – bản lĩnh kì vĩ của mình, tận tụy cống hiến cho tổ chức thì nó có ý nghĩa vô cùng to lớn, lịch sử không thể nói là khó làm nên được, và lịch sử cũng sẽ trân trọng ghi nhận công đức qua nghĩa cử cao qúi này. Những ngụ ngôn xưa đã dẫn chứng : – Một cây làm chẳng nên non – ba cây chụm lại thành hòn núi cao, hay một bó đủa khó bẻ gãy, hoặc là trăm tay vỗ nên kêu, hơn nữa: … Một cây không thành – trăm cây không thành – ngàn cây hóa non xanh … – tất cả đều nhờ vào công đức, sự cộng lực vững chãi, mới tạo nên một tập thể to lớn. Cho nên cái cá tính vị kỹ – tâm lý hẹp hòi hèn mọn – nhỏ nhen – xem thường kẻ khác – tự cao – tự đại – ngã mạng, tự cho mình là trung tâm của vũ trụ, sẽ làm ngu dốt bản thân, hạn chế sự phát triển và sức sống vươn lên của tổ chức, vô tình tự đẫy mình vào hầm lửa hủy diệt.

GĐPTVN là một tổ chức Phật giáo truyền thống, có một quá trình lịch sử vàng son trên bảy mươi năm, luôn luôn trung kiên – là lực lượng hậu duệ, cặm cụi góp nhặt cảo thơm, bảo vệ – xây dựng làm trường tồn – quang huy đạo pháp. Là phong trào dẫn đầu trong công cuộc thống nhầt dân tộc – đạo pháp. Nỗ lực vận động – chấn hưng – tập hơp GĐPTVN trong nước và trên thế giới – tiến tới hình thành GĐPT thế giới. Trong khi đó còn có quá nhiều trưởng tử Như Lai – con Hồng cháu Lạc đã hợp sức – đồng tình cùng với ma vương, các thế lực vô minh phá gia chi tử, làm phân hóa – rệu rã, tạo cảnh nồi da xáo thịt – chia cắt – dằn xé đau lòng, lọt thõm đúng vào vòng kim cô đã được các nhà phù thủy chính trị giăng bẫy đặt hờ đón sẵn, làm trò cười cho ngoại nhân hỷ hả.

GĐPTVN chưa bao giờ được yên ổn – được hưởng vị ngọt thanh bình. Trãi qua hai triều đại, cộng hòa hay cộng sản. GĐPTVN đều nếm trãi biết bao cay đắng ngập lòng, từ nội ma lẫn đến ngoại chướng. Hướng đến cái thiện sao mà khó khăn đến vậy !

Cái đau đớn – nhức nhối – nhục nhằn về tinh thần của hàng ngũ Lam viên cũng không phải là ít. Toàn thể HTGĐPTVN đã phải vận dụng trí tuệ thật cao độ để được tồn tại, lắm lúc cứ tưởng chừng như đã đột quị – rệu rã, nếu không có tinh thần tĩnh tại, ý chí kim cương – vô úy thù thắng, có lẽ đã không giữ vững đến ngày hôm nay.

GĐPTVN là một tổ chức giáo dục, chọn gáo lý Phật đà ưu việt – tối thượng làm phương châm tu học – đào luyện để hướng thiện nhân cách mới chân chánh, đào tạo nên một thế hệ mai sau trở thành một người công dân gương mẫu – một bậc hiền tài lỗi lạc phụng sự xã hội theo tinh thần Phật giáo thù thắng, góp phần làm cho nền văn hóa dân tộc ngày càng thêm tiến triển phong phú vẽ vang cho đất nước thêm hơn.

GĐPTVN không phải là một tổ chức tôn giáo, mọi giáo điều khó thể áp đặt lên đời sống người Phật tử (PT) mới chân chánh. Người HTGĐPTVN có một đời sống phóng khoáng – nhân chủ, tự giác – tự do – tự tại, nhờ đó mà tìm lực được tìm ẩn bất biến. Khi thị hiện thì sóng dựng triều dâng như hải triều âm bất tận, khi tiệm tu thì tĩnh tại yên bình như mặt nước hồ Thu hiền hòa tươi mát tưới tẩm yêu thương – lợi lạc quần sinh.

Hỡi những Lam viên ! từ thuở ban đầu chập chững bước vào tổ chức GĐPTVN, chúng ta đã được giáo dục tu học qua các bậc học, được đào luyện qua các kỳ trại, từ những vòng tay từ ái đầy uy đức đạo hạnh khả kính của các anh chị H.Tr niên trưởng. Như người lái đò chăm chỉ, các anh các chị không nề hà nản mỏi, đã cặm cụi chuyển tải cho chúng ta được trưởng thành qua biết bao chuyến đò thăng tiến từ bấy đến nay. Như người làm vườn, các anh các chị của chúng ta đã cần mẫn chăm chút gọt tỉa, tạo nên cho chúng ta những thân cành tươi thắm. Chúng ta đã từng “co quắp ôm nhau ngủ dưới lều trăng” , cái hình ảnh đong đầy cảm xúc qua các kỳ trại, cái ấn tượng thiêng liêng trong các khóa lễ phát nguyện truyền đăng luôn luôn hâm hấp trong mỗi lòng người H.Tr, có dễ gì làm suy chuyển – mai một trong dòng xác na sinh diệt.

Hỡi các anh – chị – em Áo Lam trong cùng một dòng máu lam hiền, đã từng cùng nhau sát cánh – chung lưng đâu cật trong những năm tháng tắm lửa xối dầu để có được sự vững vàng. Cái kết quả có được hôm nay, được xây dựng bởi cả máu và nước mắt trung kiên từ tự thân của mỗi người PT Áo Lam mà có. Đứng trước tình hình hiện nay, chúng ta cần phải đoàn kết – siết chặt tay nhau chặt chẽ hơn nữa, chung sức chung lòng bảo vệ lý tưởng Nhà Lam thiêng liêng kỳ vĩ đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì không ai thương ta bằng ta thương lấy chính mình. Đừng bao giờ vô tâm – thui chột để dễ dàng bị rơi vào cạm bẩy, tạo kẻ hở để cho ngoại nhân phù phép với những lời hứa hẹn sắc tướng loè loẹt hư huyển, phản bội tổ chức – gà nhà bôi mặt đá nhau. Không thể vì một vài cá nhân mà vội vàng đánh giá – quay lưng với cả một tổ chức lớn mạnh. Là một H.Tr – Đoàn viên (ĐV) – Đoàn sinh (ĐS) GĐPTVN phát nguyện trung kiên – chọn GĐPTVN làm pháp môn tu học, làm lý tưởng phụng sự, nếu có nhu cầu hoạt động ngoài tổ chức, thì phải thông qua ý kiến của tổ chức – của Ban Hướng Dẫn Trung Ương (BHD.TƯ). Nguyện hứa với lòng, luôn luôn tự giác tuân thủ, bảo vệ Nội Quy – Quy Chế H.Tr GĐPTVN, chấp hành sự lãnh đạo sáng suốt – tài tình của BHDTƯ.

Nội Quy – Quy Chế GĐPTVN do biết bao trí tuệ, trong đó có cả xương – máu – nước mắt – mồ hôi của biết bao thế hệ H.Tr – ĐV – ĐS GĐPTVN xây dựng – bảo vệ nên và đã được GHPGVNTN trước năm bảy lăm phê chuẩn. Nếu có ý kiến cần thiết phải sửa đổi – tu chỉnh lại cho phù hợp với tình hình phát triển toàn cầu hiện đại, thì phải qua đại hội GĐPTVN mới có đủ tư cách – thẩm quyền sửa đổi. Chương 5 – điều 19 Nội Quy GĐPTVN đã ghi rỏ. Không ai có đủ quyền hạn áp đặt – tự ý sửa đổi – phá vỡ – làm trái ngược Nội Quy – Quy Chế GĐPTVN hiện có khi chưa được thông qua đại hội, thì người đó đã phản bội, chà đạp tự do dân chủ, trở mặt với tổ chức GĐPTVN quốc nội cũmg như trên thế giới.

Nhưng tìm lực của GĐPTVN trong lúc này không suy yếu. Cứ mỗi lần có cuộc phong ba, đứng trước nghịch cảnh thử thách, đối đầu với nghiệt ngã trái ngang, thì GĐPTVN lại càng đoàn kết chặt chẽ, vững vàng thêm hơn. Như đứa con ngoan hiền, GĐPTVN vẫn luôn luôn trung kiên, và sẵn sàng hy sinh vì đạo pháp, vì dân tộc vinh quang.

Đứng trước tình hình nghiệt ngã, diễn biến phức tạp đầy thử thách cam go này. Nhưng con đường chánh đạo của chúng ta đang đi – của GĐPTVN chính thống, do BHDTƯ lãnh đạo là đúng. Trong giai đoạn thử thách đầy cam go nghiệt ngã cao độ này, không biết sẽ diễn biến đến đâu, hay chuyển bước qua khúc quanh lịch sử như thế nào. Mỗi người H.Tr – ĐV – ĐS GĐPTVN cần phải cẩn trọng – tỉnh táo – tuệ giác, sẵn sàng gánh vát gian nan đi lên bằng nguyện lực vô úy kiên cố – ngũ trược ác thế thệ tiên nhập – Phát đại nguyện tu hạnh Duy Ma Cật để chờ đợi và sẵn sàng cho một bước tiến mới …

Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có … , có cuộ̣c sống tục đế – đi lên bằng con đường đạo hạnh đại bi Bồ tát, thể nhập trí tuệ siêu việt – tính không – bất nhị ̣̣- ly ngôn thuyết, không giải bày bằng ngôn ngữ phiền não – kiến chấp đạ̣o đoạn, mà bằng tri kiến im lặng – một lập trường phương tiệ̣n thiện xảo. Im lặng ở đây không phải là không hiểu, không diễn đạt được, mà là diễn bày một ngôn ngữ tuyệt đỉnh – một sự im lặng sấm sét bất khả tư nghị – mặc như tôi.

Qua kinh Duy Ma Cật, cho chúng ta thấy cư sĩ và tăng sĩ đều có chung một mục đích đại nguyện như nhau, cùng đi lên trên con đường trọng yếu là tiến đến giác ngộ – giải thoát hoàn toàn.

“Thoát khỏi thế gian không phải là xuống tóc, là dồn hết sức lực để phá tan sự đam mê của mọi chúng sinh. Không phải một mình tuân theo giới luật, nhưng chối bỏ sự đức độ trong thanh tịnh an lành. Không phải là thiền định trong sự yên lặng của rừng thẳm, nhưng ở lại trong cơn xoáy lốc của luân hổi, và dùng trí tuệ cùng những phương tiện thiện xảo để độ chúng sinh tràn đầy phật pháp”.

(Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – Vimalakirtinirdesa).

Wayne – New Jersey, 30/12/2007.

– 15 –

TÂM SỰ NGƯỜI LỚN TUỔI

Tôi năm nay đã 65 tuổi rồi, chỉ còn vài tháng nữa là bước vảo tuổi 66 .

Ai rồi cũng vậy, tuổi đời càng chồng chất, thì sức vóc càng lúc càng hao gầy – yếu đi, và trí tuệ cũng theo đó mà suy kém giảm dần, không còn nhạy bén như thuở nào nữa, sức phấn đấu cũng tùy theo đó mà suy giảm trầm trọng. Bằng chứng là những hoạt động của tôi mấy lúc gần đây, đâu còn nhanh nhẹn như trước đây được nữa. Lắm lúc vì tuổi cao sức yếu, tôi đã buông xuôi tất cả. Hay vì sĩ diện, mà tôi đã cố gắng để làm, nhiều lúc tôi cứ ngỡ rằng, tôi đã làm việc rất nhiều – rất cật lực. Nhưng thực chất, thì lực bất tòng tâm, công việc cứ ngất ngứ – cứ chựng lại, giải quyết không đâu đến đâu được cả. Đôi lúc gặp phải chướng duyên, tôi đã chùn lòng – run tay – co quắp – tránh né – đùn đẩy, mà không dám đối mặt với thực tại, làm mất lòng tin của thế hệ đàn em. Bế tắc trước sự bất phục của người khác, tôi võ đoán – kẻ cả – nóng nãy lấn lướt, làm ảnh hưởng đến thân giáo. Nhiều lúc tôi thể hiện là tôi còn quá đủ trí tuệ, hoênh hoang với nhiều lý thuyết dạy đời, nhưng mỗi lời nói giong dài được thốt ra đều rổng toếch, làm ngán ngẩm người nghe, không mang lại lợi ích thiết thực.

Tôi không thể ỷ mình là tuổi cao – là cấp lớn rồi ganh tỵ với tuổi trẻ, vùi dập tài năng, vô tình làm một viên đá lăn quay giữa đường, cản trở lối đi, làm chậm bước phát triển của tổ chức – làm cản trở bước tiến của tuổi trẻ. Trong khi đó, xã hội thì càng lúc càng tiến triển – vươn tới vô cùng. Để bắt kịp với thời đại, phải cần nhiều ở sức vóc năng động hơn, có đủ tay nghề chuyên năng tinh xảo – nhạy bén hơn, mới đủ năng lực ứng xử kịp thời trong thời đại tên lửa này, chứ lớn tuổi rồi, chậm lụt như tôi, thì chỉ có làm thêm trì trệ.

Chẳng lẽ tôi cứ mãi ngờ nghệch – tự ru ngủ – tự thôi miên chính mình, khư khư ôm lấy chiếc ghế chong chênh, phó mặc cho con thuyền vô định, thì tôi có tội với lịch sử biết bao !

Tôi viết lên những dòng này là muốn cảnh tỉnh chính tôi, là phải biết nhìn thẳng vào sự thật, phải biết toàn tâm toàn ý, ròng rả thắp đuốc đi tìm người kế tục, thay mình tiếp tục làm nên sự nghiệp truyền đăng. Không thể còn có cái suy nghĩ thiển cận, chỉ có ta mới là trung tâm vũ trụ, mà phải thấy ra rằng, chung quanh ta còn có biết bao tài năng vượt trội. Và nhắc nhở với tuổi trẻ hôm nay, là phải thấy rõ sứ mệnh trọng đại, các anh các chị không còn thời gian để bàng quan hay ỷ lại, mà phải tự thân rèn luyện – phấn đấu để đủ sức gánh vác trọng trách, đang kỳ vọng đặt trên đôi vai trẻ trung của các anh các chị thế hệ trẻ hôm nay !

Lam Nhã Thảo Am, 20/7/2015.

– 16 –

TA CÒN ĐỂ LẠI GÌ KHÔNG

Người Lái Đò Thầm Lặng

Thời gian lặng lẽ trôi xa, buông theo áng mây trôi hờ hững. Chặng đường vẫn còn đó với dẫy đầy gập ghềnh – gai gốc, nghiệt ngã bủa trùng. Dẫu sông dài – biển rộng, dẫu gian khó nghìn trùng, hình ảnh người lái đò, gò tấm lưng gầy, với mái tóc bạc phơ bụi phấn, mãi mãi âm thầm lặng lẽ, tôn vinh trong mỗi lòng nhân thế.

Ví dầu trên mỗi cung đường, con nước xoay chiều sóng gió, lòng người khúc mắc – hun hút lạnh ngắt vô tình rẽ chia – gắt gỏng gieo điều oan khuất trái ngang. Người lái đò vẫn ung dung lặng lẽ giữa lòng đời vạn biến, bận rộn say sưa, dầu dãi nắng mưa, đưa từng đợt khách tấp nập sang sông, hết thế hệ này đong đầy biết bao kỉ niệm ngậm ngùi đi qua, thì nối tiếp thế hệ trẻ khác êm đềm lại đến. Người lái đò miệt mài cần mẫn, nhận lãnh sứ mệnh trồng người cao quý, cặm cụi chăm bón, trang bị hành trang – thắp lên tin yêu – truyền trao tri thức – thắm đượm tinh hoa Phật chất, nâng bước thế hệ mai sau kịp thời trưởng thành, vững vàng trên chính đôi chân của mình, dang rộng đôi cánh mạnh dạn vào đời – đăng trình cặp bến tương lai.

Trên từng mỗi dòng chảy, dẫy đầy gió to sóng dữ, lưu vong trên chính quê hương gian khó, đòi hỏi thách thức – cân não, vẫn tĩnh tại giữ vững tay chèo vượt qua bóng đêm dọa dẫm, đọng lại biết bao dư âm, chan chứa tấm lòng vị tha, có thủy có chung, tâm huyết hy sinh vô bờ bến, giữ vững tay chèo băng băng hướng về phía trước.

Ngày thì cữ mãi trôi qua, dòng sông thì cứ mãi hoang sơ trống vắng, nỗi sẻ chia cứ lây lất một trời yêu thương. Đêm thì mù tịt, bóng tối đoanh vây chôn vùi tuyệt vọng. Dẫu chờ đợi – có ước mơ, bóng đêm vẫn cứ âm thầm hững hờ câm nín. Ngoài trời đổ mưa tầm tả, nhưng mưa trong lòng thì xối xả nhiều hơn.

Cuộc đời là thế, với những dẫy đầy ngã rẻ xuôi ngược chông gai phía trước, dù phải đối diện với thực tại phù du bất định, với ít nhiều vết tích mất mát xé lòng, hằn sâu đớn đau ê chề, đủ để kinh qua, lớn dần dạn dày thấm thía, đủ để đón nhân ý nghĩa cuộc đời. Dẫu cho gia bần có đói khát – dẫu có lam lũ cơ hàn, thì yêu thương vẫn là vòng tay khẽ khàng rộng mở, âm thầm gọi mời cho nhau.

Ánh nắng cuối ngày rồi sẽ tắt, dòng sông đến một khúc quành thăng trầm lịch sử, thì phải qua ngã rẽ thênh thang. Với trái tim nồng ấm, với nhiệt huyết tràn trề, dẫu cho kẻ ra đi hay người ở lại, kẻ ở bên này hay bờ bên kia mòn mỏi, thì tấm lòng nhân hậu của người lái đò chở đầy yêu thương, vẫn mãi mãi sắc son với trái tim nồng ấm giữa sương hàn lạnh giá, cần mẫn thầm lặng tỏa hương, khát khao dâng hiến trí tuệ cho đời.

“Ta còn để lại gì không ?

“Kìa non đá lở, này sông cát bồi…” – Vũ Hoàng Chương –

Ta không là gì cả và cũng không có gì cả. Vào đời trần trụi, cọ xát với nỗi đau chào đời, tiếp xúc với không gian đột biến bất thường, tiếng khóc tu oa cất lên đong đầy bất như ý từ đó !

Tuổi thơ dần trôi trong vòng tay yêu thương, cứ ngỡ rằng cuộc đời lắm hoa nhiều mộng trãi dài trước mắt. Rồi ngụp lặn, rồi được giáo dục trong môi trường bưng bít sự thật, dựng đứng cắt xen bóp méo lịch sử, dẫn hướng có ý đồ, mụ mẫm theo định hướng xa vời không thực tế, đánh mất nhân bản, o ép tự do, hướng đến tự chủ bản thân cũng không còn.

Nhưng thực tế thì phủ phàng, được tiếp cận ít nhiều lương trị, lắm lúc từ thâm sâu, ngon lửa tri thức như chợt lóe lên, từng đóm nhỏ khơi gợi, thấy được những chứng cứ bức súc đau lòng chung quanh, những dã tâm mưu mô lọc lừa toan tính, làm dấy lên ít nhiều nhũn chí nản lòng. Nhưng, những hứa hẹn một thiên đường ảo tưởng, những quyền lực độc quyền giả tướng được trao, những miếng mồi béo bở của biết bao mồ hôi nước mắt và có cả máu đào của biết bao đồng loại, đang ỡm ờ trước mắt, đã làm tối mắt lương tri, không còn tự chủ, quán tính vô tri vô thức cúi đầu lãnh cảm phục tùng, tạo thêm đen tối không gian, thời gian trãi dài âu lo nghìn trùng bức bối, dày xéo tha nhân, làm cho thịt da, tri thức, mãi mãi đau đớn nhức nhối khôn nguôi.

Những mơ ngủ lâu ngày đã đẩy tuổi trẻ rong chơi xa vời theo dòng thác loạn, mà nỡ quên đi thận phận chính đáng làm người, trách nhiệm cao quý đối với tha nhân. Như cơn sóng ngầm từ lâu quằn quai rên rỉ đắng cay. Ánh sáng mặt trời chợt thức, từng đóm nhỏ lóe lên xé toạc màn sương đêm đen tối.

Tuổi trẻ hôm nay như chợt đánh thức, ý thức được trách nhiệm nặng nề trước tiền đồ tổ quốc.

Sức trẻ đong đầy nhựa sống, vươn vai Phù Đổng, làm nên lịch sử. Lịch sử có được sang trang, non sông gấm vóc có được huy hoàng, quốc tổ có được hùng cường vững mạnh. Mảnh đất quê hương thân yêu , nơi chôn nhau cắt rốn của biết bao tuổi thơ ngọc ngà trong sáng, đang nằm gai nếm mật, quằn quại thương đau, rách nát tua tủ tả tơi. Có được gìn giữ trọn vẹn, vá lại lành lặn an toàn hay không, đều nằm trọn trong đôi tay trẻ trung vững chãi của thế hệ tuổi trẻ hôm nay!…

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

“Phải có danh gì với núi sông” – Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ –

Sĩ phu với tâm thế – cốt cách trượng phu, trải qua dòng đời nghiệt ngã vì cuộc mưu sinh, gầy dựng gia nghiệp – đạo nghiệp, có chí nguyện vị tha, vì tha nhân mà hi hiến phụng sự. Chí đã sâu – nguyện đã lớn thì tiền tài vật chất là phù du, những tháng năm phụng sự tổ chức nào có nề hà, sẵn sàng hy hiến tuổi thanh xuân, mạnh dạn đối mặt gian nan – chướng duyên – nghịch cảnh, hy hiến sức vóc – tài năng – vật chất – tài chánh (hàng trăm triệu VNĐ) để thành toàn đạo hạnh – thành toàn phật sự tổ chức.

Dẫu biết rằng, với thân thể còm cõi còn lại – một ít hơi tàn ngắn ngủi, vẫn miệt mài vun xới mảnh đất vườn tâm, làm kiếp con tằm cần mẫn thắt ruột nhả tơ, “cảo thơm lần giở”, trao lại cho đời gia bảo quý giá trác tuyệt, lưu lại cùng trời đất sử xanh muôn thuở.

Mạnh dạn nhìn thẳng vào như thật duyên sinh: Sinh – Lão – Bệnh – Tử, đây là dòng chảy tư tưởng đại thứ – là quy luật các pháp vô thường bất biến, ai ai rồi cũng nếm trải qua giấc mộng:

“Nhất thiết hữu vi pháp,

“Như mộng, huyễn, bào, ảnh,

“Như lộ diệc như điện,

“Ưng tác như thị quán.”

‘Tất cả pháp hữu vi,

‘Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

‘Như sương, như chớp loé,

‘Hãy quán chiếu như thế.’ – Kinh Kim Cang –

Khi còn hơi thở là đời sống kéo dài. Những giây phút ít ỏi còn lại, phải sống sao cho xứng đáng – có ý nghĩa. Đến lúc tử thần gõ cửa, với dấu chấm hết tròn trịa, thì không hổ thẹn với lương tâm, thảnh thơi – nhẹ nhàng – an lạc – như “cánh nhạn quá từng không” – tự tại cất cánh ra đi như trút bỏ chiếc áo rách. Bởi vì từ khi vào đời, với hai bàn tay trắng, thì đâu có gì để mà vướng bận – nuối tiếc !

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

“Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.” – Thiền sư Vạn Hạnh –

‘Thân như bóng chớp chiều tà

‘Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời

‘Sá chi suy thịnh việc đời

‘Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.’ – HT.Mật Thể dịch

– 17 –

CHÍ NGUYỆN DẤN THÂN

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

“Phải có danh gì với núi sông” – Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ –

Sĩ phu với tâm thế – cốt cách trượng phu, trải qua dòng đời nghiệt ngã vì cuộc mưu sinh, gầy dựng gia nghiệp – đạo nghiệp, có chí nguyện vị tha, vì tha nhân mà hi hiến phụng sự. Dẫu biết rằng, với thân thể còm cõi còn lại – một ít hơi tàn ngắn ngủi, vẫn miệt mài vun xới mảnh đất vườn tâm, làm kiếp con tằm cần mẫn thắt ruột nhả tơ, trao lại cho đời gia bảo quý giá trác tuyệt, lưu lại cùng trời đất sử xanh muôn thuở.

Mạnh dạn nhìn thẳng vào như thật duyên sinh: Sinh – Lão – Bệnh – Tử, đây là dòng chảy tư tưởng đại thứ – là quy luật các pháp vô thường bất biến, ai ai rồi cũng nếm trải qua giấc mộng:

“Nhất thiết hữu vi pháp,

“Như mộng, huyễn, bào, ảnh,

“Như lộ diệc như điện,

“Ưng tác như thị quán.”

‘Tất cả pháp hữu vi,

‘Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

‘Như sương, như chớp loé,

‘Hãy quán chiếu như thế.’ – Kinh Kim Cang –

Khi còn hơi thở là đời sống kéo dài. Những giây phút ít ỏi còn lại, phải sống sao cho xứng đáng – có ý nghĩa. Đến lúc tử thần gõ cửa, với dấu chấm hết tròn trịa, thì không hổ thẹn với lương tâm, thảnh thơi – nhẹ nhàng – an lạc – như nnhin:

“Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.”

Dịch:

‘Nhạn bay trên không

Bóng chìm đáy nước

Nhạn không có ý để lại dấu tích

Nước không có ý lưu giữ bóng hình.’ – Hương Hải Thiền Sư –

Tự tại cất cánh ra đi như trút bỏ chiếc áo rách. Bởi vì từ khi vào đời, với hai bàn tay trắng, thì đâu có gì để mà vướng bận – nuối tiếc !

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

“Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.” – Thiền sư Vạn Hạnh –

‘Thân như bóng chớp chiều tà

‘Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời

‘Sá chi suy thịnh việc đời ‘

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.’ – HT.Mật Thể dịch –

– 18 –

TÂM SỰ MỘT NGƯỜI ĐI

Gia Đình Phật Tử Việt Nam là một tổ chức giáo dục đạo đức tâm linh, ứng dụng – tu học giáo lý Phật Đà để hướng thiện cuộc sống. Là một Phật tử thuần thành chân chánh, chúng ta ý thức được rằng, đời là một dòng chảy cuộn xiết đến vô cùng, trong đó trộn lẫn vui sướng và khổ đau. “Nghiệp” luôn luôn trĩu nặng trên đôi vai – đoanh vây quanh ta suốt cuộc hành trình vào đời, dứt nghiệp là dứt khổ đau buồn tủi.

Tệ nạn xã hội, đang là nỗi đau nhứt nhối của những tấm lòng có lương tri, nếu xa rời Phật pháp, chúng ta chơ vơ trước ngã ba đời đầy bão chướng. Tu học – thấm đẫm Phật pháp, nhân sinh định hướng được cuộc đời, vững vàng dấn thân, không vong thân sa lầy trác táng.

Gia Đình Phật Tử là một tổ ấm muôn đời, nơi mà tuổi thơ của chúng ta đã được ấp ủ gắn liền tình cảm thân thương, dẫu có đi xa, ai nấy cũng đều hâm hấp nhớ về một thời sinh hoạt – vui chơi – tu học đằm thắm bên nhau, tay chung tay “Đây gia đình cùng nhau chung thân ái…” Hôm nay, do sinh kế – học tập, mỗi người mỗi ngã, nhưng mỗi lần về lại quê hương, là chúng ta lại vội vàng tìm lại dấu ái xưa, nơi khắc ghi một thời êm ấm thân thương, nơi đã góp phần hành trang, giúp cho chúng ta được thành nhân hôm nay.

Nhớ quá đi thôi! Càng nhắc đến là càng gợi nhớ nôn nao da diết, lòng dặn lòng, một ngày nào đó chúng ta lại về, để được nhìn lại mái chùa xưa, nhìn lại mái ấm – nơi đó có từng khuôn mặt thắm thiết thân quen, được tâm tình – nối tiếp vòng tay thân ái xưa, hát lại bài ca chung gia đình mãi mãi.

Như đọc được nỗi tiếc nuối da diết đọng lại trên từng khuôn mặt người đi. Người ở lại cũng không khác gì, mỗi buổi chiều chủ nhật sinh hoạt, lúc nào cũng trĩu nặng ưu tư, hướng mắt nhìn xa ra cổng chùa, mong đợi từng khuôn mặt người về…

Hè về, có lẽ bộn bề vì cuộc mưu sinh – học tập, biết bao lo toan luôn luôn nặng trĩu canh cánh bên lòng, nhưng khi nhận được tín hiệu thân thương, ai nấy cũng đều tất bật xắp xếp công việc, nhắn gọi nhau, hẹn gặp nhau trong giờ phút thiêng liêng đong đầy thân ái Hẹn ngày hạnh ngộ !

– 19 –

Hạ Cánh Giữa Tầng Không

– Ghi dấu ngày nghỉ, rời tham gia phật sự BHD Bình Thuận –

Cánh lộc non tơ nhỏ nhắn – khẻ khàng nhú ra từ thân cành, lá chuyển mình – nẩy ra giữa lòng đời gian nan cơ cực. Trong màu áo xanh ngọc xinh xắn, trãi năm tháng miệt mài gian khó, lá được thân cành đùm bọc thương yêu che chở, tưới tẩm tinh hoa đất trời. Lá vươn mình trưởng thành, khoác lên mình mầu áo xanh thẳm. Trong từng cơn gió thoảng về rung khua, chan hòa nắng ấm, cùng với biết bao bạn bè đồng hành – đồng tâm hợp lực –– chung sức chung lòng tỏa hương khoe sắc, trao lại cho đời biết bao nhựa sống – tỏa mát nhân gian.

Thời gian dần trôi – bóng câu cửa sổ, Xuân – Hạ – Thu – Đông, Sinh – Lão – Bệnh – Tử, quy luật tuần hoàn – vô thường, ai rồi cũng phải trải qua. Đến cuối dòng đời, ngẫm lại chưa một lần lầm lỗi – quay lưng, để lại vết đời lấm lem. Nhìn lại với tấm lòng hy sinh – trung trinh – son sắt, đã cùng với biết bao anh chị em đồng sự chung lưng đâu cật – kề vai sát cánh, sẵn sàng đối mặt gian nan thành toàn sứ mệnh thiêng liêng.

Sau những tháng ngày dài khó khăn – tích cực vận động – để tìm sự đồng tình, hôm nay mới được bàn giao lại thế hệ kế tục sự nghiệp thiêng liêng.

Trọn cả cuộc đời dâng hiến, như con tằm cần mẫn – thắt ruột nhã tơ, trao lại cho đời biết bao thế hệ, gói mình ấm êm trong tấm lụa vàng óng ả. Bây giờ nhìn lại, cảm thấy lòng thong dong – thanh thản thảnh thơi – nhẹ bước vào tầng không, không cảm thấy hổ thẹn với lương tâm.

Gửi gắm tâm tư, hy vọng những thế hệ nối tiếp sự nghiệp truyền đăng, với sức trẻ tràn trề, trí tuệ sáng tạo, luôn luôn làm mới sinh hoạt, giữ vững tay chèo – lèo lái con thuyền vượt qua gian khó, chuyển hóa thời cuộc – làm nên lịch sử, cặp bến bình yên.

Bóng ngã trời Tây, màu trời xám ngắt, cánh mây lam nương gió dần trôi. Cánh nhạn quá tầng không – nhẹ nhàng qua sông, hạ cánh bình yên bên lều cỏ – cảo thơm lần giở trước đèn !

Lam Nhã Thảo Am. Vào Hạ – 2023.

– 20 –

Thảo Am Đỉnh Tuyết

Thảo am đỉnh tuyết gió hú mây ngàn chân xếp tròn khuôn trăng thánh thiện quanh năm suy tư trầm lắng tháng ngày trong trẻo thơ ngây bổng chốc thoảng mây e ấp buông xuống trần trụi bạch ngọc hồng hoa vun vút vờn cao cánh đào chớm nở run rẩy nắng xuân nóng bỏng miên man triều dâng lặn ngụp triền miên điên đảo mụ mẫm cơn mê đi hoang bất tận.

Đường xa ngút ngàn hun hút mòn mỏi trược dài theo năm tháng lăn lóc bụi đời điên đảo cỏi trần ai vạn dăm mù khơi trăm năm một giấc kê vàng mỏi gối chùn chân bao lần nãn đời lận đận tình người bạc thếch như vôi.

Cỏi hư vô chân mây gát núi cội thông già ngã bóng chiều hôm chim ríu rít gọi đàn tìm về tổ ấm ánh nguyệt vờn hoa sóng sánh ánh bạc màu sương gió năm tháng mãi chơi xa quên cả lối về gió dừng lại mây dừng trôi chim hạc mỏi cánh.

Nơi của vô cùng cung son thếp vàng ấm áp nến ngọc lung linh hạt mầm chớm nở hoa lá bổng thầm thì gió thoảng rung khua chim hát sơn ca tung tăng thềm ngọc thơ ngâm mấy khúc sáo vi vu vào không chiều tà yên ả lá vàng xào xạc mỗi bước sen thơm đi về tự tại thảo am vẫn còn đây tháng ngày đọng lại cảo thơm xưa lần giở trước đen !

– 21 –

TÌNH LAM THẮM THIẾT

Ôi thân yêu biết bao tình lam thắm thiết ! Cái tình cảm thiêng liêng – ruột rà chung cùng dòng máu lam hiền hòa, mãi mãi thắm thiết khắc ghi khó bao giờ phai nhạt. Trên thế giới, chưa có một tổ chức nào có tinh thần dân chủ – bình đẳng – hòa hợp như Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

“Nào về đây ta họp đoàn cùng nhau …

“Anh với em ta về sống vui trọn ngày …”

“Cùng nhau múa chung quanh vòng,

“Vui cùng vui múa vui …”.

Dù anh – dù chị – dù em, vì cuộc mưu sinh – nhu cầu công tác hay du học phương xa. Dòng máu lam trong mỗi Anh – Chị – Em vẫn mãi mãi hiền hòa tuông trào trong huyết quản, mãi mãi hoài niệm nhớ về ngôi chùa xưa, nơi có mái ấm Gia Dình Phật Tử, nơi đã trưởng dưỡng đạo tâm cho chúng mình mãi mãi lớn khôn. Rồi một ngày nào đó, rồi anh – rồi chị – rồi em bất chợt trở về, gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, vội vã ôm choàng lấy nhau, trút cho nhau bầu tâm sự qua bao tháng năm dài nhung nhớ. Dù cho có anh – có chị – có em đến với GĐPT sau này, vẫn không cảm thấy xa lạ, anh chị em tình lam thắm thiết trăm trứng nở hoa, cùng nhau nắm tay – cùng hát:

“Đây gia đình cùng nhau chung thân ái !…”

Lam Nhã Thảo Am, viết xong nửa khuya 20 tháng 8 năm 2023.

Cẩn bút




TỰ ÁI – TỰ TRỌNG – TỰ DO – TỰ TẠI

TỰ ÁI
(01)

Tự ái là gì? Tự ái tiếng Anh là gì? Dấu hiệu của người có tính tự ái? Cách khắc phục để vượt qua lòng tự ái?

Tự ái là một tính cách không tốt tồn tại trong cảm xúc, lý trí của con người. Thể hiện với các dấu hiệu đề cao bản thân, thường cho rằng mình không được coi trọng và bị coi thường. Tự ái khiến người đó không cởi mở, gần gũi hay tương tác với mọi người xung quanh. Khi quá để tâm vào lời nói hay hành động của người khác, họ lại càng suy nghĩ theo hướng tiêu cực. Cần nhận biết các dấu hiệu của tự ái, khắc phục tính tự ái để hoàn thiện bản thân. Cũng như mang đến nhiều cơ hội hòa nhập và phát triển trong xã hội.

Mục lục bài viết
• 1. Tự ái là gì?
• 2. Tự ái tiếng Anh là gì?
• 3. Dấu hiệu của người có tính tự ái:
• 4. Cách khắc phục để vượt qua lòng tự ái?

1. Tự ái là gì?
Tự ái là từ gốc Hán Việt, trong đó: Tự là bản thân, ái là yêu.
Tự ái là tự yêu bản thân mình, quá nghĩ đến bản thân, đề cao cái tôi quá mức. Họ luôn nghĩ đến các điểm đã làm tốt của bản thân, từ đó luôn nghĩ mọi người đang soi sét, không có thiện ý với mình. Từ đó mà thường sinh ra bực tức, cáu gắt, giận dỗi khi cho rằng mình bị đánh giá thấp hoặc bị coi thường. Điều này khiến họ trở lên xa cách với mọi người xung quanh, dần hình thành sự đố kỵ và các tiêu cực khác.

Tự ái trước nhất là thái độ mặc cảm và xấu hổ về bản thân. Tự cảm thấy xa cách và không tin tưởng vào sự chân thành hay suy nghĩ của mọi người xung quanh về mình. Khi thấy hoặc cảm nhận chủ quan rằng mình kém thua người khác về phương diện này hay phương diện khác. Như vậy, họ lại càng đưa ra các lý do khách quan để giải thích, biện hộ cho sự kém cỏi của mình. Người tự ái cũng thường không có ý chí phấn đấu hay niềm tin nỗ lực mang đến thành công.

Người tự ái dễ sinh lòng hờn dỗi, ganh ghét, đố kị, mặc cảm với người khác. Đặc biệt là người có phần nổi trội hơn mình. Sự tự ái hình thành và chế ngự các suy nghĩ khách quan, các tự tin của con người.

2. Tự ái tiếng Anh là gì?
Tự ái tiếng Anh là Narcissism.

3. Dấu hiệu của người có tính tự ái:
Người tự ái thường dể tổn thương, họ xa lánh mọi người vì cảm giác không nhận được sự chân thành. Họ luôn muốn thổi phồng tầm quan trọng của chính mình và quan tâm hơn cả đến cảm xúc của bản thân. Người tự ái ít quan tâm đến cảm xúc của người khác, và thường có lòng tự trọng rất cao. Sự tự tin của về bản thân thường không quá lớn so với sự tự ti khi không thể hòa nhập. Do vậy mà người hay tự ái vừa đáng trách cũng rất đáng thương.

Các dấu hiệu của người tự ái có thể nhận diện như sau:

Luôn thích làm trung tâm của sự chú ý:
Người tự ái thường thích làm trung tâm của sự chú ý, họ yêu bản thân. Khi được quan tâm, họ cho rằng mình quan trọng đối với mọi người xung quanh. Họ nhanh chóng cảm thấy hụt hẫng nếu sự quan tâm đó được chuyển hướng sang câu chuyện, chủ đề về con người khác. Các cảm xúc này đến từ trong cuộc sống đời thường và cả khi làm việc. Mang đến sự tự ti, xa cách với tất cả mọi người.

Họ thường nhắc nhở về các thành tích của họ, muốn các việc mình làm phải là tốt nhất. Giải thích tại sao ý tưởng và đề xuất của họ xứng đáng được xem xét đặc biệt. Cũng như cảm thấy hụt hẫng, bất công nếu không được đánh giá cao, không được đối xử đặc biệt. Họ làm cho mình trở nên “quyền lực” hơn và có ảnh hưởng nhất có thể. Cũng như mong muốn nhận được sự thuận lợi, hưởng ứng tốt nhất từ mọi người xung quanh. Các suy nghĩ này thể hiện sự yêu bản thân quá mức.

Thường bị cảm xúc lấn át:
Người tự ái luôn đặt cái tôi của bản thân lên đầu. Kể cả trong công việc, sinh hoạt, giao tiếp hay trong đời sống tình cảm. Nếu ý nghĩa của phê bình để nhận ra khuyết điểm, để sửa sai và có kinh nghiệm phát triển bản thân. Thì với người tự ái, họ xem là mình đang bị đối xử bất công, đang bị trù dập. Các suy nghĩ bốc đồng đó cũng là cơ sở để đưa ra những quyết định sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng.

Trong đấu tranh giữa lý trí và cảm xúc, các cảm xúc của người tự ái thường lấn át. Họ luôn cố chấp, bao biện cho các lỗi sai của mình. Đôi khi họ không thèm tranh luận vì tính bảo thủ trong suy nghĩ. Họ không chịu nhìn nhận quan điểm của người khác, không lắng nghe, tiếp thu các ý kiến mang tính chất xây dựng. Vì với họ, đó là sự lên mặt, sự dạy đời và điều khiển cuộc sống đáng ra thuộc về họ.

Vì thế mà dễ đưa cuộc tranh cãi vào bế tắc, làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ xung quanh. Người tự ái cũng khó có được các mối quan hệ tốt đẹp, thân thiết với mọi người.

Kỹ năng làm việc nhóm hạn chế:
Người hay tự ái thường có cái tôi rất lớn, luôn giữ ý kiến của bản thân mình. Trong nhiều trường hợp, họ không đưa ra quan điểm vì nghĩ rằng rồi cũng bị bác bỏ. Họ mang đến các suy nghĩ và đánh giá khác với số đông, và thường không mang lại hiệu quả tương tác trong nhóm.

Thậm chí khi được người khác góp ý bổ sung ý kiến sẽ không hài lòng, nổi lên tính tự ái. Họ chấp nhận dung túng cho các suy nghĩ, quan điểm hẹp hòi, gò bó của mình. Từ đó có thể gây tranh cãi không đáng có làm ảnh hưởng rất lớn đến công việc chung. Tính chất hoạt động tập thể cũng không mang lại hiệu quả cao nhất.
Không chịu rút kinh nghiệm, chậm tiếp thu cái mới:

Những người hay tự ái thường khó nhận ra cái sai của bản thân. Thường kém trong phán đoán, cân nhắc để điều chỉnh các kế hoạch trong mục đích thực hiện. Không chịu rút ra kinh nghiệm, bài học từ những người đi trước. Sự bảo thủ khiến họ luôn có những suy nghĩ theo lối mòn, theo quan điểm cá nhân. Từ đó mà không hòa mình vào tập thể, vào cái chung. Sự tự ái cũng đến từ suy nghĩ mình không được đánh giá cao trong tập thể, nên họ lựa chọn không tham gia vào tập thể.

Sau những lần thất bại, vấp ngã, sai lầm, họ không chịu thay đổi. Các đánh giá để điều chỉnh bản thân không được thực hiện. Bởi họ sợ thay đổi người khác sẽ nghĩ rằng mình kém cỏi. Họ cố gắng chứng minh mình có khả năng, mình làm đúng ngày từ các chiến lược đầu tiên. Trong khi có thể đã nhận thức ra sự sai lầm của mình. Sự ngại thay đổi, sợ bị mọi người đánh giá, sợ không được coi trọng lấn át đi sự quyết đoán. Chính điều này càng làm họ khó đi đến thành công.

Sống trong đau khổ, dằn vặt:
Cuộc sống của họ thường có các suy nghĩ cảm xúc tiêu cực, thường cảm nhận được sự tồi tệ từ mọi khía cạnh. Người có tính dễ tự ái sẽ dễ bị đau khổ, bất an, khó có được những giây phút yên bình, vui vẻ. Bởi họ luôn tự nhìn nhận bản thân trong mắt người khác bằng sự tiêu cực. Họ luôn để bụng, dằn vặt, đau khổ mà không có cách giải thoát.

4. Cách khắc phục để vượt qua lòng tự ái?
Sẵn sàng tiếp thu các nhận xét, đóng góp của người khác:
Người tự ái phải có ý thức thay đổi bản thân, bước ra khỏi ranh giới mặc cảm hay suy nghĩ tiêu cực. Sẵn tâm lý thoải mái để đón nhận những tư tưởng mới lạ, tham gia cải thiện các mối quan hệ. Cần lắng nghe các góp ý của người khác, nhìn nhận lại bản thân để có sự thay đổi tích cực hơn.

Áp dụng hai nguyên tắc sau đây sẽ giúp bạn khắc phục tính tự ái một cách dễ dàng và hiệu quả:

– Lắng nghe các góp ý đúng để thay đổi:
Phải thấy được sự chân thành, góp ý thay đổi, phát triển của người khác. Không tạo ra các vỏ bọc cho bản thân để có thể học hỏi và thay đổi tốt hơn. Hãy lắng nghe cho dù đó là những lời khuyên nhỏ nhặt. Họ có thể là khách hàng góp ý đối với sản phẩm, với chất lượng dịch vụ của bạn. Họ có thể là người thân cho bạn những lời khuyên trong cuộc sống.

Đừng sợ nghe những lời chỉ trích, đừng ngại thay đổi. Phải cố gắng hướng đến các tích cực, chất lượng trong cuộc sống. Thay vì không dám vượt qua các giới hạn của bản thân để dậm chân tại chỗ.

– Tập chung hoàn thành các mục tiêu, chứng minh bản thân:
Nếu cảm thấy mình đang bị mọi người đánh giá thấp, ban phải kiên trì học hỏi, chứng minh thành công của mình. Cho họ thấy những gì họ nghĩ về bạn hoàn toàn sai lầm. Thay vì trở thành mặc cảm, tự ti, nhu nhược và bắt đầu so sánh mình với người khác. Hay khoanh vùng mình vào một góc, thu hẹp các mối quan hệ và các cơ hội trước mắt.

Điều tốt nhất bạn nên làm vạch ra các định hướng, mục tiêu và quyết tâm. Tập trung vào từng mục tiêu ngắn hạn và dài hạn mà mình đã đặt ra, từng bước hoàn thành những mục tiêu đó. Bạn xứng đáng và phù hợp để thực hiện các thay đổi. Cũng như có năng lực để vượt qua các rào cản của bản thân.

Hãy tâm niệm rằng mọi điều bạn làm là vì chính bạn, bởi bản thân bạn xứng đáng với điều tốt nhất. Cũng như chứng minh cho mọi người thấy các khả năng, những việc bạn có thể làm.

Chế ngự lòng tự ái:
Phải thực hiện bằng sự quyết tâm, nỗ lực thay đổi để tìm kiếm các hiệu quả.

– Thấy điều hay thì học, thấy điều sai thì sửa, cái gì không tốt thì bỏ.
– Không cố chấp, không quan trọng hóa vấn đề, không kỳ vọng quá mức vào bản thân.
– Không chán nản, thất vọng, làm việc gì cũng phải suy nghĩ trước sau.
– Không đòi hỏi toàn hảo, không dễ dãi với mình, không khắt khe với người khác.

Đó không chỉ là bí quyết chế ngự lòng tự ái. Mà còn là phương pháp giúp bạn hài hòa sự vận động giữa cơ thể và tâm trí. Giúp bạn có được suy nghĩ tích cực, khám phá các giới hạn của bản thân. Tạo tiền đề cho một cuộc sống hạnh phúc, thanh thản. Các suy nghĩa cần được thực hiện trong hành động, với quyết tâm trong công việc. Thay vì cứ ủ rũ và bi quan trong năng lực hay cái nhìn của mọi người về mình.

Thạc sỹ Đinh Thùy Dung

TỰ ÁI
(02)

Trong cuộc sống khi chúng ta mắc phải những sai lầm và nhận được những ý kiến đóng góp của những người khác, đối với những người tích cực họ sẽ coi đó như là những bài học để hoàn thiện bản thân nhưng đối với những người tiêu cực họ có thái độ không lắng nghe những ý kiến từ người khác đề cao cái tôi. Tính cách đó được gọi chung là tự ái.

1. Tự ái là gì?
Tự” có nghĩa là bản thân mình, “ái” có nghĩa hán việt là yêu. Tự ái là tự yêu bản thân mình. Đây là một tính từ mang nghĩa chỉ sự đề cao cái tôi của bản thân mà sinh ra cáu gắt, giận dỗi, bực tức mỗi khi bản thân mình bị coi thường hoặc bị người khác đánh giá thấp.

Tự ái cũng có thể nói tới một hành động hờn dỗi, sự phản kháng tiêu cực của một người nào đó khi họ bị người khác không công nhận thực lực. Ví dụ tự ái khi bạn cảm thấy mặc cảm với bản thân cho rằng mình luôn thua kém người khác. Hoặc đây cũng là một từ chỉ sự đề cao bản thân mà sinh ra hờn dỗi, tức giận khi ai đó hạ thấp bạn. Những người có tính cách tự ái dễ sinh lòng ganh ghét, đố kỵ, hờn dỗi và mặc cảm với người khác, nhất là đối với những người khác có thành tích cao hơn mình.

Theo nghiên cứu khoa học, tự ái là một hội chứng của việc rối loạn nhân cách. Tự ái dùng để chỉ những người luôn quan tâm, để ý đến sự thành công của bản thân và đề cao tầm quan trọng của mình đối với xã hội. Trong các mối quan hệ họ thường khó kết nối với những người khác do tính cách hay giận dỗi, e ngại tiếp xúc với người khác. Họ khao khát nhận được sự ngưỡng mộ và để ý từ những người khác.

2. Những biểu hiện của người có tính tự ái
– Coi mình là tâm điểm

Người có tính tự ái thường muốn được là tâm điểm của sự chú ý đối với mọi người trong cuộc sống cũng như trong công việc. Người có tính tự ái luôn muốn mọi người phải chú ý và nhớ tới những hành động, thành tích của mình và muốn những suy nghĩ và ý tưởng của họ phải được coi trọng và xem xét, đề cao. Người tự ái thường hay có những suy nghĩ tiêu cực, tự làm tổn thương đến bản thân mình và luôn suy nghĩ không có ai để ý và quan tâm mình. Luôn có suy nghĩ mình không quan trọng trong xã hội.

– Bị cảm xúc chi phối
Người có tính tự ái sẽ bị cảm xúc chi phối mạnh bởi vì họ luôn quan trọng và đặt cái tôi lên hàng đầu. Trong cuộc sống khi nhận được những lời khuyên, những lời góp ý của những người xung quanh người có tính tự ái sẽ cho rằng những lời nói đó của họ đang hạ thấp bản thân mình và coi thường mình. Điều đó sẽ dẫn đến sự mặc cảm, tự ti, bốc đồng và thậm chí họ sẽ đưa ra những quyết định sai lầm dẫn tới những hậu quả rất nghiêm trọng. Trong các cuộc tranh luận hoặc nói chuyện người có tính tự ái sẽ không bao giờ thừa nhận cái sai về mình mà luôn cố chấp cho rằng bản thân mình đúng. Những người này đề cao quan điểm của bản thân mà không chịu nhìn nhận quan điểm của người khác đưa ra nên đôi khi những quan điểm của người có tính tự ái mang tính tiêu cực sẽ ảnh hưởng đến cuộc nói chuyện và mối quan hệ với tất cả mọi người, đặc biệt những câu nói đùa của người khác cũng khiến người tự ái suy nghĩ để ý và làm quá vấn đề khiến cho mối quan hệ trở nên xấu.

– Kỹ năng làm việc nhóm kém
Với tính cách đề cao cái tôi của bản thân, do vậy những người có tính tự ái thường mang sự bảo thủ và cố chấp. Họ không có xu hướng thích lắng nghe những ý kiến đóng góp từ người khác, nếu nghe những lời đóng góp của người khác họ sẽ cảm thấy không hài lòng không đồng ý với những ý kiến quan điểm đó dẫn tới hiệu quả công việc không cao hoặc có những người không tự tin vào bản thân mình nên khi nào việc nhóm họ cũng không tham gia đóng góp ý kiến xây dựng cho nhóm. Có rất nhiều người khó chịu khi phải làm việc với người có tính cách bảo thủ, cố chấp không có tinh thần xây dựng nhóm mà chỉ tập trung đề cao ý kiến cá nhân khi nhận sự đánh giá từ người khác thì giận dỗi.

– Không chịu tiếp thu ý kiến của người khác
Tính cách điển hình của người có tính tự ái đó là không chịu nhận lỗi sai và không lắng nghe tiếp thu ý kiến của người khác. Đối với những người tích cực khi được người khác góp ý hoặc chê trách họ vui vẻ nhận lỗi và thẳng thắn rút kinh nghiệm sau những sai lầm đó, họ coi đó là những kinh nghiệm quý báu. Nhưng người tự ái họ luôn có một suy nghĩ là bản thân họ luôn đúng và không chịu thay đổi tính cách và những hạn chế của mình. Tự ái là một rào cản lớn để tới thành công của mỗi người.

– Suy nghĩ tiêu cực quá nhiều
Người có tính tự ái sẽ suy nghĩ quá nhiều. Đôi khi chỉ là những câu nói trêu đùa của những người xung quanh cũng khiến họ phải suy nghĩ bất an. Người có tính tự ái khó có được những giây phút sống bình yên, vui vẻ bởi lúc nào trong đầu họ cũng có những suy nghĩ tiêu cực, những trạng thái bất an. Người có tính tự ái luôn tự dằn vặt và trách móc bản thân mình và không có cách nào giải thoát khỏi những suy nghĩ tiêu cực ấy. Những người có tính tự ái trước những tổn thương sẽ không tìm cách quên đi mà càng ngày càng lún sâu vào tổn thương đó.

3. Nguyên nhân dẫn tới tự ái
Tự ái được hình thành trong quá trình trưởng thành của chúng ta bắt đầu xuất hiện ở tuổi thiếu niên, khi đó suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta đang trong quá trình phát triển với tâm lý muốn khẳng định mình và có sự so sánh mình với bạn bè đồng trang lứa.

Môi trường sống cũng là một nguyên nhân dẫn tới sự tự ái, sự bỏ mặc của bố mẹ, gia đình và người thân khi con cái đến tuổi trưởng thành không thấu hiểu và bên cạnh con mỗi khi con cần, để bản thân con trải qua những suy nghĩ và cảm giác tiêu cực sẽ dẫn đến tự ái và không tự tin vào bản thân.

4. Bí quyết để vượt qua sự tự ái
– Thẳng thắn đối mặt với những phê bình của người khác

Muốn vượt qua sự tự ái, chúng ta phải tạo cho mình sự thoải mái và gạt bỏ những suy nghĩ tiêu cực, đón nhận những tư tưởng mới. Chúng ta cần dũng cảm đối mặt với những góp ý của những người xung quanh, cần tiếp thu và sửa đổi để trở thành một phiên bản tốt hơn. Nếu những lời khuyên đó của họ là sai bạn cần cố gắng thực hiện tốt công việc để chứng minh rằng bạn đang đúng. Tập trung vào mục tiêu mà bản thân đã đề ra thay vì cứ mãi nhìn thành công trên cao của người khác.

– Rèn luyện tính khiêm tốn
Chúng ta cần hạ thấp cái tôi xuống để nhìn thấy những ưu điểm và điểm mạnh của người khác. Đồng thời tiếp thu những ý kiến đóng góp của họ, không quá cố chấp trong mọi vấn đề và không kỳ vọng quá mức vào bản thân. Dám đối mặt với những sai lầm và sửa chữa nó trân trọng những ý kiến đóng góp của người khác. Không quá kiêu căng, thể hiện quá đà.

– Luôn có suy nghĩ tích cực
Đứng trước một vấn đề, chúng ta cần có những suy nghĩ tích cực để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi sự tự ái sẽ làm chúng ta mất tự tin vào khả năng của mình khiến ta suy nghĩ không có khả năng làm được việc đó. Vì vậy một thái độ sống tích cực là điều quan trọng để chúng ta có thể loại bỏ sự tự ái. Thái độ sống tích cực là một liều thuốc tinh thần giúp chúng ta có thể xoa dịu về tinh thần để hướng tới một cuộc sống hạnh phúc yên bình vui vẻ cùng mọi người.
Trên đây là một số chia sẻ của luật Minh Khuê về tính tự ái. Hy vọng đó là những tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn. Mong rằng tài liệu này có thể giúp bạn nhận ra được những tính cách của bản thân.

Nguồn: https://luatminhkhue.vn/tu-ai-la-gi.aspx

Lòng Tự Trọng

Lòng tự trọng thể hiện giá trị của bản thân con người, từ đó giúp họ được tôn trọng và đánh giá cao. Lòng tự trọng được chính bản thân con người nuôi dưỡng, hình thành và thể hiện. Qua đó mang đến kết quả được phản ánh ra bên ngoài, để mọi người nhìn nhận và tôn trọng. Do đó, tự trọng mang đến ý nghĩa cũng như vai trò lớn trong nhận thức và cuộc sống của con người. Đây là đức tính tốt, có ý nghĩa thúc đẩy con người phát triển tích cực. Con người cần xây dựng và nuôi dưỡng để lòng tự trọng được thể hiện đúng lúc, đúng chỗ, mang đến giá trị bản thân.

Mục lục bài viết

1. Lòng tự trọng là gì? 

Lòng tự trọng là sự coi trọng danh dự, phẩm chất, tư cách của chính bản thân. Tự bản thân thấy được giá trị trong con người mình. Qua đó coi trọng các giá trị đó, giúp con người được người khác tôn trọng, mang đến nhiều giá trị tích cực cho người khác. Lòng tự trọng là một đức tính cần phải có trong mỗi người. Mất tự trọng bạn sẽ mất đi rất nhiều thứ, mất luôn cả giá trị chính mình. Từ đó không thể hiện được chất lượng trong năng lực, quyết định cũng như tiếng nói đối với người khác.

Người có lòng tự trọng là luôn biết trị giá của chính mình mình. Sự tự trọng cho ta thấy các giá trị xung quanh bên cạnh lý tưởng nhận thức đúng đắn. Biết mình là ai, mình có những gì, tự hào về điều gì và không để mọi người xâm phạm đến những điều ấy. Mang đến giá trị thể hiện cho bản thân cũng như được mọi người xung quanh đánh giá cao.

Người có lòng tự trọng sẽ biết bảo vệ lòng tự trọng của mình. Họ bảo vệ cho các quyền và lợi ích không để người khác xâm phạm. Lòng tự trọng sẽ không là những thứ đi ngược với lương tâm con người. Bản thân con người cần mang những nhận thức chuẩn mực và đúng đắn để thể hiện trong cuộc sống.

Người có lòng tự trọng:

Người có lòng tự trọng là những người hiểu giá trị của mình, biết mình là ai, mình có những gì,… Khi đó, họ xác định được giá trị bản thân, điều được và không được làm. Và họ luôn cố gắng bảo vệ lòng tự trọng đó của mình, không cho bất kỳ ai xâm phạm. Cũng như thể hiện các giá trị của bản thân họ để người khác tôn trọng.

Lòng tự trọng được chia thành 2 cấp bậc:

Đó là: lòng tự trọng cao và lòng tự trọng thấp. Qua đó mang đến cư xử và mức độ Đó là: lòng tự trọng cao và lòng tự trọng thấp. Qua đó mang đến cư xử và mức độ điều chỉnh hành vi, chuẩn mực của họ.

+ Những người có lòng tự trọng thấp luôn nhìn nhận vấn đề theo hướng tiêu cực, phiến diện. Họ luôn nghĩ những thứ đang xảy ra không quan trọng đối với họ và có cách cư xử, suy nghĩ làm mất đi giá trị của bản thân.

+ Ngược lại với những người có lòng tự trọng, họ không bao giờ coi rẻ giá trị bản thân vì bất cứ điều gì. Họ luôn nhìn nhận, quyết định cũng như chủ động bảo vệ các lợi ích tốt nhất. Mọi hành động và suy nghĩ của họ đều cho thấy họ là người liêm khiết, chính trực, dám làm dám nhận.

2. Lòng tự trọng tiếng Anh là Self-esteem.

3. Vai trò và ý nghĩa của lòng tự trọng đối với cuộc sống con người:

Không chỉ là một phẩm chất cao quý, lòng tự trọng còn mang đến nhiều ý nghĩa tích cực cho con người. Lòng tự trọng là giá trị của mỗi con người, cũng như thể hiện trong giá trị cuộc sống của họ. Phản ánh với các ý nghĩa nổi bật như:

– Giúp chúng ta biết cách tôn trọng bản thân cũng như tôn trọng người khác. Nhìn nhận các quyền lợi, tiếp cận hiệu quả trong nhu cầu và giới hạn của quyền lợi đó.

– Tạo động lực để chúng ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống. Mang đến nhìn nhận tích cực, để hoàn thành nhiệm vụ được giao trong mục tiêu và động thái sẵn sàng. Tự trọng là động lực để chúng ta mạnh mẽ bước tiến và gặt hái nhiều thành công. Qua đó, con người tìm kiếm được các lý tưởng và có thái độ sống tích cực hơn.

– Nâng cao phẩm giá và sự uy tín cho bản thân mỗi con người. Từ đó cũng đánh giá và nhìn nhận trực quan hơn về con người trong xã hội.

– Được nhiều người yêu quý, nể phục và tôn trọng. Có được tiếng nói, giá trị cống hiến cũng như bài học cho người khác. Trở thành các tấm gương về nhận thức và thái độ sống tích cực đối với cộng đồng.

Các vai trò đối với chính bản thân con người:

Lòng tự trọng giúp con người nhìn nhận vấn đề theo hướng tích cực. Sự tự trọng giúp họ xác định được giới hạn của công việc, của mối quan hệ. Cũng như không cho phép các khó khăn, trở ngại tác động đến sự cố gắng, sáng tạo của họ. Tạo động lực và tự tin vững bước trên con đường của chính mình. Sẵn sàng thích ứng và thay đổi trong hoạt động cuộc sống.

Lòng tự trọng còn giúp ta sống đúng lương tâm, trách nhiệm, đúng chuẩn mực. Không làm những việc sai trái, vi phạm đạo đức, pháp luật,… Chính sự tự trọng mang đến thước đo trong giới hạn bản thân con người. Họ đặt mình trong vị thế của người khác để điều hòa các mối quan hệ xung quanh.

Lòng tự trọng giúp ta nhận ra phần hạn chế của chính mình. Nhìn nhận, thay đổi là tất yếu để con người được hoàn thiện, được tốt hơn. Để từ đó không ngừng nỗ lực, cố gắng vươn lên, giúp bản thân hoàn thiện hơn.

Lòng tự trọng thể hiện ở các khía cạnh cuộc sống:

Trong gia đình, nếu thiếu lòng tự trọng, các thành viên sẽ không biết tôn trọng lẫn nhau. Nhờ có tự trọng mà vai vế được xác định. Có sự tôn trọng, kính trên nhường dưới, lắng nghe và chia sẻ với nhau. Đặc biệt khi gia đình là nơi để về, gia đình sẽ che chở cho con người.

Trong xã hội, nếu có quá nhiều người thiếu lòng tự trọng thì không sớm thì muộn cũng đầy những kẻ dối trá, sẵn sàng chà đạp lên những nguyên tắc tốt đẹp giữa người với người. Thông qua pháp luật và các chuẩn mực xã hội, chuẩn mực đạo đức mà lòng tự trọng được nâng lên.

Hành vi giả dối, lừa gặt sẽ được ngăn chặn và biến mất dần trong xã hội. Từ đó nhân lên vai trò và ý nghĩa của các phẩm chất, đức tính tốt đẹp khác ở con người. Cũng như giúp các mối quan hệ xã hội được phát triển, nâng cao.

Các giá trị của lòng tự trọng:

Sống biết tự trọng con người sẽ không làm những điều dối trá. Tuy người khác không biết nhưng chính mình biết rõ. Chẳng hạn như:

+ Một học sinh biết tự trọng sẽ không gian dối trong học tập thi cử. Sẽ nghiêm túc thực hiện công việc học tập, rèn luyện.

+ Một công chức nhà nước biết tự trọng thì biết tự giác hoàn thành nhiệm vụ, không lợi dụng chức vụ để tư túi. Từ đó bài trừ được các hành vi, các vi phạm được chủ thể có chức quyền thực hiện.

+ Một con người biết tự trọng sẽ không phản bội lòng tin của người khác. Giúp con người có cơ sở chắc chắn để tin tưởng và yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

4. Biểu hiện của tự trọng:

Khi cuộc sống ngày càng xô bồ thì lòng tự trọng ngày càng được đề cao. Con người cần phải có lòng tự trọng để biết cách đối nhân xử thế, biết mình cần làm gì và muốn làm gì để phân biệt được đúng – sai, phải – trái, ngăn chặn bản thân làm những việc trái với lương tâm. Qua đó có những biểu hiện cụ thể, rõ ràng trong cuộc sống và nhận thức.

Mỗi chúng ta không phải ai sinh ra đều hoàn hảo cả. Ai cũng có những khuyết điểm cần sửa chữa và khắc phục từng ngày. Do đó mỗi người cần thể hiện lòng tự trọng, cần trau dồi để mang đến các giá trị thể hiện hiệu quả của bản thân ngoài xã hội. Và chính lòng tự trọng sẽ là kim chỉ nam giúp chúng ta có hướng đi cụ thể, rõ ràng hơn cho bản thân. Cũng như giúp đánh giá thái độ sống, đánh giá giá trị của một con người.

Trong cuộc sống, lòng tự trọng hiện hữu trong mọi hoạt động sống thường ngày, từ những việc to lớn cho đến những hành động rất nhỏ. Phản ánh trong suy nghĩ, hành vi được con người thực hiện. Qua đó phản ánh nhu cầu, quyết định và các tư tưởng của họ đối với sự vật, mọi người xung quanh.

Có thể liệt kê một vài biểu hiện của lòng tự trọng như:

– Luôn cố gắng hoàn thành công việc mình, chịu trách nhiệm bằng chính năng lực bản thân. Thể hiện các chuyên môn, đảm nhận công việc trong tinh thần lắng nghe, tiếp thu và hoàn thành tốt nhất công việc.

– Sẵn sàng đứng ra chịu trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra. Không bao giờ đổ lỗi cho người khác để phủ nhận sai sót của bản thân. Phải để bản thân xác định được thực lực, nhìn nhận so với mặt bằng xung quanh để rút ra bài học.

– Tự nhận ra lỗi lầm của bản thân và lắng nghe góp ý của người khác với thái độ cầu tiến.

– Sống nhã nhặn, luôn chan hòa vui vẻ với người khác. Họ luôn ý thức rằng tôn trọng người khác là tôn trọng chính bản thân mình.

– Có chứng kiến, kiên định với các định hướng, mục tiêu của bản thân, không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cực.

– Ngoài ra, tự trọng còn được thể hiện trong nhiều hành động nhỏ như: không tham tiền bạc của người khác, nhặt được của rơi trả lại cho người mất. Lỡ va quệt vào người khác khi tham gia giao thông thì sẽ xin lỗi, hỏi han người đó cẩn thận,….

Một số biểu hiện của người thiếu lòng tự trọng:

Lòng tự trọng không chỉ là phẩm chất tạo nên giá trị cho mỗi người mà còn tác động đến toàn xã hội. Ngày nay có rất nhiều người nhiều việc thể hiện thiếu lòng tự trọng.

+ Học sinh tìm cách quay cóp trong những kỳ thi, sinh viên chép lại luận văn mỗi kỳ thi tốt nghiệp.

+ Ngoài đường người ta đi vào đường ngược chiều hay vượt đèn đỏ tự nhiên khi không có cảnh sát. Đi lên các vỉa hè hay làn đường dành riêng cho người đi bộ.

+ Nơi công sở người ta làm việc riêng hay dùng điện thoại cơ quan để trò chuyện hàng giờ.

+ Nơi công cộng người ta gây phiền hà cho mọi người không có ý thức giữ vệ sinh bảo vệ môi trường.

Nguồn: https://luatduonggia.vn/long-tu-trong-la-gi-y-nghia-bieu-hien-va-vai-tro-cua-tu-trong/

Tự trọng

Khái niệm về bản thân là những gì chúng ta nghĩ về bản thân; lòng tự trọng, là những đánh giá tích cực hoặc tiêu cực về bản thân, như cách chúng ta cảm nhận về nó.” 

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1_tr%E1%BB%8Dng

TỰ TẠI

Tự tại 自在 có nghĩa là: ジザイ jizai ||| (1) Translated into English as “freedom,” “omnipotence,” but it is difficult to find the adequate expression to deliver the meaning of zizai . What is being referred to by this term is the ability of a buddha to function throughout the universe in any way without impediment. For example, a buddha has all kinds of “supernatural powers” (神通), such as knowing the past and future, reading minds, etc. But in Buddhism, the reason such “powers” are possible is not because of the development of great personal power on the part of a buddha, but because of his/her realization of the world to be completely interpenetrated (通). Thus, the unhindered function of a buddha is nothing other than an expression of the reality of the universe. (2) The name of a god in the Lotus Sutra. 〔法華經 T 262.9.2a17〕

1. Được hiểu là sự tự do tuyệt đối, sức mạnh vạn năng, nhưng khó tìm được từ nào để diễn tả tương ứng với nghiã của thuật ngữ nầy. Ý nghĩa của thuật ngữ nầy là chỉ cho năng lực của Đức Phật có thể vận hành suốt khắp mọi cõi giới mà không hề chướng ngại. Chẳng hạn, một Đức Phật thường có đầy đủ năng lực thần thông (神通), như biết rõ quá khứ vị lai, biết rõ tâm niệm của người khác… Nhưng theo đạo Phật, nguyên do các năng lực thần thông nầy có được không phải vì sự phát huy một năng lực cá nhân của một vị Phật, mà do vì sự chứng ngộ của Ngài về thế giới là hoàn toàn xuyên suốt (thông 通), Do vậy, năng lực không ngăn ngại của Đức Phật chẳng khác gì hơn là thực tại của vũ trụ.

2. Tên một vị thần trong kinh Pháp Hoa.

Nguồn: https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/tu-tai-k9762.html

TỰ DO VÀ TỰ TẠI
CHÁNH TRÍ

Có lẽ không ở thế kỷ nào mà nhân loại bàn và đòi hỏi về tự do bằng thế kỷ thứ XX này. Nào tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do ngôn ngữ, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do kinh doanh,v.v… Đây là không kể những cái tự do thông thường như tự do ăn mặc, tự do ăn ở… mà mỗi người được quyền sắp đặt tùy ý và tùy túi tiền mình.

Tuy nhiên, như chúng ta biết, các thứ tự do đó đều là những tự do tương đối, có giới hạn: mỗi người được tự do làm những gì mình muốn miễn đừng đụng đến tự do của người khác, hay miễn đừng phương hại đến an ninh công cộng, quyền lợi chung của số đông, sinh tồn của xứ sở… Bị hạn chế như thế vì những tự do của thế gian không ít thì nhiều đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với đời sống duy vật, hữu vi, mê chấp của chúng sinh. Còn sống trong xác thịt, vì xác thịt, trong cảnh giới hữu hình hữu tướng, mỗi người đều tự thấy khác với bao nhiêu người xung quanh, mỗi chúng sinh chẳng những muốn giữ chặt phần của mình mà còn muốn khuếch trương là khác, thì bảo làm sao có tự do tuyệt đối được.

Xét cho thật kỹ, đi thật sâu vào vấn đề, chúng ta sẽ thấy những tự do hạn chế đó lắm khi vì lỗi lầm của mỗi người mà hóa ra con số không.

Như tự do cá nhân, thí dụ: Khi bản thân chúng ta không bị bắt bớ giam cầm, tù tội một cách vô cớ, trái với luật pháp, thì chúng ta tự cho là tự do cá nhân của chúng ta được tôn trọng. Đúng như vậy, nhưng chỉ đúng với đối lập, còn tự ta đối với ta, ta có thể từ ngày lập gia lập thất, mỗi người chúng ta tự truất cái quyền tự do cá nhân rồi. Câu “Vợ dây con trói” là một nhận xét rất chân xác của người xưa về cảnh con người tự bắt bớ, tự cột trói lấy mình. Thêm vào đó còn gia nghiệp, càng to lớn bao nhiêu lại càng giam cầm, làm tù làm tội con người bấy nhiêu.

Hay một thí dụ khác: Tự do đi lại. Có quyền đó rồi mà cứ mắc lo giữ của giữ nhà, sợ hao sợ mất, hóa ra một tấc đường chẳng dám ra đi. Vậy cái tự do đi lại có cũng như không.

Đến những cái tự do khác, như tự do tư tưởng, tự do ngôn ngữ, tự do tín ngưỡng… cũng đều tùy thuộc ta mà có hay không, mà bị hạn chế nhiều hay ít. Tâm ta có hướng về một vấn đề nào đó mới phát sinh những tư tưởng, ngôn ngữ, tin tưởng về hướng đó, còn không thì thôi. Không là vì hướng ấy bị che khuất, bị chướng ngại.

Tóm lại, vì con người thế gian bị vấp ngã chấp, pháp chấp, chưa thấy được cái Chân, cái Thật của mọi sự vật cho nên không thông đạt với muôn sự muôn vật, hóa ra vốn tự tại mà lại bị ngăn ngại.

Tự tại là tự do hoàn toàn trong cái thấy nghe hay biết sự nhận định không chân xác thành ra bao nhiêu hành động phải bị hạn chế theo.

Con người thật là Tâm là Tánh, nhưng chúng ta chấp thân và ý làm “ta” cho nên những hoạt động về thể xác cũng như tinh thần của chúng ta phải bị sự hạn cục của thân và ý chế ngự. Tiếp xúc với ngoại cảnh, chúng ta không thể đi quá mức thấy của mắt, nghe của tai… Tư tưởng suy tư, chúng ta không vượt qua nổi bức tường rào của những tri kiến, thành kiến, tập quán, phong tục tích tụ trong đầu óc chúng ta.

Bồ tát tu hành đến mức độ cao (đệ bát bất động địa) là đã thấy rõ cảnh Chân, trái với cảnh giả của thế gian, và năng thông đạt với tất cả các pháp (muôn sự muôn vật), vì vậy mà được tự do hoàn toàn hay đắc viên dung tự tại. Rồi từ cấp thứ tám lên cấp thứ mười, Bồ tát mới dứt khoát với những tư tưởng phân biệt nhân ngã, thân tâm thanh tịnh, ở trong hoàn cảnh nào, lòng vẫn thanh tịnh, không thấy buồn thấy vui, hết còn bị phiền não nghiệp phược làm chướng ngại nữa, tha hồ mà ban bủa lòng thương, thuyết pháp hóa độ chúng sanh một cách bình đẳng.

Tự do của thế gian không thể so sánh với tự tại của các bậc giải thoát.

Trích Từ Quang số 238, tháng 12/1972 – (P.L. 2516)

AN NHIÊN TỰ TẠI

Cuộc sống hằng ngày với nhiều mối lo và sự trăn trở. Nên nhiều người thường cầu cho một cuộc sống an lành, bình yên. Và từ cuộc sống “An yên”, “An nhiên” cũng xuất phát từ những tâm nguyện đó. Vậy bạn hiểu an nhiên là gì? Như thế nào là một cuộc sống an yên? Ý nghĩa của cuộc sống an nhiên tự tại thực chất là gì? Bài viết này có thể sẽ trả lời cho bạn các câu hỏi đấy.

Định nghĩa về an nhiên là gì ?
An nhiên là 1 từ Hán Việt dùng để chỉ trạng thái tâm hồn và một cuộc sống bình yên, tĩnh lặng, thư thái của con người.

– Theo nghĩa cơ bản thì “An nhiên” có nghĩa là:
– An: Hàm ý cho sự an toàn, an lành, bình an, an toàn,…
– Nhiên: có nghĩa cho sự tự nhiên, không cưỡng cầu

Vậy nên “An nhiên” mang ý nghĩa về sự thư thái trong tâm hồn, một lối sống vui vẻ, thoải mái, không sầu lo muộn phiền. Có thể gặp chuyện không nhưng mong muốn, tuy nhiên vẫn sẽ suôn sẻ, như ý,…

An nhiên tự tại là gì? Sống an nhiên là gì?
An nhiên tự tại là sống tĩnh lặng, thong dong giữa dòng đời hối hả, tấp nập

An nhiên tự tại là để chỉ thái độ sống lạc quan, biết cách tận hưởng. Nói một cách hoa mỹ hơn, cụm từ này là để nói giống như cách sống mà các vị thiền sư khuyên bảo chúng ta. Sống không tham sân si, không vương vấn bụi trần. Mang thái độ độc lập tiền tài, danh vọng, để tự do cảm nhận từng khoảnh khắc của cuộc sống.

Tóm lại là an nhiên tự tại là hướng đến một lối sống chỉ có tích cực, bỏ qua mọi tiêu cực để không cảm thấy buồn phiền. Sống tĩnh lặng, thong dong giữa dòng đời hối hả, tấp nập.

Ý nghĩa của an nhiên
Sống an nhiên là không ganh đua, tị nạnh với đời, làm bất cứ điều gì mình muốn, tự do hơn, thoải mái hơn

Nghe qua định nghĩa thì chắc chắn bạn đọc đều cảm nhận được rằng đó là một thái độ sống mà hầu hết ai cũng mong muốn có. Để có thể dễ dàng bỏ qua những tiêu cực cứ xảy đến hằng ngày. Ý nghĩa của lối sống an nhiên đối với mỗi con người chúng ta là:

– Giúp tâm hồn nhẹ nhàng, luôn luôn vui tươi, trẻ trung. Có thể giúp tuổi thọ được kéo dài hơn.
– Không ganh đua, tị nạnh với đời, làm bất cứ điều gì mình muốn, tự do hơn, thoải mái hơn.
– Dễ dàng bỏ qua những áp lực, buông bỏ mọi thị phi, thì bản thân sẽ không dễ dàng đánh gục bởi những khó khăn.
– Khi sống an nhiên tự tại thì bạn sẽ có cái nhìn về cuộc sống một cách đa chiều hơn.
– Có thái độ sống chủ động, luôn biết nhìn vào những mặt tốt lành trong mọi hoàn cảnh sống.

Làm thế nào để có một cuộc sống an nhiên tự tại?
Thử hỏi ai trong mỗi chúng ta lại không muốn có một cuộc sống an nhiên tự tại? Tuy nhiên, dù có phấn đấu đến đâu, thì cuộc sống này rất khó có thể cho bạn sự an nhiên được.

Điều gì xảy đến với bạn không quan trọng, cái quan trọng là thái độ bạn đối diện với nó

Hằng ngày, mỗi người trưởng thành mở mắt dậy là phải bắt đầu với cuộc chiến mưu sinh, lo về cơm áo gạo tiền. Việc “không cầu mà có” chỉ diễn ra với những trường hợp rất ít ỏi trong đời mà thôi, còn lại tất cả đều phải do chính bản thân chúng ta tự thân vận động, không ngừng tìm kiếm cơ hội và chăm chỉ làm việc để có được. Nên thực sự mà nói cuộc sống an nhiên giữa dòng đời tất bật này là vô cùng khó khăn.

Tuy vậy, ta thường nghe người đời nói: “Điều gì xảy đến với bạn không quan trọng, cái quan trọng là cách bạn đối diện với nó”. Bản chất của cuộc sống an nhiên là ở thái độ sống, chứ không phải những gì diễn ra xung quanh chúng ta. Vậy nên hãy rèn luyện cho mình thói quen và thái độ sống tích cực, thì cũng sẽ tới một lúc bạn có thể mặc kế những điều diễn ra ở bên ngoài, mà sâu thẳm bên trong nội tâm vẫn an nhiên tự tại.

Một số giải pháp dành cho các bạn muốn hướng đến một cuộc sống an nhiên tự tại:
Nuôi dưỡng tinh thần
Nuôi dưỡng tình thần bằng cách không tham lam hay cố chiếm đoạt thứ không thuộc về mình. Cũng không buồn vì người khác có được gì đó mà mình không có được.

Nên tìm hiểu về chính bản thân mình, để hiểu rõ hơn về giá trị của bản thân. Bớt ganh đua, ít tính toán sẽ giúp cho tinh thần bạn cảm thấy thoải mái hơn.

Chăm sóc sức khỏe
Xây dựng cho mình chế độ ăn uống lành mạnh, ăn nhiều các loại rau củ quả, giảm thiểu chất béo và dầu mỡ. Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao như một thói quen. Khi cơ thể khỏe mạnh thì dù cuộc sống có vất vả tới đâu, thì vẫn có thể vượt qua được nhiều hơn.

Chăm sóc sức khỏe cho bản thân là biểu hiện rất tích cực của cuộc sống an nhiên
Sống thiện lương

Hãy nên nghĩ đến những điều tốt đẹp, làm những thứ tốt đẹp. Dù bản thân có thể thiệt thòi một chút, tuy nhiên tâm hồn sẽ cực kỳ thanh thản.

Sống cầu tiến
Thể hiện một quan điểm sống vươn lên, tự đạt lấy những gì mình xứng đáng. Như vậy sẽ không phải đau đầu để kiếm kế mưu sinh, không tham sân si, thì cuộc sống mới ung dung, an nhiên, tự tại được.

Nguồn: https://mayruaxemay.vn/an-nhien-la-gi/




TRẠI THÀNH ĐẠO GĐPT THỊ XÃ LAGI – BÌNH THUẬN NĂM 2016

TRẠI THÀNH ĐẠO
GĐPT THỊ XÃ LAGI – BÌNH THUẬN
NĂM 2016

Chúng tôi, những cánh chim lam từ nhiều hướng, đổ dồn về đây vào một chiều lộng gió. Ngoài xa kia vọng đến, tiếng sóng biển rì rào như hát, như mời gọi đón chào. Từ mỗi lòng xe túa ra, tiếng cười giòn tan, tiếng nói rộn rã gọi nhau ơi ới, làm xao động cả một góc trời. Các trại sinh các đơn vị gặp nhau, tíu tít bắt tay, thắm thiết chào hỏi nhau sau một năm dài xa cách

Trại Thành Đạo, hằng năm, Ban Đại Diện GĐPT thị xã Lagi chọn ngày Phật Thành Đạo, làm ngày lễ trại truyền thống. Trại được diễn ra trong thời khắc giao duyên giữa học kì 1 đi qua và học kì 2 đang bước đến. Mỗi kì trại được diễn ra trong 2 ngày, mỗi năm ở mỗi địa điểm khác nhau. Ở mỗi nơi đến đều có mỗi hoài niệm khó phai, nó luôn luôn là dấu ấn, luôn luôn là nỗi hâm hấp rạo rực, như âm ỉ nao nao trong mỗi lòng lam viên suốt một năm dài mong đợi, để rồi được bùng cháy trong mỗi lần gặp lại nhau trong kì trại năm mới

Đặc biệt kì trại lần này, Khối Sinh Hoạt Trại tạo ra một một sân chơi kỳ thú mới. Trò chơi lớn dành cho Ngành Thiếu được diễn ra trong đêm, khi mà ánh mặt trời chưa kịp thức giấc. Sau khi nhận tín hiệu morse, từng đội – chúng tỏa ra, phải mò mẫm tìm dấu đi đường dưới ánh đèn pin. Lắm lúc màn đêm cũng làm cho nhiều trại sinh chùn lòng co cụm lại. Nhưng nhiều hứa hẹn lạ lẫm hấp dẫn của cuộc chơi, đang thu hút, đón chờ phía trước. Thế là từng đội – chúng cứ lướt đến, xông pha tiến lên, vượt qua từng cung đường vắng tênh, bám dây leo núi lên từng vách đá cao nham nhở, vượt qua lòng hồ cam go đầy thách thức, để được đến đích sớm hơn

Trò chơi lớn của Ngành Đồng thì diễn ra trên một lộ trình ngắn hơn, chậm hơn, phải đến lúc mặt trời rực sáng, các em mới được lên đường. Nhưng điểm gặp nhau giữa hai ngành: Ngành Thiếu và Ngành Đồng là những điểm hẹn lạ lẫm đầy hấp dẫn, để rồi đàn anh – đàn chị Ngành Thiếu, đưa đôi tay vững chãi đầy thương yêu, đón từng đàn em Oanh Vũ của mình trên những chiếc phao sáng tạo, vượt qua lòng hồ lạnh ngắt sương mai
Qua sinh hoạt giao lưu, nhiều trò chơi nhỏ hấp dẫn ắp đầy ấn tượng, mà chúng tôi nghe được hàng loạt tiếng cười nổ lên giòn tan, nhiều tràng vỗ tay cổ vũ như muốn làm vỡ tung cả khán trường

Giờ chỉ tịnh buổi trưa sau cùng, chúng tôi tranh thủ làm một vòng quanh đất trại, nhiều trại sinh yên lặng túm tụm với nhau thành từng nhóm, vội vã trao cho nhau từng cuốn sổ xinh xắn, nhiều trại sinh với tư thế bò dưới nền trại, đang chụm đầu vào nhau, đang còng lưng hí hoáy viết, có lẽ là đang vội vã ghi lại cho nhau từng dòng lưu bút nhớ đời

Tại buổi lễ bế mạc trại, thả tầm mắt bao quát, chúng tôi nhìn thấy như ánh hiện lên, làm tỏa sáng trong từng ánh mắt trại sinh. Qua kỳ trại đã làm phấn chấn mỗi lòng. Kỳ vọng mai này, khi rời đất trại trở về trú xứ, các em sẽ là những đoàn sinh tiêu biểu gương mẫu, năng nỗ sinh hoạt, đem kiến thức đã tu học được, làm hành trang thăng tiến bản thân, góp phần công sức xây dựng đơn vị GĐPT tại mỗi địa phương ngày thêm phát triển vững vàng

Cuộc vui nào rồi cũng tàn, cuộc tao ngộ nào rồi cũng phải đến lúc chia xa. Giờ phút chia tay sao mà lưu luyến đến vậy, bài hát Dây Thân Ái sao mà cứ vượt thời gian – mãi dài ra không dứt, bàn tay dây thân ái sao mà cứ siết chặt vào nhau mãi hoài, ai nấy như không muốn rời ra, có lẽ trong mỗi lòng, ai ai cũng đều cảm nhận ra rằng, nếu bàn tay này mà buông rời ra, thì cũng như cánh chim trên khung trời bát ngát kia, mỗi cánh chim lam rồi lại sãi cánh vút về mỗi trú xứ khác nhau, chỉ còn lưu lại từ sâu thẳm ký ức với lời hứa tái ngộ vào buổi tao phùng mai này

Hẹn gặp lại nhau nhé, kì Trại Thành Đạo năm sau !…




Tuệ Sỹ: Về Một Thế Hệ Áo Lam

Tuệ Sỹ: Về Một Thế Hệ Áo Lam
(Nhân ngày giỗ thứ 4 Huynh trưởng Nguyễn Quang Tú)

Ngày chủ nhật, ở một góc chùa vang tiếng nô đùa, líu lo của đàn chim oanh vũ. Sân chùa vắng khách. Chỉ thấp thoáng những tà áo lam. Sau hậu liêu, chùa vắng như không Sư. Trời trưa nắng hanh.

Đàn chim non hồn nhiên trong đôi cánh mỏng màu lam không biết đến những đám mây đen của cơn giông đang kéo đến. Thật sự đã kéo đến nhiều nơi rồi. Cây bồ đề rợp bóng quê hương đang bị tỉa dần lá non. Những nhánh già trơ trọi.

Những ngày đó, trước mắt tôi, một làn ranh rõ rệt; bên này là cõi sống, bên kia là cõi chết. Giờ khắc đong đưa như chiếc cầu độc mộc nối liền hai bờ mộng huyễn. Dù vậy, không sao tưởng tượng được sau cái chết, chỉ một bước, chỉ trong khoảng một đường tơ, một sát na, thế giới là gì, và rồi ta sẽ còn là gì, có giống như chiếc lá lìa cành rơi mãi xuống dưới kia vực thẳm không đáy?

Nhưng rồi, từ cõi chết, từ biên giới của sống chết, tôi trở lại cái cõi mông lung hỗn độn trước kia, ở đó hằng bao lâu rồi những con suối và sông và biển vẫn bồng bềnh những giòng máu và những giọt nước mắt đã đông lại lấp lánh hai màu, tình yêu và thù hận, quay cuồng như hoa đốm hư không, thành kính vạn hoa. Thế giới vẫn không thay đổi. Mỗi sáng được gọi thức bằng tiếng kẻng, được làm từ vỏ đạn; đâu đây vẫn còn tiếng gọi của tử thần trên chiến địa. Rồi sắp hàng theo những người nay được liệt xuống hàng cặn bả của xã hội, để vác cuốc, vác rựa ra đồng, phơi lưng cho mặt trời vẽ bóng.

Quãng thời gian ấy đủ dài cho một thế hệ mới trưởng thành. Mới ngày nào đó, những khuôn mặt ngây thơ trong bộ đồng phục màu lam, xinh xắn dễ thương, cứ mỗi chiều chủ nhật quây quần “quây một vòng hát mà chơi” trước sân chùa. Mỗi lần lên chùa, các cô cậu bé oanh vũ thường dấu đồng phục trong cặp, như ngày thường mang cặp sách đến trường. Hôm nay các cô cậu mang đến chùa; lôi trong cặp sách học trò ra bộ đồng phục được truyền từ nhiều thế hệ cha anh, thế hệ của những Phật tử anh hùng đã nêu cao khí tiết của những người biết sống và biết chết. Có những cô bé oanh vũ nhí nhảnh kéo tay Thầy, bảo“Thầy ngồi đây sinh hoạt với tụi con; không thì tụi con về”. Hoặc, “Thầy ngồi xuống chỗ này làm cột nhà để tụi con chơi u mọi”.

Những lúc dầm mình trong cơn nắng gắt trên cánh đồng mía mênh mông, và mỗi khi khom mình trên mớ cỏ xanh, tôi cảm giác mơ hồ đâu đó một thế hệ đang trưởng thành, nhưng không hình dung được sẽ trưởng thành như thế nào. Đám cỏ dại tự do phát triển, thỉnh thoảng người ta được lệnh cuốc bỏ chúng đi. Chỉ giữ lại những loại cây có hữu ích cho con người, được vun trồng, chăm sóc bởi bàn tay con người,được uốn nắn theo một chủ đích nào đó. Nhiều thế hệ áo lam; thực tế thì chưa nhiều lắm nhưng tâm nguyện để dệt thành nó thì đã là ngọn đuốc cho nhiều thế hệ Phật tử anh hùng từng góp công làm nên lịch sử dân tộc. Có những tên tuổi sáng chói trong lịch sử, mà cũng có nhiều, rất nhiều, tên tuổi âm thầm tan biến theo cỏ cây, làm chất sống để bồi dưỡng cho sức sống của dân tộc. Dòng sống như dòng sông, mà con sóng sau đẩy con sóng trước, vượt thác ghềnh đổ vào đại dương thế giới. Thế hệ cha anh tự rèn luyện bản thân, bồi dưỡng chí hướng theo hướng đi của Bồ Tát đạo; đồng thời không quên bồi dưỡng thế hệ đàn em mai sau. Những bậc đàn anh đó, theo định nghiệp của mình, và cũng theo tâm nguyện của mình, người này nằm xuống, chuyển thân ngũ uẩn sang một đời sống khác, người khác vẫn tiếp tục đi lên, cho thế hệ đàn em nối gót trong niềm tự tin và kiên cường như kim cang bất hoại.

Trên đường từ đồng ruộng mía trở về trại, tôi được phép ghé qua nhà thăm để gặp gỡ người thân. Anh Tú và một vài anh chị khác đang chờ tôi ở đó. Anh không nhìn thấy tôi được nữa. Trên vai tôi bóng rát bởi ánh lửa mặt trời; trước mắt anh là một thế giới tối tăm. Chúng tôi thăm hỏi, hàn huyên khoảng chừng một tiếng đồng hồ. Thế giới này vốn dĩ được trùm kín trong bóng tối điên đảo mộng tưởng. Những người học Phật quán sát thế gian thuần bằng con mắt thịt, phú trần căn… Nhưng tôi vẫn cảm thấy bâng khuâng trong ý niệm “mất và còn” của những bóng mây hư ảo. Tất nhiên anh vẫn cảm thấy, vẫn nhìn rõ và quan sát rõ, trên nền tảng tư duy từ giáo lý đã học và đã tu tập, thấy rõ những điều, những sự biến của thế gian, những trò thiên diễn và sân khấu kịch đời, bằng trí tuệ của những người học Phật. Ở tận cùng trong thâm tâm, dù trong hoàn cảnh nào, hay trong nghiệp cảm lảnh thọ nào, người Phật tử vẫn xác tín con đường Chánh đạo mà mình đang đi, tin tưởng với niềm tin bất hoại nơi Phật tính bất diệt của mỗi chúng sinh.

Gần mười năm sau nữa tôi mới gặp lại anh tại nhà riêng của anh. Bấy giờ anh không còn thấy, không còn nghe, và cũng không còn biết tôi đang đến thăm anh. Rồi một tháng sau nữa thì anh mất.

Mỗi lần nghĩ đến anh, ấn tượng những lần gặp cuối ấy thường hiện rõ nét trong tôi. Những cánh đồng mía, ánh mặt trời đỏ rực trên lưng, những giọt mồ hôi đọng chốc lát trên ngọn cỏ xanh, và khoảng tối mênh mông của con đường phía trước và phía sau. Ý nghĩa trầm luân trong vũng sinh phiền não của ba nghìn đại thiên thế giới nhiều khi cũng phảng phất như sợi tơ mong manh trên khoảng trống của vách đá tử tù, và trong khoảng tối vô hạn trước phù trần căn hư hoại. Nhưng phía trên cao, con đường trải dài vô tận bởi niềm tin bất hoại, ánh sáng lấp lánh từ những hạt bồ đề, mầm bi-trí-dũng vẫn tiếp tục vươn lên, để mong dâng hiến cho đời những đóa vô ưu. Anh, và nhiều huynh đệ của anh đã đi mất, nhưng mầm non mà các anh đã gieo trồng, chăm bón, vẫn đang vươn lớn.

Anh đứng dậy, nắm tay tôi để từ giã, với đôi mắt nhìn xa xăm trong bóng tối. Từ phía sau anh, những cánh chim non màu lam đang tung cánh bay lên, hướng theo ánh sáng của Sao Mai Chánh giác đang rực sáng ở phía chân trời phương Đông.

Tuệ Sỹ




Quyết Định Chuẩn Y Quyền Vụ Trưởng GĐPT Vụ




Những Điều Phật Đã Dạy




MINH GIẢI NHẬP TỨC XUẤT TỨC NIỆM




Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ




TĨNH VÀ ĐỘNG

TĨNH VÀ ĐNG

Trong đời thường có hai dòng chảy khác nhau. Một bên thì sôi động hùng hục, còn dòng khác thì êm ắng tĩnh lặng

Bên động thì lửa rơm viễn kiến mơ hồ, biến tướng xưng danh đánh lừa, hiềm khích hơn thua, mưu đồ nham hiểm, tập trung quyền lực, tấn công trấn át. Nhưng bên lặng thì yên ắng bàng quang kham nhẫn. Động thì lúc nào cũng chật chội hời hợt, dễ dàng sai lầm, thỏa mãn cuồng vọng, chuyển biến quán tính xôn xao – sinh diệt mê mệt, dẫn đến cát bụi hư hao lỏng lẻo, bất lực thoái trào – tan rã tro bụi, thất vọng đuối hơi nản mõi

Gia Đình Phật Tử Việt Nam thì rỗng lặng an nhiên tự tại, quán chiếu soi rọi cội nguồn thật tướng ảo diệu vô ngã, tĩnh tại đi lên – ngược dòng bằng nguyện lực vô úy. Sức sống hiện hữu vô cùng của GĐPTVN, là nguồn năng lượng vô biên – là tìm lực nâng cánh tuổi trẻ, để rồi cứ mãi mãi nâng cao và bay xa, trên tiến trình hành hoạt chuyển hóa vô minh – hòa nhập điều phục tâm thức viên mãn

Thiện – ác đáo đầu chung hữu báo, luôn luôn đeo đẳng lấy cái nghiệp. Đoạn nghiệp thì quả báo không còn, Mặt trời mà lên, ánh sáng chan hòa, thì bóng tối sẽ được lụn dần nhòe tan – tất biến./-




HƯỚNG DẪN VIẾT LUẬN VĂN




TRUYỆN KIỀU CHÚ GIẢI – VĂN HÒE




BẬC HÒA NĂM 1




BẬC HÒA NĂM 2




BẬC TRỰC NĂM 1




BẬC TRỰC NĂM 2




TÌNH NGHĨA THẦY TRÒ

TÌNH NGHĨA THẦY TRÒ

Tôi rất xúc động khi cầm trên tay bó hoa của anh, người học trò năm xưa, đã nâng hai tay trang trọng tặng cho tội nhân Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11

Vào năm 1979, nhận được quyết định, tôi rời nhiệm vụ quản lý trường cấp 1 – 2 tại quê nhà, về nhận nhiệm vụ mới, quản lý tại phòng giáo dục huyện. Ngoài công tác quản lý giáo dục, tội nhận dạy thêm một lớp bổ túc văn hóa vào ban đêm, cho các cán bộ cấp huyện. Anh lúc bấy giờ là cán bộ cấp cao trong UBND huyện, anh cùng nhiều cán bộ lãnh đạo khác, tham gia khóa học bổ túc hằng đêm do tôi giảng dạy. Anh rất cần cù học tập, kết quả kỳ thi lớp 9, đạt loại giỏi, anh được bước lên lớp trên. Anh lớn hơn tôi 5 tuổi, nhưng vẫn trận trọng gọi tôi bằng thầy. Sau này, khi anh nhận nhiệm vụ ở cấp tỉnh, là đại biểu quốc hội, mỗi lần gặp tội là anh vội vàng xăng xái bước đến, bắt tay chào thầy!

Thời gian trôi qua đi, tóc anh, tóc tôi ai nấy đều bạc phơ. Nhưng tình nghĩa thầy trò trong lòng anh không bao giờ phai nhạt. Từ nhà anh vào đến nhà tôi ở bây giờ, trên 100 km. Nghe tôi vừa hồi hương, anh bảo người con, cũng là cán bộ cấp tỉnh, đánh xe con đưa anh vào thăm tôi. Thật là bất ngờ, chúng tôi ôm nhau tràn nước mắt. Trong từng ngụm trà thơm phức hương sen, những câu chuyện thăm hỏi hàn huyên, cứ mãi tuôn tràn kéo dài đến bất tận

Từng lớp học trò qua đi trong đời làm nghề thầy giáo của tôi thì khá nhiều. Một số học trò trước đây, trong đó có anh, tất cả đều lớn tuổi, thỉnh thoảng vẫn đến thăm tôi, hoặc gửi quà tặng cho tôi nhân ngày nhà giáo VN 20/11. Số còn lại cũng khá đông, nếu có dịp gặp nhau trên phố, thì cũng tay bắt mặt mừng – hớn hở chào thầy. Nhưng ít khi thấy mặt đến tận tư gia thăm tôi, có lẽ cơm áo – gạo tiền, thời đại kinh tế thị trường, đã làm cho phần đông con người mệt nhoài, quên đi phần nào lễ nghĩa, công cha – nghĩa mẹ – ơn thầy !…




BẬC HƯỚNG THIỆN




BẬC SƠ THIỆN




BẬC TRUNG THIỆN




BẬC CHÁNH THIỆN NĂM 1




BẬC CHÁNH THIỆN NĂM 2




YÊU MÃI NGÀN NĂM !

YÊU MÃI NGÀN NĂM !

Gió lùa trăng, trăng treo ngọn gió

Mây tỏ tình, mây quấn quýt quanh trăng

Trăng hỏi rằng: Mây còn yêu nhớ ?

Trăng nói rằng: Trăng yêu mãi ngàn năm !

 

Mối tình ngàn năm óng ánh trăng vàng

Giữa dòng sông trăng trong vắt miên man

Mãi miết mạn thuyền xuôi êm ả

Mãi ngàn năm, mãi cả dòng đời

 

Nhưng đời không như là mơ

Yên ắng như hồ thu trong lắng

Cho vầng trăng ín đáy sông ngân

Cho cành liễu buông thơ soi bóng âm trầm

 

Mơ cũng chỉ là mơ

Trôi mãi, miên man bến bờ vô tận

Vắt kiệt sức em vô vàn tủi phận

Nơi của ngàn năm đến lặng thầm !…




XIN NẮM LẠI BÀN TAY LAM ẤM CÚNG

XIN NẮM LẠI BÀN TAY LAM ẤM CÚNG
Đôi mắt ướt dòng suối Từ tuôn chảy
Áo Lam hiền xanh mát giữa rừng hương
Giờ hội tụ rộn ràng chim Oanh hát
Ánh nến khuya soi rọi định hướng đời

Nghe gió hờn lùa vào đêm thêm rối
Cuồn cuộn xoay bức xé dáng mây buông
Bàn tay nào nỡ dập nát tang thương
Nỗi nhứt nhối mỗi ngày thêm rạn nứt

Dáng Oanh nhỏ chợt khóc thầm rưng rức
Sao đường dài bổng ngã rẽ mênh mang
Tung bụi mờ thêm gió chướng xốn xang
Sao lạnh ngắt chim Oanh buồn co quắp

Đêm khuya khoắc thôi dài thêm thao thức
Xin trăng vàng thôi úp mặt mây tan
Xin lòng người thôi vội vã rách toang
Xin nắm lại bàn tay Oanh ấm cúng

Cho mắt xưa dòng suối từ đằm thắm
Chảy hiền hòa thấm đẫm giữ hương xa
Áo Lam thơm xinh xắn giữa ngàn hoa
Oanh ríu rít hồn nhiên vui bất tận

Đạt Ma, 18072553 – 06092009




THẦM LẶNG MỘT GÓC SÂN

THẦM LẶNG MỘT GÓC SÂN

Tôi chuyển sinh họat về đây đã hơn tám tháng, nhưng tuần nào cũng vậy. Các em oanh vũ nữ đều đồng phục áo Lam cổ cánh sen và chiếc ríp màu xanh có dây đeo chữ H. Riêng em, vẫn cứ chiếc áo sơ mi trắng, ríp xanh dây đeo chữ X, bộ đồng phục nữ sinh, bạc màu củ kỹ. Mỗi lần đến chùa, em thui thủi thầm lặng thu mình ở một góc sân, trông thật tội nghiệp – đáng thương! Tôi lân la đến bên em. Em tâm sự, ba em mất trong năm qua, cơn bão dữ đã đánh ập chiếc ghe, cuốn trôi đi tất cả các bạn chài, trong đó có số phận hẩm hiu của ngưới cha cần cù, thân yêu nhất của em .

“Mất cha là mất cả bầu trời”, gia đình em suy sụp hoàn toàn. Mẹ em thân gầy hạt mai, chèo chống chiếc thuyền con cọc cạch đổ nước thuê, em và hai em nhỏ hơn, phải phụ mẹ cạy sò ở ngoài lò, có đêm đến hai ba giờ sáng mới về đến nhà. Số tiền còm cỏi thu nhập được của cả bốn mẹ con đủ để lây lất qua ngày !…

Cảm cảnh trước nỗi buồn tê tái của em, tôi ngỏ lời với vợ tôi:

– Em giúp anh làm một nghĩa cử cao đẹp, chúng ta tặng cho một em oanh vũ một bộ đồng phục xinh xắn, để giúp cho em thôi mặc cảm – tự ty, nhanh chóng hòa nhập cùng bạn bè. Sau khi đi chợ về, với nụ cười tươi tắn – rạn rỡ trên môi, cô ấy trao cho tôi hai xấp vải một lam – một xanh. Tôi mừng rở cám ơn vô cùng.

Vợ tôi là vậy, mọi yêu cầu của tôi trong các công tác Phật sự, cô ấy đều đáp ứng nhiệt tình. Nhờ có sự hổ trợ đắc lực của cô, mà tôi vững vàng trong sinh hoạt đến ngày hôm nay. Có lần Thầy Tĩnh Thông nói vui:

– Các công đức mà anh làm được, phải chia cho cô Quãng Trầm một nửa!
Quãng Trầm là pháp danh của vợ tôi. Còn các anh

– chị huynh trưởng cao niên thì nói:

– Anh đang làm nhiệm vụ của một bồ tát hạnh. Nhưng vợ của anh mới là một Bồ Tát thị hiện!

Đúng vậy, nếu không có vợ tôi, người phụ nữ đảm đang ấy tán đồng – hổ trợ hết lòng, thay tôi gánh vát công vịệc gia đình mỗi khi tôi bận bịu công tác Phật sự – đi xa, thì tôi khó mà thành toàn được trọng trách mà tổ chức giao phó

Hôm ấy, tôi đến chùa sớm hơn, vừa trông thấy em, tôi gọi lại. Em vội vã chạy đến, ùa vào lòng tôi. Không biết đã được biểu hiện từ lúc nào, tình cảm giữa chúng tôi rất thắm thiết, em xem tôi vừa là một bão huynh, vừa là một người cha tinh thần thân thiết. Mọi vui buồn riêng tư, em đều thố lộ – tâm sự cùng tôi. Mỗi lần như vậy, tôi đều xoa đầu chia sẻ nỗi niềm với em. Tôi mở túi xách, lấy ra hai sấp vải, trân trọng trao vào tay em, em ngước mắt kinh ngạt

– Anh tặng em! cuối giờ sinh hoạt, sau khi dây thân ái xong, chúng ta ra hiệu may đầu đường em nhé

Em rươm rướm nước mắt, lý nhí lời cảm ơn. Tôi ôm em vào lòng. Cả hai chúng tôi đều xúc động

Các em của chúng ta, mỗi em đều có mỗi hoàn cảnh đáng thương. Nếu không gần gũi, không tiếp xúc, thì khó mà biết được từ nỗi thâm sâu, mỗi tâm sự u hoài riêng tư, mỗi hoàn cảnh khúc mắc. Người huynh trưởng (H.Tr) đâu phải chỉ biết có đến giờ họp Đoàn là có mặt, đâu phải chỉ có lý thuyết suông trong các tiết giảng Phật Pháp, và đâu phải chỉ có họat náo trong giờ sinh hoạt vui chơi là đủ, mà chúng ta còn phải có một tấm lòng chân thành, tha thiết thương yêu các em. Trách nhiêm của người H.Tr là giáo dục đạo đức tâm linh, nếu chúng ta thành toàn đươc trọng trách cao quí này mới đúng nghĩa là người “kỹ sư tâm hồn”, mới định hướng cho các em một tương lai trong sáng ./-




TÂM SỰ NGƯỜI LỚN TUỔI

TÂM SỰ NGƯỜI LỚN TUỔI

Tôi năm nay đã 65 tuổi rồi, chỉ còn vài tháng nữa là bước vảo tuổi 66
Ai rồi cũng vậy, tuổi đời càng chồng chất, thì sức vóc càng lúc càng hao gầy – yếu đi, và trí tuệ cũng theo đó mà suy kém giảm dần, không còn nhạy bén như thuở nào nữa, sức phấn đấu cũng tùy theo đó mà suy giảm trầm trọng. Bằng chứng là những hoạt động của tôi mấy lúc gần đây, đâu còn nhanh nhẹn như trước đây được nữa. Lắm lúc vì tuổi cao sức yếu, tôi đã buông xuôi tất cả. Hay vì sĩ diện, mà tôi đã cố gắng để làm, nhiều lúc tôi cứ ngỡ rằng, tôi đã làm việc rất nhiều – rất cật lực. Nhưng thực chất, thì lực bất tòng tâm, công việc cứ ngất ngứ – cứ chựng lại, giải quyết không đâu đến đâu được cả. Đôi lúc gặp phải chướng duyên, tôi đã chùn lòng – run tay – co quắp – tránh né – đùn đẩy, mà không dám đối mặt với thực tại, làm mất lòng tin của thế hệ đàn em. Bế tắc trước sự bất phục của người khác, tôi võ đoán – kẻ cả – nóng nãy lấn lướt, làm ảnh hưởng đến thân giáo. Nhiều lúc tôi thể hiện là tôi còn quá đủ trí tuệ, hoênh hoang với nhiều lý thuyết dạy đời, nhưng mỗi lời nói giong dài được thốt ra đều rổng toếch, làm ngán ngẩm người nghe, không mang lại lợi ích thiết thực

Tôi không thể ỷ mình là tuổi cao – là cấp lớn rồi ganh tỵ với tuổi trẻ, vùi dập tài năng, vô tình làm một viên đá lăn quay giữa đường, cản trở lối đi, làm chậm bước phát triển của tổ chức – làm cản trở bước tiến của tuổi trẻ. Trong khi đó, xã hội thì càng lúc càng tiến triển – vươn tới vô cùng. Để bắt kịp với thời đại, phải cần nhiều ở sức vóc năng động hơn, có đủ tay nghề chuyên năng tinh xảo – nhạy bén hơn, mới đủ năng lực ứng xử kịp thời trong thời đại tên lửa này, chứ lớn tuổi rồi, chậm lụt như tôi, thì chỉ có làm thêm trì trệ

Chẳng lẽ tôi cứ mãi ngờ nghệch – tự ru ngủ – tự thôi miên chính mình, khư khư ôm lấy chiếc ghế chong chênh, phó mặc cho con thuyền vô định, thì tôi có tội với lịch sử biết bao!

Tôi viết lên những dòng này là muốn cảnh tỉnh chính tôi, là phải biết nhìn thẳng vào sự thật, phải biết toàn tâm toàn ý, ròng rả thắp đuốc đi tìm người kế tục, thay mình tiếp tục làm nên sự nghiệp truyền đăng. Không thể còn có cái suy nghĩ thiển cận, chỉ có ta mới là trung tâm vũ trụ, mà phải thấy ra rằng, chung quanh ta còn có biết bao tài năng vượt trội. Và nhắc nhở với tuổi trẻ hôm nay, là phải thấy rõ sứ mệnh trọng đại, các anh các chị không còn thời gian để bàng quan hay ỷ lại, mà phải tự thân rèn luyện – phấn đấu để đủ sức gánh vác trọng trách, đang kỳ vọng đặt trên đôi vai trẻ trung của các anh các chị thế hệ trẻ hôm nay !

Lan Nhã Thảo Am, 20/7/2015.




BẬC SEN NON




BẬC MỞ MẮT




BẬC CÁNH MỀM




BẬC CHÂN CỨNG