HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG TRUYỀN TIN MORSE
CÁCH SỬ DỤNG MORSE
CÁCH NHỚ MÃ MORSE
LỊCH SỬ BỘ MÔN TRUYỀN TIN
</i
MORSE
NHỮNG ĐỘNG TÁC CẢI THIỆN NỘI TẠNG
HẠ HUYẾT ÁP
Suối Nguồn Tươi Trẻ ,
Suối Nguồn Tươi Trẻ ,
Công dụng chữa bệnh vô cùng thần kỳ từ hoa dâm bụt
Công dụng chữa bệnh vô cùng thần kỳ từ hoa dâm bụt
( PHUNUTODAY ) – (Phunutoday) – Cây hoa dâm bụt không xa lạ với người dân Việt, nhưng công năng chữa bệnh thần kỳ từ nó có thể bạn không ngờ tới!
Dâm bụt ( còn gọi là cây Bông bụp – tiếng miền Nam) là loại cây nhỡ, cao từ 1 đến 2m, lá đơn, mọc cách, phiến lá khía răng cưa. Hoa dâm bụt là một loại thảo dược có nhiều công dụng, thường mọc ở vùng nhiệt đới.
Hoa dâm bụt vị ngọt, tính bình có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu.
Hoa dâm bụt to, màu đỏ hồng, cũng có loại màu trắng hồng, màu vàng, hoa thường mọc ở nách lá hay đầu cành. Cây dâm bụt mọc hoang ở nhiều vùng nước ta và được trồng làm cây cảnh. Cây dâm bụt còn cho lá, hoa, rễ làm thuốc.
Theo Đông y, lá dâm bụt vị nhạt, nhớt, tính bình, có tác dụng làm dịu, an thần, tẩy nhẹ, nhuận tràng, chữa viêm niêm mạc dạ dày, ruột, đại tiện ra máu, kiết lỵ, mụn nhọt, ghẻ lở, mộng tinh, đới hạ.
Hoa dâm bụt vị ngọt, tính bình có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tiêu thũng, sát trùng, chữa kinh nguyệt không đều, khó ngủ, hồi hộp, đái đỏ.
Vỏ rễ dâm bụt vị ngọt, tính bình, có tác dụng điều kinh, chống ho tiêu viêm, chữa viêm tuyến mang tai, viêm kết mạc, viêm khí quản, viêm đường tiết niệu, viêm cổ tử cung, bạch đới, kinh nguyệt không đều, mất kinh (Cây cảnh đẹp cho vị thuốc hay chữa bệnh).
Công dụng của loại thảo dược này được phát hiện lần đầu tiên tại Angola, cùng với hương vị dễ chịu, nó đã trở nên rất phổ biến ở các nước Bắc Phi, Trung Đông và thậm chí ở cả châu Âu. Đây cũng là một loại thảo dược rất phổ biến ở nước ta.
Ngăn ngừa bệnh tim
Những hợp chất hoá học được chiết xuất từ cây dâm bụt sẽ giúp kiểm soát lượng cholesterol trong máu, do đó ngăn ngừa được bệnh tim.
Các nhà khoa học Trung Quốc tuyên bố cây dâm bụt có tác dụng tốt cho tim người giống như Rượu vang đỏ và Trà. Nó chứa các chất chống oxy hoá có tác dụng kiểm soát lượng cholesterol và giảm nguy cơ bị bệnh tim.
Dâm bụt trị sỏi thận
Rất ít người biết, hoa dâm bụt có thể chữa sỏi thận rất hiệu quả. Từng có người bị mắc loại sỏi san hô, rất cứng và có chân bám chắc. Sau khi áp dụng bài thuốc chữa sỏi thận từ hoa dâm bụt, sỏi đã tan ra thành những viên sỏi nhỏ và theo đường tiểu thoát ra ngoài.
Trà hoa dâm bụt chữa được nhiều bệnh
Uống trà hoa dâm bụt thường xuyên giúp huyết áp và cholesterol. Kết quả nghiên cứu này được thực hiện vào năm 2009 của trường ĐH Tufts, Massachusetts, Mỹ. Trà hoa dâm bụt cũng giúp ngăn ngừa nhiễm trùng bàng quang và táo bón nếu bạn uống thường xuyên.
• Hoa dâm bụt giàu vitamin C và chất chống ôxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, chống lại các triệu chứng của bệnh cảm lạnh, ho, sốt và bệnh nhiễm trùng.
• Hoa dâm bụt chứa axít hydroxycitric và amylase có tác dụng phân hủy tinh bột. Nếu bạn uống một tách trà hoa dâm bụt sau bữa ăn sẽ làm giảm hấp thu carbohydrate vào cơ thể, từ đó giúp giảm cân.
• Các dưỡng chất trong hoa dâm bụt có khả năng kích thích mọc tóc nhanh và phòng ngừa sự lão hóa sớm cho cơ thể. Hoa dâm bụt cũng có tác dụng làm sạch gàu hiệu quả.
Chân đau nhức, tê mỏi
Với những người hay nhức chân thì lá dâm bụt cũng có tác dụng chữa bệnh: Lá dâm bụt, lá si, lá đào, lá mận, lá thài lài tía, mỗi thứ 30g phơi khô, thái nhỏ, Sao qua, ngâm với ít rượu, dùng xoa bóp hằng ngày.
Chữa mụn nhọt
Hoa dâm bụt, lá trầu không, lá thồm lồm mỗi thứ 50g, giã nát, đắp lên chỗ mụn nhọt. Mỗi ngày thay thuốc 1 lần. Hoặc dùng lá và hoa một nắm, rửa sạch, giã với một ít muối hạt, đắp lên chỗ nhọt đang sưng mưng mủ sẽ đỡ đau nhức, đỡ sưng nóng và chóng vỡ mủ.
Nguồn: https://phunutoday.vn/cong-dung-chua-benh-vo-cung-than-ky-tu-hoa-dam-but-d67549.html
MẸO CHỮA CHO NGƯỜI BỊ TẮT HAY BÍ TIỂU
LOẠI THỰC PHẨM RẺ NHƯ BÈO NHƯNG LẠI LÀ THẦN DƯỢC CHỮA BÁCH BỆNH
NHỮNG CÂY THUỐC & VỊ THUỐC VIỆT NAM
THUỐC BIỆT DƯỢC & CÁCH DÙNG
KHUNG GIỜ VÀNG THẢI ĐỘC CHO CƠ THỂ
KHUNG GIỜ VÀNG THẢI ĐỘC CHO CƠ THỂ
Mỗi cơ quan sẽ có khung giờ thải đ.ộc khác nhau. Vì vậy, các chuyên gia y tế thường khuyên chúng ta nên sinh hoạt phù hợp với đồng hồ sinh học của cơ thể.
1. Khung giờ vàng thải đ.ộ.c của ruột già (5-7 giờ sáng)
Khung giờ từ 5-7 giờ sáng là khung giờ quan trọng để ruột già thải độc. Nếu không được thải đ.ộc, cơ thể sẽ tích tụ độc tố gây mụn nhọt nổi trên da, thậm chí còn gây ra ung thư đại tràng. Vì vậy, bạn nên thức dậy trong khung giờ này để đi đại tiện đều đặn, tránh đ.ộc tố tích tụ nếu để quá lâu.
Nếu bị táo bón, bạn nên ăn nhiều thực phẩm giàu chất xơ như: Bột yến mạch, bánh mì nguyên chất….để tiêu hóa tốt hơn. Ngoài ra, việc xoa bóp kinh tuyến ruột già cũng giúp việc đại tiện, hoạt động của ruột già tốt hơn.
2. Khung giờ vàng thải đ.ộc của dạ dày (7-9 giờ sáng)
Dạ dày là cơ quan tiêu hóa lớn nhất của con người với 3 chức năng chính: Tiêu hóa, vận chuyển, lưu trữ thức ăn.
Mỗi sáng, bạn nên tập tư thế quỳ để thở bụng giúp thúc đẩy lưu thông máu trong dạ dày, tăng trao đổi chất và chức năng tiêu hóa hoạt động tốt hơn.
Ngoài ra, thực đơn bữa sáng cần được thay đổi thường xuyên, nên ưu tiên những thực phẩm như: Đậu phộng, óc chó, cà rốt, táo…
Đây là những thực phẩm có tác dụng nuôi dưỡng dạ dày, giúp tăng cường chức năng tiêu hóa.
3. Khung giờ thải đ.ộc của của tim (11-13 giờ)
Trái tim là bộ phận quan trọng, hoạt động không ngừng để bơm máu, dưỡng chất lên toàn bộ cơ thể. Ngoài ra, trái tim còn là bộ phận điều khiển tất cả cơ quan trong cơ thể. Những thực phẩm như nhãn,… giúp nuôi dưỡng trái tim, lá lách.
Khung giờ từ 11-13 giờ là khung giờ cao điểm, tim đập nhanh nhất nên bạn cần hạn chế tập thể dục vào buổi trưa. Thay vào đó, bạn nên chợp mắt, nghỉ ngơi vào khoảng thời gian này. Điều này sẽ tốt cho việc thải đ.ộc tim.
4. Khung giờ vàng thải đ.ộc của của bàng quang và ruột non (13-17 giờ)
Khoảng thời gian từ 13 đến 17 giờ là thời gian làm việc của: Bàng quang, ruột non
Ruột non giúp phân phối chất dinh dưỡng được tiêu hóa, gửi chất lỏng đến bàng quang, chất dinh dưỡng tới lá lách, chất thải tới ruột già. Vì vậy, ruột non là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thu chất dinh dưỡng của cơ thể.
Tất cả chất đ.ộc trong cơ thể đều phải qua bàng quang rồi thải ra ngoài thông qua đường nước tiểu.
Do đó, bạn nên uống nhiều nước để tăng cường trao đổi chất, giúp bàng quang, ruột non hoạt động tốt hơn.
5. Khung giờ vàng thải đ.ộc của thận (từ 17-19 giờ)
Thận bị tích tụ nhiều đ.ộc tố khiến mặt bị phù, cơ thể bị trì trệ, mệt mỏi. Do đó, bạn cần tập thể dục để kích thích thận, tăng tốc độ thải đ.ộc của thận. Những động tác vặn vẹo cơ thể tác động vùng lưng eo giúp massage, kích thích thận hoạt động tốt hơn.
6. Thời gian thải đ.ộc màng ngoài tim (từ 19-21 giờ)
Màng ngoài tim là túi chứa chất lỏng bao quanh tim và rễ của các mạnh máu lớn. Màng ngoài tim cũng cần thải đ.ộc hiệu quả để tránh gây ngứa ran, tức ngực, ảnh hưởng chất lượng giấc ngủ.
Bạn có thể vỗ vùng vai, khuỷu tay để màng ngoài tim…
Nguồn: DUONG NGUYEN’FB
PHẬT HỌC CĂN BẢN-Minh Đức Triều Tâm Ảnh
NHẠC PHẬT GIÁO
BẢN THỂ LUẬN TRONG TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA – Thích Nhuận Châu dịch
KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ-Thích Nữ Trí Hải dịch
KINH LĂNG GIÀ-Việt Dịch Thích Duy Lực
DUY THỨC HỌC VÀ NHƠN MINH LUẬN – Thích Thiện Hoa
DUY THỨC HỌC-Thiện Hạnh
15 Nhà thơ nổi tiếng nhất trong phong trào Thơ Mới Việt Nam
15 Nhà thơ nổi tiếng nhất trong phong trào Thơ Mới Việt Nam
1. Xuân Diệu
Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất trong phong trào Thơ Mới những năm 1935-1945. Bên cạnh là một thi sĩ, ông còn là nhà báo, nhà phê bình văn học nổi tiếng. Nhắc đến Xuân Diệu là nhắc đến “ông hoàng của thơ tình Việt Nam’. Những tác phẩm thơ của ông được nhiều người mến mộ, cũng như có vị trí nhất định trong văn đàn thơ ca nước nhà. Người ta tìm đến thơ ca, là để tìm thấy sự đồng điệu, sự ngân cảm trong tâm hồn con người. Thơ của Xuân Diệu như những dòng chảy tâm tình, dạt dào, bao la, rạo rực. Cũng như bao nhà thơ khác trong Thơ Mới, thơ của Xuân Diệu có những nỗi buồn chất chứa, sâu lắng trong từng con chữ. Thế nhưng, ông có một điểm khá đặc biệt và nổi trội hơn hẳn, đó chính là sự nhận thức, ý thức về không gian, thời gian, lí tưởng sống: sống nhanh, sống có ý nghĩa. Trong bài thơ “Vội vàng”, ông cũng đã từng thổ lộ:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
Sự ý thức, nhận thức về thời gian, về cuộc đời ấy ở Xuân Diệu, đã khiến cho thơ của ông mang màu sắc riêng, nét đẹp riêng. Dẫu rằng thời gian có trôi đi, năm tháng có dần phai mờ từng nét mực, thì những tiếng lòng tha thiết của Xuân Diệu vẫn mãi còn đó, còn sống mãi trong lòng độc giả bao thế hệ mai sau. Và quả thật không ngoa chút nào, khi Hoài Thanh, Hoài Chân – nhà phê bình văn học, đã nhận xét về ông: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”
“Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn…
Lá hồng rơi lặng ngỏ thuôn
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương”
(Chiều)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Vội vàng; Lời kĩ nữ; Đây mùa thu tới,…
Nhà thơ Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình Việt Nam
- 2. Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ra ở Quảng Bình và lớn lên ở Quy Nhơn. Ông là người khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, đồng thời cũng là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn (thơ điên). Nhắc đến Hàn Mặc Tử, là nói về một người thi sĩ tài hoa bạc mệnh. Ông mất khi chỉ mới 28 tuổi, bởi căn bệnh phong kéo dài. Hàn Mặc Tử nổi tiếng và được nhiều người nhớ đến không chỉ vì những bài thơ “điên”, những dòng thơ siêu thực hay xuất sắc, mà còn bởi cuộc đời đầy bất hạnh của ông. Nỗi đau đớn trong tình yêu; cùng với sự dày vò, dằn xé của căn bệnh quái ác, đã khiến cho người thi sĩ tài hoa ấy đau đớn, tuyệt vọng với cuộc đời. Nỗi đau ấy, nỗi cô đơn ấy đi vào trong thơ ca, như một tiếng thét gào, như một vết thương rỉ máu. Hai hình ảnh thường thấy nhất trong thơ của Hàn Mặc Tử đó chính là máu và trăng. Ông sợ chúng, nhưng cũng hết mực trân quí chúng.
Hàn Mặc Tử có đến sáu nàng thơ, sáu mối tình. Dù là đơn phương, song phương hay chăng nữa, thì tất cả khi được ông viết thành thơ, đều ray rứt và sâu sắc biết bao. Có lẽ, mối tình của Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm là mối tình được nhiều người nhắc đến và biết đến nhiều nhất. Dường như nỗi đau ấy của ông, đã thấu tận tâm can, đã được người đọc đón nhận bằng tất cả sự thương cảm:
“Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi”
Đặc biệt hơn cả, sự đóng góp to lớn của thi sĩ họ Hàn chính là ông đã sáng tạo ra Trường thơ Loạn, cùng với những thi sĩ khác, đã tạo nên những tuyệt phẩm để đời, được lưu lại theo tháng năm trên văn đàn thơ ca Việt Nam. Có khá nhiều nhạc sĩ, thi sĩ viết về ông, về cuộc đời của ông, bằng tất cả lòng thành mến mộ và kính yêu nhất. Quả thực, Hàn Mặc Tử xứng danh là một trong những người thi sĩ tài hoa bậc nhất trong phong trào Thơ Mới nói riêng, cũng như trong thơ ca Việt Nam nói chung
Một số tác phẩm nổi tiếng: Đây thôn Vĩ Dạ, Một nửa trăng, Trút linh hồn,…
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Ca khúc “Hàn Mặc Tử” nổi tiếng, nói về cuộc đời đầy bất hạnh của người thi sĩ họ Hàn:
- 3. Nguyễn Bính
Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) tên thật là Nguyễn Trọng Bính, là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Thơ của ông viết về quê hương, về khung cảnh làng quê, những sinh hoạt, cuộc sống đời thường, mang đậm nét dân dã, bình dị. Thơ của Nguyễn Bính mang chất nhạc sâu lắng, nhưng đồng thời cũng hết sức gần gũi, thân thương. Trải qua bao tháng năm, mỗi khi nhắc đến Nguyễn Bính, người ta lại nhớ đến hình ảnh vị thi sĩ tài hoa, tác giả của những bản thi ca về quê hương độc đáo. Thơ của ông được phổ nhạc rất nhiều và được biết đến rộng rãi, nhận được sự yêu thích, ủng hộ từ độc giả, Chất mộc mạc, bình dị ở ông thể hiện ở chỗ ông đã vận dụng văn học dân gian như ca dao, tục ngữ,…cùng với thể thơ lục bát truyền thống để đưa vào tác phẩm của mình như những lời đối đáp, như những lời tâm sự chân thành, bình dị. Chính vì xuất phát từ chất liệu cuộc sống đời thường như thế, nên thơ của Nguyễn Bính rất gần gũi với mọi người, và khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học nước nhà. Vẫn còn đó theo thời gian những lời thơ quen thuộc:
“Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!”
(Chân quê)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Chân quê, Tương tư, Anh về quê cũ,…
Nhà thơ Nguyễn Bính
Bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính được phổ thành nhạc:
- 4. Huy Cận
Nhà thơ Cù Huy Cận (1919-2005) là một trong những thi sĩ xuất sắc trong phong trào Thơ Mới. Ông đồng thời cũng là bạn tâm giao, tri kỉ với nhà thơ Xuân Diệu. Cũng như bao nhà thơ khác trong giai đoạn này, thơ của Huy Cận mang nỗi buồn, sự cô đơn, ray rứt. Đó là nỗi buồn trước thời cuộc, trước sự chênh vênh khi chọn lựa lí tưởng sống cho con đường phía trước, ngay trong thời điểm những năm 1930-1945, khi xã hội đầy những biến động.
Thơ của Huy Cận mang hơi hướng thoát ly khỏi thực tại, khỏi hiện thực để tìm với thiên nhiên, hòa mình vào chốn bao la ấy. Đọc thơ của ông, ta sẽ cảm nhận được từng nét bút mà Huy Cận chấm phá đều rất đẹp, rất chân thực nhưng cũng rất buồn. Bức tranh thơ của ông rất đa dạng màu sắc. Tuy nhiên dẫu ở khung cảnh nào, thì thơ của Huy Cận vẫn có đâu đó mảng màu sậm, u tối của sự cô đơn, của lí tưởng chưa tìm được bến đỗ. Ông cũng đã từng thể hiện điều đó qua những dòng thơ trong tác phẩm “Tràng giang”:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Độc giả tìm đến thơ Huy Cận và yêu thích thơ ông bởi sự chấm phá tài tình trong từng nét bút mà ông khắc họa vào từng con chữ. Và chắc chắn rằng, Huy Cận quả thực rất xứng đáng và không hổ danh khi được nhìn nhận như một trong những người thi sĩ xuất sắc nhất trong phong trào Thơ Mới của văn học Việt Nam ta.
Một số tác phẩm nổi tiếng: Buồn đêm mưa, Tràng giang. Chiều xưa,…
Nhà thơ Huy Cận (trái) và nhà thơ Xuân Diệu
Bài thơ “Áo trắng” của Huy Cận qua khúc ngâm đầy sâu lắn:
- 5. T.K.H
Đây là bút danh của một nhà thơ ẩn danh trong phong trào Thơ Mới. Và đến tận bây giờ, người ta vẫn chưa thể xác định được T.T.K.H là ai. Thế nhưng, dẫu rằng là ẩn danh, nhưng các tác phẩm của bà đã để lại ấn tượng vô cùng khó phai trong lòng bạn đọc yêu thơ. Nhắc đến T.T.K.H, không thể không nói đến những câu thơ da diết trong bài “Hai sắc hoa Ti-gôn” quen thuộc. Những ai đã từng trải qua dăm lần khổ đau, dang dở trong tình yêu, hãy lắng lòng mình lại để thả hồn theo từng lời tâm sự của T.T.K.H, để cùng đồng cảm, cùng sẻ chia, cùng thấu hiểu:
“Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng”
Những lời tâm sự, những câu hỏi, những lời than oán, nghe như chất chứa nỗi niềm sầu nặng khôn vơi. T.T.K.H chỉ để lại văn đàn thơ ca ba tác phẩm. Thế nhưng, cả ba tác phẩm ấy đều rất nổi tiếng và nhận được nhiều sự mến mộ từ các độc giả yêu thơ. Và cho đến tận bây giờ, sức ảnh hưởng cũng như giá trị của các tác phẩm thơ ca do T.T.K.H sáng tác, vẫn mãi còn lắng đọng khôn nguôi…
Một số tác phẩm nổi tiếng: Bài thơ đầu tiên, Hai sắc hoa Ti-gôn, Bài thơ cuối cùng:
Hoa Ti-gôn, loài hoa đã được nhắc đến trong thơ T.T.K.H
Ca khúc “Hai sắc hoa Ti-gôn được phổ tử tác phẩm thơ cùng tên của T.T.K.H
- 6. Thế Lữ
Nhà thơ Thế Lữ (1907-1989), tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, là một thi sĩ, nhà văn, đồng thời là nhà hoạt động sân khấu. Ông được biết đến nhiều nhất qua tác phẩm “Nhớ rừng” được sáng tác vào năm 1936. Được xem như một trong những thi sĩ tài hoa của nền thơ ca nước nhà, chúng ta phải công nhận rằng thơ của Thế Lữ đã thổi được vào hồn người đọc, người nghe những cung bậc cảm xúc khó phai. Nỗi buồn thầm kín trong thơ ông ẩn sâu dưới những hình ảnh của các sự vật, hiện tượng khác. Tuy không bộc lộ một cách mạnh mẽ và trực tiếp, nhưng tình cảm đó, nỗi niềm đó vẫn lắng đọng và chất chứa biết bao:
“Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
(Nhớ rừng)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Nhớ rừng, Tiếng chuông chùa, Tiếng sáo Thiên Thai:
Nhà thơ Thế Lữ
Nhớ rừng – Thế Lữ
- 7. Chế Lan Viên
Nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, nguyên quán ở Quảng Trị, Ông là một trong những nhà thơ rất nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới nói riêng cũng như thơ ca Việt Nam nói chung. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên mang hơi hướng thoát ly hiện thực, đồng thời cũng chất chứa những nỗi buồn, cô đơn giống như những nhà thơ khác. Ông là một trong những thành viên của Trường thơ Loạn do Hàn Mặc Tử sáng lập. Cái chết, sự tang tóc, nỗi cô đơn, dằn xé thể hiện rất rõ qua từng dòng chữ của ông, mang lại cảm giác ớn lạnh, rùng mình nhưng không kém phần đặc sắc đến cho bạn đọc. Và một điều đặc biệt hơn hẳn, thơ của Chế Lan Viên rất giàu tính triết lí. Chính vì vậy, thơ của ông được đánh giá rất cao và được xem như một trong những nhà thơ có sức ảnh hưởng, đóng góp to lớn cho nền thơ ca nước nhà.
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau !”
Một số tác phẩm nổi tiếng: Cõi ta, Điêu tàn, Xuân,…
Nhà thơ Chế Lan Viên
Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên
- 8. Lưu Trọng Lư
Lưu Trọng Lư (1911-1991) được biết đến như một nhà thơ, nhà văn, đồng thời cũng là nhà soạn kịch Việt Nam. Ông xuất thân từ một gia đình Nho giáo ở tỉnh Quảng Bình. Chính vì thế nên Lưu Trọng Lư có vốn kiến thức cũng như hiểu biết sâu rộng. Thơ của Lưu Trọng Lư trong giai đoạn Thơ Mới 1930-1945 được đánh giá cao, như một “công trình nghệ thuật” đặc sắc. Những sáng tác của ông ít nhiều đã góp phần tạo nên vị thế, cũng như sự thành công rực rỡ cho phong trào Thơ Mới. Các tác phẩm của ông, từng câu từ, con chữ đều được trau chuốt cẩn thận, đi cùng với những hình ảnh thơ đặc sắc, tạo nên trường liên tưởng rộng lớn, cũng như sức gợi cho từng câu ca.
Chính vì thế, thật không ngoa khi nói nhà thơ Lưu Trọng Lư là một trong những thi sĩ đa tài, tâm huyết nhất trong phong trào Thơ Mới 1930-1945.
“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
(Tiếng thu)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Tiếng thu, Mắt buồn, Bao la sầu,…
Tác giả Lưu Trọng Lư
Bài thơ “Tiếng thu”
- 9. Tế Hanh
Nhà thơ Tế Hanh (1921-2009) được biết đến như một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam ngay cả trong giai đoạn phong trào Thơ Mới cũng như giai đoạn thơ tiền chiến sau này. Ở ông, chất thơ có sự rung cảm đặc biệt sâu sắc. Điều đó được thể hiện ở giọng điệu, lối viết cũng như hình tượng, hình ảnh thơ mà ông xây dựng trong các tác phẩm của mình. Chính vì vậy, các tác phẩm thơ của Tế Hanh được giới chuyên môn đánh giá rất cao, đồng thời cũng nhận được sự ủng hộ từ các độc giả mọi miền trên đất nước. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh, Hoài Chân đã nhận xét về ông như thế này: “Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi”. Qua đó ta có thể thấy được vai trò cũng như sự đóng góp không nhỏ của Tế Hanh vào nền thơ ca nước nhà.
“Cơn bão nghiêng đêm
Cây gãy cành bay lá
Ta nắm tay em
Cùng nhau qua đường cho khỏi ngã
Cơn bão tạnh lâu rồi
Hàng cây xanh thắm lại
Nhưng em đã xa xôi
Và cơn bão lòng ta thổi mãi”
(Bão)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Nhớ con sông quê hương, Quê hương, Bài thơ tình ở Hàng Châu,..
Nhà thơ Tế Hanh
Nhớ con sông quê hương – Tế Hanh
- 10. Đoàn Phú Tứ
Đoàn Phú Tứ (1910-1989) là một nhà thơ, nhà soạn kịch, dịch giả nổi tiếng ở Việt Nam. Ông là một người nghệ sĩ đa tài. Bên cạnh việc sáng tác thơ, Đoàn Phú Tứ được biết đến như một trong những người tiên phong trong phong trào sáng tác cũng như trình diễn kịch nói. Song song đó, về các tác phẩm thơ của ông đều rất đa dạng vào sắc, hội tụ đầy đủ những mĩ từ đẹp đẽ, sâu sắc, tạo được sức gợi, sự sinh động cho các tác phẩm. Có thể nói, tài năng của Đoàn Phú Tứ được nhiều người công nhận và ngưỡng mộ. Trong số đó có những độc giả yêu thơ, cũng như các nhà phê bình văn học. Hiện nay ở Đà Nẵng còn có con đường được đặt theo tên ông.
“Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh”
(Màu thời gian)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Màu thời gian, Ánh trăng, Tủi,…
Tác giả Đoàn Phú Tứ
Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ
- 11. Anh Thơ
Anh Thơ (1921-2005) tên thật là Vương Kiều Ân, được biết đến như một trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới 1930-1945. Bà được biết đến nhiều nhất qua tác phẩm “Chiều xuân”. Thơ của Anh Thơ khắc họa những khung cảnh tươi đẹp, trong lành ở làng quê Việt Nam, cùng với sự sinh hoạt, lao động của con người. Trong bức tranh hài hòa, sinh động ấy, từng nét bút mà bà khắc họa lên đều mang vẻ đẹp sâu sắc, man mác buồn nhưng cũng hết sức đặc biệt. Và hơn gì hết, tất cả đều chứa chan những tình cảm chân thành, sâu sắc:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
(Chiều xuân)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Bến đò đêm trăng, Chiều xuân, Buổi trưa,…
Nữ sĩ Anh Thơ
Chiều Xuân – Anh Thơ
- 12. Vũ Hoàng Chương
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1916-1976) là một trong những nhà thơ tài năng của nền thi ca Việt Nam. Ông sinh ra ở Nam Định (nay là Hưng Yên). Thuở nhỏ, ông đã được học chữ Hán, chính vì thế nên văn thơ của ông cũng có sự ảnh hưởng, tiếp xúc từ thơ văn chữ Hán, tạo nên chiều sâu cũng như sức gợi cho các câu thơ. Theo như các nhà chuyên môn, phê bình văn học đánh giá, văn phong của nhà thơ Vũ Hoàng Chương có hơi hướng hoài cổ, câu từ sang trọng, chau chuốt, Chính vì thế nên đã tạo ở nơi ông nét riêng độc đáo, cũng như làm nên giá trị cho các tác phẩm thơ, Điều đặc biệt hơn cả, Vũ Hoàng Chương từng được vinh danh là “Thi bá” của Việt Nam.
“Yêu nhau từ thuở tóc còn buông
Một gái thơ ngây một gã cuồng
Khuya sớm vai kề vui đọc sách
Chung đèn chung cả ánh trăng xuông
Bẩy tám năm mùa hoa dệt trước lầu
Năm năm thương mến rẽ càng sâu
Chia tay căn vặn lời sơn hải
Tạm biệt… ai ngờ vĩnh quyết đâu”
(Ấm lạnh)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Bài ca ngư phủ, Chén rượu đôi đường, Dịu nhẹ,…
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương
Nguyện cầu – Vũ Hoàng Chương
- 13. Tú Mỡ
Nhà thơ Tú Mỡ (1900-1976), tên thật là Hồ Trọng Hiếu, là một trong những nhà thơ trào phúng nổi tiếng của văn đàn Việt Nam. Các tác phẩm thơ của ông được giới chuyên môn đánh giá cao và đưa ra những nhận định, nhận xét về tài năng của ông: “..với gần nửa thế kỉ cầm bút bền bỉ, ông đã có những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của thơ ca, đặc biệt về mặt thơ trào phúng, thời nào ông cũng là bậc thầy”. Qua đó ta đã thấy được phần nào tài năng, sự tâm huyết đối với sự nghiệp thơ văn của ông. Và đặc biệt hơn cả, năm 1957, ông được bầu là Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Phong cách thơ của nhà thơ Tú Mỡ đa phần viết về hiện thực cuộc sống, xã hội; phê phán, lên án cái xấu, cái tồi tàn, dơ bẩn qua cặp mắt tinh tế, sâu sắc và giọng điệu giễu cợt, chê bai, hóm hỉnh. Chính vì thế nên thơ của ông rất được ưa chuộng và khá gần gũi với bạn đọc.
“Làm nghề thầy ký với thầy thông
Sống ở trên đời có bốn mong:
Mong tháng chóng qua, tiền chóng lĩnh
Mong giờ mau hết, việc mau xong
Mề đay mong được dăm mười chiếc
Lương bổng mong tăng sáu bẩy đồng
Hãy tạm thời nay mong thế thế
Còn bao mong nữa xếp bên lòng”
(Bốn cái mong của thầy Phán)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Mười thương, Tương tư, Dân ngu phú,…
Nhà thơ Tú Mỡ
Thương ông – Tú Mỡ
- 14. Tản Đà
Nhắc đến những người đã tiên phong, khởi đầu cho phong trào Thơ Mới nhen nhóm, phát triển rực rỡ, không thể không kể đến người thi sĩ “của hai thế kỉ”: Tản Đà. Sở dĩ gọi ông như thế vì ông là người đứng giữa ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới. Thơ cũ rất quan trọng trong các vần, niêm luật và tư tưởng. Người sáng tác thơ cũng phải tuân theo những qui định đó. Và chính Tản Đà là người đầu tiên phá vỡ những quy luật gò bó ấy, Điều đó được thể hiện trong câu chữ, trong tư tưởng thơ của ông: muốn thoát ly khỏi hiện thực, thể hiện cái “ngông” của mình.
Tìm hiểu về nhà thơ Tản Đà, ông tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1889 và mất năm 1939. Một điều thú vị trong bút danh của ông là được ghép từ hai địa danh ở quê hương ông: núi Tản Viên và sông Đà, Nguyên quán của ông ở Hà Đông (nay là Hà Nội).
Có thể nói, Tản Đà là một trong những nhà thơ bậc thầy của thi ca Việt Nam. Ông là một trong những người đã khai sáng nên Thơ Mới và đã để lại ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc bởi những bài thơ sâu sắc, cá tính và giá trị.
“Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười”
(Muốn làm thằng Cuội)
Một số tác phẩm nổi tiếng: Tống biệt, Muốn làm thằng Cuội, Gió thu,…
Nước non nặng một lời thề – Tản Đà
- 15. Thâm Tâm
Nhà thơ Thâm Tâm (1917-1950) là một thi sĩ, đồng thời cũng là nhà viết kịch Việt Nam. Ông sinh ra ở Hải Dương, xuất thân từ gia đình nhà giáo nề nếp, vì thế nên từ lâu, đối với Thâm Tâm, ông đã định hướng được cho riêng mình những lí tưởng và suy nghĩ tiến bộ, sâu sắc. Thâm Tâm được bạn đọc biết đến nhiều nhất qua tác phẩm “Tống biệt hành”. Đây là một tác phẩm rất độc đáo khi có sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, khiến cho thi pháp của bài thơ rất mới mẻ, tạo được sức hút. Bên cạnh đó, hào khí của “Tống biệt hành” rất cao, nhưng không kém phần dạt dào tình cảm:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?”
Bằng sự tài năng cũng như niềm đam mê văn chương của mình, nhà thơ Thâm Tâm đã ghi lại dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc bởi sự nhiệt huyết, tài năng của ông; cũng như tìm được cho mình vị trí vững chắc trong văn đàn thi ca Việt Nam.
Một số tác phẩm nổi tiếng: Tống biệt hành, Chiều mưa đường số 5, Chào Hương Sơn,…
Thâm Tâm
Tống biệt hành – Thâm Tâm
“Thơ là bầu rượu của thế gian”. Quả là đúng như vậy. Tìm đến thơ ca là tìm đến những tâm hồn đồng điệu, để cùng ngân những tiếng lòng, những cung bậc cảm xúc tha thiết, nỗi niềm riêng. Và hơn gì hết, những người thi sĩ tài hoa này đã góp phần tạo cho chúng ta nói riêng cũng như đóng góp cho nền văn học Việt Nam nói chung những tác phẩm xuất sắc, tuyệt vời, còn mãi với thời gian. Toplist hi vọng thông qua bài viết này, các bạn sẽ hiểu hơn về nền thi ca Việt Nam, về phong trào Thơ Mới cũng như tìm hiểu thêm về các tác giả trong thời kì này. Để qua đó, chúng ta càng thêm yêu quí, thêm trân trọng nền thơ ca nước nhà./-
Nguồn: https://toplist.vn/top-list/nha-tho-noi-tieng-nhat-trong-phong-trao-tho-moi-viet-nam-7273.htm
VĂN THI SĨ TIỀN CHIẾN-Nguyễn Vỹ
THI NHÂN VIỆT NAM-Hoài Thanh – Hoài Chân
THẮT RUỘT NHẢ TƠ
THẮT RUỘT NHẢ TƠ
Tôi rất yêu thích viết văn – làm thơ – viết hồi ký. Tiếc rằng những bài văn – bài thơ trước đây đã bị lưu lạc theo chiến tranh. Sau 1975, trở về lại quê nhà, nghiệp tầm nhã tơ – tôi lại tiếp tục viết. Vì tính chất công việc và sinh kế phải di dời đi nhiều nơi, tôi rất trân quý cất giữ cẩn thận, nhưng không hiểu vì lý do nào đó mà nó lại thất lạc thêm một lần nữa, làm cho tôi tiếc nuối đến vô cùng. Những tác phẩm văn – thơ – hồi ký viết trong thời gian qua, đến giờ phút này lên đến vài trăm bản. Có lẽ đây là nghiệp dĩ – nợ văn chương, nếu sức khỏe còn dài – hơi thở chưa mỏn tôi vẫn tiếp tục chấp bút…
Tâm niệm của chúng tôi là sống thật thà, không quanh co – dấu diếm – tránh né. Không ưa bất công – yêu chuộng tự do – có đời sống tĩnh tại. Những bài viết hầu hết đều mang tính tả chân – lột trần như thật, hướng đến làm mới cách nhìn – cách làm việc. Có lẽ ít nhiều cũng làm chạm lòng những ai đó có tâm sự, nếu có chạnh lòng – ganh tị -hơn thua hèn mọn, thì mong rằng xem đây là phản quang tự kỷ, giúp chúng ta mạnh dạn nhìn lại – cùng nhau chuyển hóa – hướng đến hoàn thiện. Và có những bài viết mang tính lịch sử, mạnh dạn ghi lại những biến cố như thật – theo đúng lương tri của người cầm viết – của nhà viết sử, góp phần giúp cho thế hệ mại sau nhận chân được những bước đi đúng – sai của cha ông. Nếu có làm cho ai đó thiên tả phật lòng – chê trách – không vừa ý, thôi thì xin hãy chờ đó, cái gì rồi cũng có giá trị nhân – quả, thời gian rồi lịch sử sẽ trả lời !
Tại những kỳ đại hội GĐPTVN trên thế giới, quý anh chị áo lam từ các châu lục – quốc gia hội tụ về đông đảo, chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Đêm về cùng ngồi quay quần bên nhau – sách tấn nhau. Anh Tâm Đăng – Nguyễn Pháp (Trưởng BHD GĐPTVN tại hải ngoại lúc bấy giờ) và quý anh chị tình cảm tâm sự: Huy Tâm là nhà văn mà cũng là nhà thơ. Chúng tôi rất thích những bài viết của HT, rất hay – có ý nghĩa – có giá trị. Mỗi lần đọc thấy những bài văn hay bài thơ nào của HT là chúng tôi đều lưu giữ lại.
Và chúng tôi cũng được Chư Tôn Đức Tăng – Ni, nguyên là Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT cho biết, quý Ngài cũng đã đọc và lưu lại làm tư liệu những tác phẩm của Huy Tâm.
Nghe biết được những lời tâm sự chân tình này, làm cho chúng tôi bồi hồi xúc động, đây là niềm khích lệ lớn lao, giúp cho ngòi bút chúng tôi thêm mạnh dạn – cố gắng tiếp tục chảy mực, hy vọng có thêm nhiều nét văn hoa, dệt nên nhiều tấm lụa vàng óng ả để lại cho đời – để không phụ lòng Chư Tôn Đức Tăng – Ni và quý anh chị thương kính – bạn bè bốn phương mến yêu. Xin chân thành cám ơn sự ưu ái quan tâm của chư vị rất nhiều !
TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Lê Mạnh Thát
TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
LÊ MẠNH THÁT
TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Tập 1
LÊ MẠNH THÁT
LỜI ĐẦU SÁCH
Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với dân tộc Việt Nam hơn 20 thế kỷ. Trải qua những thăngtrầm cùng lịch sử đất nước, các Phật tử và thiền sư không ngừng đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam một số lượng tư liệu quy mô đồ sộ, trong đó chứa đựng những tinh hoa trí tuệ của cả một dân tộc.
Hiện nay chúng ta chỉ mới phát hiện một phần rất nhỏ số lượng tư liệu vừa mới bước đầu nghiên cứu và tìm hiểu một số tác giả và tác phẩm hiện đã biết tên, nhưng chưa được thực hiện một cách có hệ thống và nghiêm túc. Mà đối với kho tàng tri thức quý báu đó, chúng ta có trách nhiệm phải bảo tồn, khai thác và tận dụng một cách triệt để nhằm hổ trợ cho các thế hệ hiện tại và tương lai hiểu rõ thêm về nguốn gốc và truyền thống của văn hóa dân tộc, nhằm đóng góp và xây dựng cho xã hội hiện đại cho chúng ta ngày càng phát triển và văn minh hơn.
Vì vậy, để thể hiện nỗ lực và bảo tốn khai thác vừa nói, chúng tôi mạnh dạn cho công bố bộ Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam này. Trước đây, cũng từng có một số công trình tập hợp các tư liệu Phật giáo. Chẳng hạn giữa thế kỷ thứ XIX, cụ thể là năm 1856, Thiền sư An Thiền đã cho ra đời bộ Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục ( 5 quyển ) bao gồm Thiền uyển tập anh làm quyển thượng,Kế đăng lục của Như Sơn làm quyển nhất, quyển tà và quyển hữu, còn quyển hạ do chính An Thiền viết. Đến gần giữa thế kỷ XX, thì Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ do các hòa thượng Quang Minh, Thanh Thạnh, Doãn Hài, Thanh Tích, cùng hợp tác với trường Viễn Đông Bát Cổ để cho ra đời bộ Việt Nam Phật Điển tùng san gồm cả thảy 8 quyển, in dập theo các bản in cũ của các tác phẩm Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên bộ Phật điển tùng san này mắc hai khuyết điểm lớn. Thứ nhất, về những văn bản in dập lại, người đứng in đã không tiến hành những nghiên cứu văn bản học đối với tác phẩm đã in, làm hạn chế độ tin cậy của văn bản được công bố. Khuyết điểm thứ hai là chỉ in dập lại các văn bản cũ bằng chữ Hán hoặc chữ quốc âm, mà vào thời điểm ra đời của bộ Phật điển tùng san, hai loại chữ này đã không còn phổ biến rộng rãi nữa. Cho nên, nó đã không còn gây được tác động lớn trong giới học thuật. Thêm vào đó, vì những biến động vào năm 1945, bộ Việt Nam Phật Điển tùng san chỉ in tới quyển thứ 8 thì chấm dứt và sau đó không thấy xuất hiện thêm quyển nào nữa. Ngoài ra do thuộc loại in dập, sự sắp đặt các tác phẩm in trong bộ này không dựa trên tiêu chuẩn học thuật và thứ tự tổ chức nào cả. Những điểm này càng làm hạn chế ảnh hưởng học thuật của bộ sách này .
Bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam của chúng tôi ra đời, do thế, sẽ được thực hiện theo một số phương châm sau. Thứ nhất, về mặt tổ chức, chúng tôi sắp xếp các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác giả, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nước ta cho đến thế kỷ XX….
Thứ hai,về mặt học thuật, bộ Tổng tập này chỉ bao gồm các tác phẩm viết bằng văn tự khối vuông, tức bao gồm các tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ quốc âm.Đối với những tác gia sống trong buổi giao thời của việc chuyển từ văn tự khối vuông qua mẫu tự Latin, nếu tác phẩm chính của họ viết chủ yếu bằng văn tự khối vuông thì cũng sẽ được đưa vào trong bộ Tổng tập này.
Thứ ba,những tác phẩm in trong Tổng tập đều do các tác gia Việt Nam thực hiện, trừ ba dịch tác gia là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Viên Văn Chuyết Chuyết và Đại SánThạch Liêm. Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người Ấn Độ, còn hai vị kia là người Trung Quốc. Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã cùng với người học trò mình là Pháp Hiền thành lập nên dòng thiền Pháp Vân. Cho nên, vị thiền sư này qua những dịch phẩm của mình như Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh và Đại thừa phương quảng tổng trì kinh chắc chắn là có những ảnh hưởng lớn đến việc hình thành hệ tư tưởng thiền Pháp Vân. Vì vậy, cả hai dịch phẩm này sẽ được chúng tôi đưa vào phần phụ lục của Tổng tập. Viên Văn Chuyết Chuyết đã sống một thời gian dài và mất tại nước ta, có viết một tác phẩm ngắn là Bồ đề yếu nghĩa,chúng tôi cũng cho in vào đây để tiện việc nghiên cứu tác động tư tưởng của Viên Văn đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam và Phật giáo Việt Nam. Còn Đại Sán Thạch Liêm có nhiều tác phẩm hơn và được lưu hành rộng rãi trong giới học thuật Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là bộ Hải ngoại kỷ sự. Cho nên, để cung cấp tư liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng cho công bố các tác phẩm của Đại Sán trong bộ Tổng tập này.
Thứ tư,về tác gia Đại Thừa Đăng, nếu giả thiết của chúng tôi về Đại Thừa Đăng là Đại Thừa Quang được chấp nhận, thì ta sẽ có một loạt các tác phẩm của thế kỷ thứ VII hiện biết dưới tên Đại Thừa Quang. Đó là Câu xá luận ký, Đại thừa bách pháp minh môn luận thuật ký và Duy thức chỉ nguyên. Các tác phẩm này có thể là do Đại Thừa Đăng viết, nhưng đã lưu hành dưới tên Đại Thừa Quang. Các tác phẩm này chúng tôi cũng sẽ đưa vào phần phụ lục của Tổng tập để làm tư liệu nghiên cứu, trong khi chờ đợi sự thẩm định của giới họcgiả trong và ngoài nước.
Thứ năm,đối với từng tác giả, chúng tôi cho nghiên cứu niên đại, cuộc đời và sự nghiệp của họ; còn đối với các tác phẩm, chúng tôi cho nghiên cứu tình trạng văn bản, nội dung và niên đại ra đời của chúng. Đồng thời cho phiên âm nếu viết bằng chữ quốc âm, dịch nghĩa nếu viết bằng chữ Hán, ra tiếng Việt quốc ngữ.
Thứ sáu,về mặt in ấn, ngoài việc cho in bản nghiên cứu, phiên âm hoặc dịch nghĩa từng tác phẩm như vừa nói, chúng tôi đồng thời cho in lại nguyên bản quố câm hoặc chữ Hán của chúng, nhằm bảo tồn các bản in quý, và để làm tư liệu kiểm soát cho những ai muốn tìm hiểu xa hơn. Những nguyên bản Hán và quốcâm bị thất lạc vào năm 1984, mà chúng tôi đã làm nghiên cứu và phiên âm hay dịch nghĩa, chúng tôi cũng mạnh dạn cho công bố trong bộ Tổng tập,trong khi chờ đợi tìm lại chúng và sẽ bổ sung trong tương lai, khi có dịp tái bản.
Dự kiến bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam sẽ giới thiệu trên dưới 40 tác gia của Phật giáo Việt Nam, bắt đầu với Mâu Tử (160-220?) cho đến tác gia cuối cùng có tác phẩm viết bằng chữ Hán là thiền sư Chân Đạo Chính Thống (1900-1968). Trong số những tác gia này, họ chủ yếu là các thiền sư. Chỉ trừ ba tác gia đời Trần là Trần Thái Tông, Tuệ Trung Trần Quốc Tung và Trần Nhân Tông, một tác gia đời Lê là Lê Thánh Tông, một tác gia đời Tây Sơn là Ngô Thời Nhiệm và một tác gia thời Nguyễn là Nguyễn Du. Các tác gia này ngoài Phật giáo ra còn viết về nhiều đề tài khác nhau, song tự bản thân họ đã xác nhận mình là thiền sư như Trần Nhân Tông hay Ngô Thời Nhiệm, hoặc tự nhận mình có gắn bó chặt chẽ với Phật giáo qua thơ văn như Lê Thánh Tông và Nguyễn Du. Chúng tôi do thế đã đưa các tác gia này vào trong bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, một số tác gia khác có viết về đề tài liên quan đến Phật giáo Việt nam, và họ có thể là những Phật tử. Nhưng chúng tôi cũng chưa đưa vào trong bộ Tổng tập này, vì những tác phẩm ấy chưa chiếm ưu thế trong số lượng tác phẩm của họ. Chẳng hạn, Đặng Xuân Bản có viết Không Lộ đại thánh sự tích, song vẫn chưa đượcđưa vào trong Tổng tập này do việc nó không chiếm ưu thế trong toàn bộ tác phẩm của ông.
Dưới đây là bản dự kiến danh sách các tác gia và tác phẩm sẽ công bố trong bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam này. Đây mới chỉ là một số tác gia và tác phẩm tiêu biểu mà chúng tôi đã sưu tầm được trong những năm qua. Với Tổng tập này, chúng tôi cũng chưa đưa vào các bài văn bia và minh trên đá và chuông đồng, trừ những bài của các tác giả có tác phẩm được in. Những văn bia chưa được in trong bộ Tổng tập này sẽ được tập hợp và in thành một tập riêng. Những tác giả có viết các bài tựa và bạt khi in lại các kinh sách Phật giáo, nhưng không có những tác phẩm khác, thì cũng sẽ được tập hợp và in thành một tập riêng trong tương lai, trừ những bài tựa và bạt của các tác giả có tác phẩm in trong Tổng tập này. Số tựa bạt này tuy chưa phát hiện hết, vẫn được công bố. Nếu trong tương lai có tìm thêm được những tác gia và tác phẩm mới, chúng tôi sẽ công bố trong phần Bổ di của bộ Tổng tập.
1- Mâu Tử (160-220)
– Lý hoặc luận
2-Khương Tăng Hội (370-450?)
– Lục độ tập kinh
– Cựu tạp thí dụ kinh
– An ban thủ ý kinh chú giải
– Pháp kính kinh tự
3- Lý Miểu, Đạo Cao và Pháp Minh
– Sáu lá thư
4- Kim Sơn (1300?-1370)
– Thiền uyển tập anh
– Thánh đăng ngữ lục
– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
5- TrầnThái Tông (1208-1277)
– Khóa hư lục
– Một số thơ văn khác
6- Tuệ Trung Trần Quốc Tung (1230-1291)
– Thượng sĩ ngữ lục
7- Trần Nhân Tông (1258-1308)
– Cư trần lạc đạo phú
– Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
– Một số thơ văn khác
8- Pháp Loa (1284-1330) và Huyền Quang (1254-1334)
– Thiền đạo hiếu học
9- ViênThái (1400-1460)
– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
– Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh
– Phật thuyết báo phụ mẫu ân trọng kinh
10- LêThánh Tông (1442-1497)
– Thập giới cô hồn văn
– 29 lá sớ và các thơ văn khác
11- Lê Ích Mộc (1460-?)
– Bài thi trạng nguyên năm 1502
12- PhápTính (1470-1550)
– Ngọc âm chỉ nam giải nghĩa
– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh
13- ThọTiên Diễn Khánh (1550-1610)
– NamHải Quan Âm Phật sự tích ca
14- ChânAn Tuệ Tĩnh (?-1711)
– Nam dược thần hiệu
– Hồng nghĩa giác tý y thư
– Khóa hư lục giải nghĩa
15- Minh Châu Hương Hải (1628-1715)
– Giải Kim cang kinh
– Giải Di Đà kinh
– Giải tâm kinh ngũ chỉ
– Sự lý dung thông
– Hương Hải thiền sư ngữ lục
16- Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726)
– Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới
– Nghênh sư duyệt định khoa
– Long thư tịnh độ văn tự
– Long thư tịnh độ luận bạt hậu tự
– Thánh đăng ngữ lục hậu bạt
– Kiến tính thành Phật lục
– Tịnh độ yếu nghĩa
– Ngộ đạo nhân duyên
– Thiền tịch phú
– Thiền tông bản hạnh
– Nam Hải Quan Âm bản hạnh
– Thiên Nam ngữ lục
– Đạt Na thái tử hạnh
– Hồng mông hạnh
17- NhưTrừng Lân Giác (1690-1728)
– Sa di thập giới quốc âm
– Ngũ giới quốc âm
– Phật tâm luận
– Kiến đàn giải uế nghi
– Mãn tán tạ quá nghi
18- NhưThị (1680-1740)
– Oai nghi quốc ngữ
19- NhưSơn (1670-1730?)
– Ngự chế thiền uyển kế đăng lục
20- MinhGiác Kỳ Phương (1682-1744)
– Quy ước thiền đường
– Đạo Nguyên thiền sư bi minh
– Kiết hạ an cư thị chúng
21-Quảng Trí (1700-1760?)
– Mục ngưu đồ giải nghĩa
22- Tính Quảng Điều Điều (1720-1780)
– Tam tổ thực lục
– Phật quốc ký
– Sa dini học pháp oai nghi quốc âm
– Hiến cổ châu Phật tổ nghi
– Văn bia và một số các bài tựa
23- PhápChuyên (1726-1798)
– Diệu Nghiêm lão tổ thi tập
– Tam bảo biện hoặc luận
– Chiết nghi luận tái trị
– Thiện ác quy cảnh lục
– Tam bảo cố sự
– Báo ânkinh chú giải
– ĐịaTạng kinh yếu giải
– Quy nguyên trực chỉ âm nghĩa
– Tỳ ni Sa di Oai nghi Cảnh sách âm chú yếu lược.
– Tỳ ni nhật dụng thiết yếu phát ẩn âm chú
– Sadi luật nghi yếu lược Tăng chú quyển thượng phát ẩn
– Quy Sơn cảnh sách chú thích y lược âm phát ẩn thiên
– Nhãn sở đáo âm thích tùy lục tạp thiên
– A Di Đà sớ sao sự nghĩa
– Tam giáo pháp số
– Tam giáo danh nghĩa
– Chư kinh sám nghi
– Hoằng giới đại học chi thư
– Chính truyền nhất chi
24- Hải Lượng Ngô Thời Nhiệm (1746-1803)
– Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh
– Hàn các anh hoa
– Kim mã hành dư . . .
25- Toàn Nhật (1757-1834)
– Hứa Sử truyện vãn
– Tam giáo nguyên lưu ký (Thích Ca Phật vãn)
– Tống vương truyện
– Lục tổ truyện diễn ca
– Bát nhã đạo quốc âm văn
– Xuất gia tối lạc tỉnh thế tu hành vãn
– Tham thiền vãn
– Hoán tỉnh trần tâm khuyến tu tịnh độ vãn
– Thiền cơ yếu ngữ vãn
– Giới hành đồng từ
– Trùng khuyến thân chử Hán
26-Nguyễn Du (1766-1820)
– Truyện Kiều
– Văn tế thập loại chúng sinh
– Thơ chữ Hán
27- AnThiền Phúc Điền (1790-1860?)
– Thiền đường quy ước
– Đạo giáo nguyên lưu
– Tạigia tu trì cách thức
– Giới sát văn
– Phóng sanh văn
– Hóa hư lục giải nghĩa
– Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục
– Kim cang giải nghĩa
– Di Đà kinh giải nghĩa
28-Thanh Đàm (1780-1840)
– Pháp hoa giải nghĩa
– Bát nhã giải
29- Đạo Minh Phổ Tịnh (?1750-1816)
– Phú pháp kệ
30- Bạch Liên (1770-1820?)
– Du YênTử sơn nhật trình
– Thiếu thất phú
– Một số tựa bạt
31- Tánh Thiên Nhất Định (1784-1847)
– Phú pháp kệ
– Và một số tác phẩm khác
32- Pháp Liên (1800-1860)
– Pháp hoa quốc ngữ kinh
33- Đoàn Minh Huyên (1807-1856)
– Sấm giảng
34- ĐiềmTịnh (1836-1899) và Như Như
– Hàm long sơn chí
– Dương xuân sơn chí
– Đạo trang thi tập (Như Như)
– Thiền môn tòng thuyết (Điềm Tịnh)
35-Thanh Lịch (1830-1900?)
– Lễ tụng tập yếu chư nghi
– Giới đàn tăng
– Thọ giới nghi chỉ
36- Nhất Thế Nguyên Biểu (1836-1906)
– Tỳ kheo ni giới bổn lược ký
– Và một số tác phẩm khác
37- Diệu Nghĩa (1850-1914)
– Tỳ ni Sa di oai nghi cảnh sách
– Và một số tác phẩm khác
38- Từ Phong (1864-1938)
– Quy nguyên trực chỉ giải âm
39- Tâm Tịnh (1874-1929)
– Tịnh độ nghi thức
40- ViênThành (1879-1929)
– Lược ước tùng sao
– 30 bài thơ Nôm
41- Chơn giám Trí Hải (1876-1950)
– Mông sơn thí thực diễn âm
– Tịnh độ huyền cảnh
42- Chân Đạo Chính Thống (1900-1968)
– Thủy nguyệt tùng sao
– Và một số thơ văn
43- Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?-594)
– Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh
– Phật thuyết đại thừa phương quảng tổng trì kinh.
44- Đại Thừa Đăng (620-682?)
– Câu xá luận ký
-Đại thừa bách pháp minh môn luận thuật ký
– Duy thức chỉ nguyên
45. Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644)
-Bồ đề yếu nghĩa
46- Đại Sán Thạch Liêm (1633-?)
– Hải ngoại kỷ sự
– Kim cang trực giải
– Ly lục đường thi
Vạn Hạnh
Mùa trung thu Phật lịch 2544 ( 2000 )
Lê Mạnh Thát
MỤC LỤC
LỜI ĐẦU SÁCH
PHẦN I
LỜI DẪN VỀ LÝ HOẶC LUẬN
1- Vấn đề niên đại Lý hoặc luận
2- Quan điểm hiện đại về lý hoặc luận
3- Quan điểm của chúng tôi
· BẢN DỊCH LÝ HOẶC LUẬN
· PHỤ LỤC I
Mâu Tử và những đoạn phiền dật văn
· PHỤ LỤC 2
Dật văn từ Huệ Thông và Phạm Việp
Bác Di hạ luận
Lý hoặc luận
PHẦN II
KHƯƠNG TĂNG HỘI
· LỜI DẪN VỀ KHƯƠNG TĂNG HỘI
I . Khương Tăng Hội cuộc đời và sự nghiệp
1. Khương Tăng Hội ở Việt Nam
2. Khương Tăng Hội ở Trung Quốc
3. Sự nghiệp phiên dịch và trước tác
II. Nghiên cứu về Lục độ tập kinh
1. Vấn đề truyền bản , tên gọi và niên đại
2. Vấn đè bản đáy
3. Những vấn đề ngôn ngữ của Lục độ tập kinh
4. Về sự tồn tại của nguyên bản tiếng Việt
5. Phân tích xuất xứ Lục độ tập kinh
6. Nội dung tư tưởng Lục độ tập kinh
7. Lục độ tập kinh và văn học Việt Nam
8. Tổng kết
· KINH LỤC ĐỘ TẬP
· BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT
· NGUYÊN BẢN HÁN VĂN
LÝ HOẶC LUẬN
· NGUYÊN BẢN HÁN VĂN
LỤC ĐỘ TẬP KINH
__________________
TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Tập 2
Lê Mạnh Thát
Tựa
Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam 2 bao gồm các tác dịch phẩm còn lại của Khương Tăng Hội cùng sáu lá thư của Lý Miễu và hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh. Về những tác dịch phẩm còn lại của Khương Tăng Hội, thì trong tập 2 này chúng tôi cho công bố các nghiên cứu và bản dịch của Cựu tạp thí dụ kinh, Pháp kính kinh tự và An ban thủ ý kinh chú giải. Đây là những tác phẩm hiện được bảo lưu trong các truyền bản khác nhau, mà đầu thế kỷ XX Takakusu Junjiro đã cho khảo dị và in lại trong bộ Đại Chính tân tu đại tạng kinh (viết tắt ĐTK) vào những năm 1915-1925 của triều vua Đại Chính (Taiso) ở Nhật Bản. Sáu lá thư của Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh cũng được xuất bản trong bản in ấy. Chúng tôi đã sử dụng bản in vừa nói cho việc nghiên cứu phiên dịch các tác dịch phẩm vừa nêu.
Trong Tổng tập 2 này, để hiểu Pháp kính kinh tự của Khương Tăng Hội, chúng tôi cho dịch luôn bản Pháp kính kinh của Kỵ đô úy An Huyền. Đây là một trong những bản kinh xưa nhất của nền dịch thuật Phật giáo Trung Quốc, nên đầy dẫy những văn cú khó khăn của giai đoạn cổ dịch. Vì thế trong khi dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Pháp Hộ đối với kinh này, biết dưới tên Uất Ca La Việt vấn Bồ tát hạnh kinh (ĐTK 323).
Tổng tập 2 này cũng bao gồm phần nghiên cứu và bản dịch kinh Tạp thí dụ. Đây là một bản kinh, mà các kinh lục Trung Quốc thường xếp vào loại thất dịch của đời Hán, nghĩa là một bản dịch không biết do ai thực hiện. Vì bản thân bản kinh có chứa đựng một số ngôn ngữ mang tính chất ngữ pháp tiếng Việt, gần gũi với văn phong của Khương Tăng Hội, nên để cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và đời sống văn hóa Việt Nam, chúng tôi cho đưa vào phần phụ lục các tác dịch phẩm của Khương Tăng Hội.
Giống như Tổng tập 1, Tổng tập 2 này cũng sẽ có phần phụ bản chữ Hán, nhằm cung cấp cho người đọc những tư liệu tham khảo và nghiên cứu khi cần thiết.
Vạn Hạnh
Tết Nguyên Đán năm Tân Tỵ (2001)
Lê Mạnh Thát
Mục Lục
Tựa
Phần 1: Khương Tăng Hội và một số dịch phẩm
Giới thiệu kinh Cựu tạp thí dụ
Giới thiệu Pháp kính kinh tự
Giới thiệu An ban thủ ý kinh chú giải
Giới thiệu Tạp thí dụ kinh
Phần II: Sáu lá thư
Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch
Về tác giả và soạn niên của Sáu lá thư
Niên đại của Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
Bản dịch Sáu lá thư
Nguyên Bản Hán Văn
___________________________________
TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Tập 3
LÊ MẠNH THÁT
LỜI NÓI ĐẦU
Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam 3 dành trọn quyển cho việc in lại tác phẩm Thiền uyển tập anh cùng phần nghiên cứu, bản dịch và chú thích của chúng tôi, mà trước đây đã từng được xuất bản. Việc dành tập 3 cho Thiền uyển tập anh này tất nhiên không đáp ứng hoàn toàn tiêu chí sắp xếp do chúng tôi đã đề ra trong Tổng tập 1. Đó là “sắp xếp các tác phẩm Văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác giả, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nước ta cho đến thế kỷ XX“.
Lý do nằm ở chỗ Thiền uyển tập anh ra đời sớm lắm thì cũng từ năm 1337, tức là sau các tác giả như Trần Thái Tông, Tuệ Trung , Trần Nhân Tông v.v.. rất nhiều, mà phần lớn thuộc vào thế kỷ thứ XIII. Thêm vào đó, nếu chấp nhận giả thiết của chúng tôi về tác giả Thiền uyển tập anh là thiền sư Kim Sơn, thì niên đại càng muộn màng hơn nữa, vì Kim Sơn phải sống cho đến lúc vua Trần Minh Tông mất vào năm 1357.
Tuy thế, vì Thiền uyển tập anh là một tác phẩm tập hợp các tư liệu liên hệ tới giai đoạn Phật giáo từ khi Sáu lá thư ra đời cho đến lúc vua Trần Thái Tông lên ngôi. Cho nên, về một mặt nào đó, ta có thể coi Thiền uyển tập anh như một đại biểu cho văn học Phật giáo Việt Nam của giai đoạn ấy. Đó là nguyên nhân vì sao chúng tôi đã đưa Thiền uyển tập anh vào Tổng tập 3 này .
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Tựa
Phần I
Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh
I. Vấn đề truyền bản
1. Truyền bản đời Trần
2. Truyền bản đời Hồ
3. Truyền bản 6 quyển
4. Truyền bản đời Lê sơ
5. Truyền bản đời Lê I
6. Truyền bản đời Lê II
7. Truyền bản đời Nguyễn
8. Bản chép tay A.2767
9. Vấn đề chọn lựa truyền bản
II. Vấn đề tên gọi
III. Vấn đề soạn niên và tác giả
1. Thiền uyển tập anhlà một tác phẩm đời Trần
2. Thiền uyển tập anhđược viết vào năm 1337
3. Vấn đề tác giả Thiền uyển tập anh
IV. Những nguồn sử liệu và phương pháp viết sử
1. Những nguồn sử liệu cơ sở
2. Nguồn sử liệu phụ
3. Phương pháp viết sử
V. Vấn đề hiệu bản , phiên dịch và chú thích
Bảng hiệu đối
Phần II:
Bản dịch Thiền uyển tập anh
Bài tựa in lại Thiền uyển tập anh
Thiền uyển tập anh ngữ lục-Quyển thượng
Thiền uyển tập anh ngữ lục – Quyển hạ
Dòng pháp của Tì Ni Đa Lưu Chi chùa Pháp Vân
PHẦN III
Chú thích Thiền uyển tập anh
Bài tựa in lại Thiền uyển tập anh
Thiền uyển tập anh bạt hậu
PHẦN IV
Bảng chỉ dẫn
PHẦN V
Nguyên bản Hán văn
VÀI NÉT VỀ TÁC GỈA
le manh thatGiáo sư, tiến sĩ, sử gia, thiền sư Lê Mạnh Thát, pháp danh Trí Siêu sinh ngày 15 tháng 4 năm 1944 tại Làng Cu Hoan, Xã Hải Thiện, Huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ông là người được biết nhiều bởi những công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử Việt Nam. Một số các phát hiện mới của ông về lịch sử Việt Nam gây chấn động giới nghiên cứu sử. Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận ông là “Người viết sách về văn học và lịch sử Phật giáo nhiều nhất Việt Nam”. Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng ông vẫn để tóc. Năm 1959, ông vào Huế trọ ở chùa Báo Quốc và theo học tại Quốc học Huế. Tại chùa Báo Quốc có mở xưởng làm xì dầu. Ông được phân công phụ trách xem quá trình thuỷ phân có dư xút hoặc axít, hàm lượng đạm có từ bã đậu phụng. Năm 17 tuổi ông được đặc cách thi tú tài…
Năm 20 tuổi ông đậu cử nhân ngành triết học tại Viện Đại học Đà Lạt.
Từ 1965-1974 ông theo học tại Viện Đại học Winconsin, Madison, Hoa Kỳ, lấy bằng tiến sĩ ngành Triết học. Luận án của ông tập trung vào lĩnh vực triết học Thế Thân (Philosophy of Vasubandhu); Vasubandhu là tên của một triết gia Ấn Độ lỗi lạc sống ở thế kỷ thứ 5.
Năm 1974-1975, ông là giáo sư Viện Đại học Vạn Hạnh – Sài Gòn, giảng dạy các môn tiếng Sanskrit, lịch sử triết học Ấn Độ, lịch sử Phật giáo Việt Nam
Từ 1975-1984, ông giảng dạy tại Viện nghiên cứu Phật học Vạn Hạnh – thành phố Hồ Chí Minh [2]
Năm 1984, ông bị chính quyền Việt Nam bắt giam vào năm 1984, bị tuyên án tử hình, sau đó án được giảm xuống tù chung thân, vì tội “tán thành, ủng hộ, che chở, đùm bọc hành động phản cách mạng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa” (Vì ông tiếp tục lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khi hầu hết lãnh đạo của giáo hội đã gia nhập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được nhà nước ủng hộ ).[3]
Ông được phóng thích ngày 31 tháng 8 năm 1998, sau 14 năm giam cầm.
Từ 1998-đến nay: ông là giáo sư, Phó Viện trưởng – Viện Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2012 ông được bầu làm thành viên Ban thường trực của Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VII (2012 – 2017) [4].
Ông thông thạo hơn 15 thứ tiếng [1].
Các lý thuyết mới về lịch sử Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Phát hiện mới của ông gây chấn động giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam:.
Ông tuyên bố đã phát hiện ra Lục độ tập kinh, một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới đã lưu truyền 2000 năm, tập kinh đó là của Việt Nam, tập kinh được dịch ra chữ Hán từ một bản tiếng Việt [5] chứ không phải từ bản tiếng Phạn.
Cho rằng truyền thuyết trăm trứng có khởi nguồn từ Lục độ tập kinh, trước kia chỉ biết có truyền thuyết trăm trứng là hồn thiêng dân tộc, nhưng khởi nguồn thì không biết từ đâu.
Ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahabharata (Mahàbhàrata) từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi.
Ông cho rằng không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (“vì làm gì có An Dương Vương mà đánh!”) và nhà Thục cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Có nghĩa là, cho đến năm 43 (sau công nguyên), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, Văn Lang vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học… Nhà nước và văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến “khai hóa” mà có. Nhà nước Hùng Vương có đủ bản lĩnh, sức mạnh để tiếp thu tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang, đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một trong những dẫn chứng sống động [1]. Ông dẫn chứng, sau khi Mã Viện “chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương”, Hậu Hán thơ viết: “Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc”. Ông lập luận rằng, như vậy rõ ràng nước Việt đã có luật pháp, bộ luật đó một chính quyền Hai Bà Trưng ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời.
Các đề nghị sửa lại lịch sử của ông:.
Dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta. Lý do, Trước đây ta viện dẫn từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện, trong đó 3 tài liệu không rõ nguồn gốc. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc là Sử ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán thư, hoàn toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc lập. Vậy, nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc.
Nước ta từ thời Hùng Vương vẫn là một nước độc lập kéo dài cho đến năm 43, nghĩa là giai đoạn Bắc thuộc lần thứ nhất không tồn tại [6].
Lý giải của ông về các sai sót trong việc chép sử trước đây:
Ông cho rằng trước đây đã dùng những sử liệu không đáng tin cậy để viết sử rồi cứ đinh ninh như vậy cho tới nay. Từ Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do “những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng”. Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng “những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thơ như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát…, dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn”. Tuy nhiên, theo ông, “nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội lần” so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn trên đây, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, “nó cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm” [7].
Nhận xét:
Ông Nguyễn Khoa Điềm nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương: “Tôi không phải là người nghiên cứu lịch sử, tuy nhiên tôi đã đọc bộ Lịch sử Phật Giáo Việt Nam và Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của thiền sư Lê Mạnh Thát. Với cảm nhận của bản thân, tôi cho rằng những giả thiết mà thiền sư đặt ra là rất đáng trân trọng. Trước hết phải ghi nhận là thiền sư đã có một tinh thần dân tộc, luôn mong muốn làm sáng tỏ lịch sử nước nhà. Thiền sư đã cất công tìm tòi, dò sâu vào lịch sử, đọc những tài liệu, những công trình khoa học từ nhiều nguồn, nhiều quốc gia, nhất là trong các tạng kinh Phật. Đây là một cơ duyên mà không phải ai cũng có được. Trong bối cảnh mà nhiều nguồn tài liệu khác đã bị tiêu hủy, thì việc phát hiện những vấn đề lịch sử tiềm tàng trong kinh Phật là điều rất quý”…”Đây là một vấn đề lịch sử cần trao đổi cởi mở, rộng rãi để nhân dân được nghe, được biết. Qua đó, biết đâu chúng ta sẽ có thêm được nhiều nguồn thông tin mới khác nữa từ trong nhân dân” [8].
Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, tất cả những cái đó phải được xem xét cụ thể trên nhiều phương diện như độ tin cậy của sử liệu, phương pháp phân tích của tác giả và phải đặt trong tổng thể với các nguồn tư liệu khác. Các bộ kinh Phật đương nhiên là hết sức quý, nhưng nó cần được giải thích sự khác biệt với các nguồn tư liệu khác cũng có giá trị riêng của nó, kể cả truyền thuyết và dã sử. Không phải cứ nói đến “chính sử” của triều Lê (Đại Việt Sử ký toàn thư) do những sử gia tên tuổi biên soạn đã là chân lý tuyệt đối. Bởi trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy thì cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không thể gọi là tuyệt đối vì dân tộc mà căn bản là của giới cầm quyền. Đương nhiên, cũng không chỉ dựa vào một bộ kinh dù vô cùng quý giá trong kho tàng Phật giáo mà phủ định, đơn giản những nguồn sử liệu khác [9].
Các tác phẩm tiêu biểu
Công trình nghiên cứu của Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát về lịch sử và văn học Phật giáo Việt Nam gồm 26 tác phẩm với 18.322 trang, 5 bài nghiên cứu chuyên ngành gồm 140 trang, 4 tác phẩm về các đề tài Phật học 1.436 trang
Lịch sử Phật Giáo Việt Nam – 3 tập. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2006.
Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam – 3 tập. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2006.
Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta.
Toàn tập Minh Châu Hương Hải.
Toàn tập Trần Thái Tông.
Toàn tập Trần Nhân Tông.
Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài.
Nghiên cứu về Mâu Tử – 2 tập.
Chân Đạo Chánh Thống.
Lịch sử Âm Nhạc Phật Giáo Việt Nam.
Tự điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam – 2 tập.
The Philosophy of Vasubandhu.
Ngữ pháp tiếng Phạn
Một số phát hiện khác[sửa | sửa mã nguồn]
Ông phát hiện ra một số sai sót của Lê Quý Đôn khi ghi chép về văn thơ:
Bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc [1].
Bài khác cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng phát hiện tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. (ông còn phát hiện số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư) [1].
Lê Mạnh Thát chứng minh rằng trong số 40 bài thơ thiền được cho là của các thiền sư Việt Nam thời Lý-Trần sáng tác mà Lê Quý Đôn chép lại trong Kiến văn tiểu lục, trên thực tế có tới 32 bài là tác phẩm của người Trung Quốc, sau đó được 1 số người Việt Nam “gia công” lại và gán cho các tác giả Việt Nam.
Sử gia Hà Văn Tấn đồng ý với phần lớn những phát hiện này của Lê Mạnh Thát. [cần dẫn nguồn]Trong 1 tiểu luận viết cho Tạp chí Văn học vào năm 1992, sử gia Hà Văn Tấn dẫn lại một số ý kiến của Lê Mạnh Thát (khi này đang ở tù) cũng như nhấn mạnh rằng, ông (Hà Văn Tấn) đã lần theo những chỉ dẫn, chú thích của Lê Mạnh Thát để kiểm tra lại nguồn tài liệu lập luận của thiền sư, và ông (Hà Văn Tấn) hoàn toàn đồng ý với những khám phá này.
Một buổi sáng mùa xuân, cuối tháng 3 năm 1984, khí trời êm ả, cảnh vật êm đềm, tĩnh lặng cũng như bao nhiêu thời khóa công phu và lạy Sám mỗi sáng. Ôn Già Lam và đại chúng xong thời lễ tụng 108 biến Hồng danh. Về phòng, Ôn uống trà và điểm tâm. Sau giờ điểm tâm, là việc làm thường nhật, tưới nước, quét sân, cho cá ăn… Nhưng sáng hôm nay Ôn đã không làm việc đó, vì có lệnh công an mời lên họp trên Mặt trận Tổ quốc, do vậy Ôn đi từ sáng sớm. Sau khi Ôn đi rồi thì công an vào soát chùa Già Lam, đồng lúc bên viện Phật học Vạn Hạnh cũng bị soát. Họ, công an, bắt quí thầy vào ngồi phòng khách, không được đi lại, một số công an khác lên phòng Thầy Tuệ Sỹ và Nguyên Giác kè hai Thầy lên xe và chở đi, không nói một lời từ biệt. Và bên Vạn Hạnh cũng không khác, cùng một thủ thuật, họ bắt Thầy Trí Siêu và Thầy Như Minh cũng kè ra xe rồi chạy mất. Có điều thật dễ thấy là mạng lưới công an đã bao vây chùa Già Lam và Vạn Hạnh từ sáng sớm, cũng như họ đã toan tính trước, vì vậy, bên chùa Già Lam thì họ mời Ôn đi họp sớm, còn bên Vạn Hạnh thì Ôn Minh Châu cũng đã đi họp mấy hôm ở Hà Nội, cho nên cả hai nơi đều vắng mặt hai Ôn, mục đích để họ dễ bề hành sự.
Nói đến Thầy Thích Trí Siêu – Lê Mạnh Thát, một sử gia, một nhà văn hóa lớn, một học giả uyên bác, tinh thâm ngôn ngữ học, Phật học. Người viết cũng đã một thời gian làm việc với Thầy tại thư viện Vạn Hạnh, 1981-1984, công trình khảo cứu, sưu tra làm bộ bách khoa Phật học Đại Từ Điển cho Ôn Già Lam. Thầy cũng bình dị không kém gì Thầy Tuệ Sỹ, cuộc sống đơn sơ của một nhà đạo sĩ. Vóc người nhỏ, với vầng trán cao, bóng nhụi, biểu lộ một sự thông minh xuất chúng. Dáng đi của Thầy, không giống như người thường, đôi tay hơi khung lên và xăm xăm tới, chữ viết của Thầy còn khó đọc gấp mấy lần chữ viết của Thầy Tuệ Sỹ. Có lần Sư cô Huệ Khương, thư ký đánh máy tại thư viện, người đã bị bắt cùng ngày với quí Thầy, đọc bản thảo của Thầy không hiểu, cô hỏi Thầy, Thầy trả lời : “Chữ nghĩa văn chương là của con người, sao lại không hiểu ?” bằng giọng Quảng Trị khó nghe, rồi Thầy tiếp tục đọc, viết, không nói gì nữa, cô Khương cũng chẳng dám hỏi thêm. Thầy làm việc thật cặm cụi, có những đêm thức trắng bên chồng kinh, sách, sử liệu cổ. Thầy không ngừng phát kiến, lục đạo những chứng tích, di tích xa xưa, mà một thời đã bị mai một. Đích thân Thầy đi về các ngôi chùa cổ ở miền Tây, hay miền Trung, để đọc lại những bản kinh, lịch sử được viết tay bằng chữ Nho, mà theo năm tháng gần như mục nát, nhưng đó chính là những tài liệu vô giá trong công trình khảo đính văn học sử, lịch sử Phật giáo Việt Nam. Qua những công bố sử học mới nhất của Thầy, ngay cả Bộ Văn Hóa Hà Nội cũng phải tham kiến với Thầy, dù họ chẳng ưa gì những sự khám phá mới mẻ này. Vào những năm đầu sau ngày 30/4/1975, Bộ Văn Hóa Thành phố Hồ Chí Minh mời Thầy công tác, giảng huấn, nhưng sau một thời gian, họ thấy trí tuệ của Thầy vượt họ quá xa, sự hiểu biết lịch lãm, kinh nghiệm chuyên môn sâu sắc, nên thôi, và cũng từ thời gian đó, công an theo dõi Thầy cho đến ngày Thầy bị bắt và bị kết án tử hình. Có lần Thầy ra Phật học viện Nha Trang, cùng Thầy Tuệ Sỹ, hai người đi bộ xuống biển rồi chiều về, đi ngang qua Sở công an thành phố, được mời vào ngủ lại đêm, sáng mới về. Hỏi ra, Thầy nói: “Họ không biết mình là ai nên bắt nhốt một đêm muỗi cắn quá chừng”. Nói xong, Thầy cười tự nhiên.
Ngoài thiên tư, bẩm chất của một nhà sử học, đạo học, nghiên tầm Đại Tạng kinh điển. Thầy còn là một Bác sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Hoa Kỳ, mà qua thời gian thân phụ Thầy là Ôn Trí Lưu. Giám tự Linh Mụ, Huế, bịnh nằm trong phòng Thầy, Viện Vạn Hạnh, tự tay Thầy chăm sóc thuốc men, cơm cháo. Thầy cùng thân phụ là đệ tử của cố Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký kiêm Xử lý Viện Tăng Thống, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu.
Thân thế và sự nghiệp của hai Thầy khác hẳn với tất cả mọi người. Thầy Tuệ Sỹ là đệ tử của Hòa Thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Trí Thủ, có một sự nghiệp văn học lừng lẫy, giáo pháp thông suốt, liễu tri, thơ văn đầy ắp trong tư tưởng. Còn Thầy Trí Siêu như trên đã nói, cả hai là những ngôi sao sáng dưới bầu trời Việt Nam, là tinh hoa nước Việt, là những cây bút trác việt, tuyệt luân của Phật giáo, chính những yếu tố đó mà hai bản án tử hình đã tròng vào cổ hai Thầy. Cộng Sản không thể làm ngơ và để tự do cho những con người ưu tú như vậy. Đọc lịch sử hình thành từ những ngày đầu tiên của Cộng sản Quốc tế, đến đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hôm nay, ai cũng thấy tầng lớp công nông đứng lên cướp chính quyền, đấu tố giai cấp thượng lưu, trí thức, địa chủ, phú hương. Do vậy, sự hiện diện của hai Thầy trong xã hội chủ nghĩa không có lý do gì tồn tại được, mà đã không thể tồn tại được thì chế độ Cộng sản phải làm gì ? Đây là lý do đẻ ra bản án tử hình. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam kết án tử hình hai Thầy là mặc nhiên công nhận với thế giới về việc đàn áp Phật giáo.
Ngay sau ngày 30/4/1975, Cộng sản đã ra lệnh tịch thu tất cả sách báo miền Nam trước 30/4/1975 từ mọi lãnh vực : triết học, kinh tế, chính trị, tôn giáo, xã hội, âm nhạc… họ cho rằng sách báo của miền Nam là bồi bút của “Mỹ-Ngụy”, chất chứa những tư tưởng phong kiến, đồi trụy, và bắt phải hủy bỏ. Lúc bấy giờ, vì đau lòng thương tiếc bao công trình văn hóa của đất nước nên nhiều nơi sách vở được cất vào bao bố và đem ra ngoài rẫy cất dấu, thời gian sau coi lại, mối mọt đã ăn rách nát. Cộng sản Việt Nam đã hủy hoại nền văn hóa dân tộc. Đôi bút của hai Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ cho nền văn học đương đại, khơi dậy một chặng đường lịch sử văn học, sử học và nghệ thuật nước nhà. Hai con người, bốn hình ảnh, vừa cưu mang sứ mệnh con dân tộc Việt, đang đứng trước vực thẩm của thời đại mới, thời đại hủy diệt, tàn phá, lạc hậu, bần cùng và nghèo đói; hai Thầy phải làm gì cho sự tồn vong của đất nước ? Vừa gánh nặng trên vai công cuộc khai phá và phát huy con đường giáo pháp “Duy Tuệ Thị Nghiệp” để tiếp nối ngọn đèn chánh pháp mà mấy ngàn năm qua. Tổ Tổ tương truyền, trong sử mệnh của người tu sĩ Phật giáo. Dân tộc lầm than, đang sống dưới sự đọa đày bức ép của chế độ, hai Thầy cũng không thể đành lòng ngó lơ. Đạo pháp trong cơn pháp nạn, hai Thầy không thể bó gối xuôi tay. Hai Thầy đã thể nhập vào đời, như hình ảnh Thiền sư chống tích trượng xuống núi, đem tấm thân giả tạm hiến dâng cho đại cuộc. Ngày hai Thầy bị bắt mang đi và kết án tử hình, là ngày chế độ Cộng sản Việt Nam tuyên bố cho thế giới biết rằng : xã hội chủ nghĩa Việt Nam không gìn giữ chứng tích sử học, không thừa truyền nền văn hóa dân tộc, tụ phát bởi những tấm lòng, ước mơ xây dựng một nền văn hiến, văn phong cho đất nước. Bản án đó đã hủy diệt những danh tài trẻ tuổi với nhiều ước mơ và lý tưởng siêu xuất khỏi chốn đọa đầy, nô lệ hóa của xã hội chủ nghĩa. Vì lứa tuổi hai Thầy đại diện cho tầng lớp thế hệ trẻ, mang nhiều hoài bão, vươn đôi tay ôm choàng Tổ quốc vào lòng, bằng khối óc no tròn tình tự nòi giống tổ tiên. Bản án tử hình hai Thầy đã đánh động lương tâm thế giới, khiến mọi người từ quốc nội đến hải ngoại, từ Liên Hiệp Quốc đến Hội Ân Xá Quốc Tế, tất cả đều lên tiếng yêu cầu nhà nước Cộng sản Việt Nam phải hủy bỏ bản án tử hình phi nhân, vô đạo. CS Hà Nội kết án tử hình hai nhà tu sĩ Phật giáo, những người đã nuôi dưỡng lòng từ bi, mang tình thương, ban vui cứu khổ; khơi dậy ngọn đuốc trí tuệ, thắp sáng đến tận cùng tự mỗi lương tâm của con người. Đối với hai Thầy, những người mang đạo tâm vì dân vì nước thì bản án đó có nghĩa gì khi phải hy sinh thân mạng trên nền tảng chân lý, cứu khổ độ mê. Chết để cho bao người được sống, để làm viên sỏi lót đường cho bao người bước tới. Chết như là tiếng sóng ngầm của đại dương làm các loài thủy tộc tỉnh giấc mơ hóa rồng thiêng bay cùng mây trắng. Chết như cơn địa chấn làm sụp đổ mặt đất này. Người đã đứng trên đỉnh núi Lăng Già của A Bà Tu La Vương, dùng mọi thứ ngôn ngữ, văn từ, thi ca, âm nhạc để tự trang nghiêm mình, trang nghiêm quốc độ, cùng với sinh mệnh hơn 70 triệu dân, vì lòng Bi nguyện, hai Thầy có sức tự tại bằng giá trị thực nghiệm Tánh Không, thì bản án tử hình có làm run rẫy chân lông, sợi tóc ? Hai Thầy đã liễu giải nhơn pháp đều vô ngã, phiền não và sở tri, thường thanh tịnh không, mà sanh khởi lên tâm đại bi. Nếu không vì đại bi tâm, thì hai Thầy đâu cưu mang tù tội, nhưng tất cả chỉ vì hoa đốm giữa hư không, mấy chốc có không, thiên lưu thiên biến. Chế độ Cộng sản đã không thấy rõ thực chân, thực tướng dòng máu Đại Cồ Việt. Dòng máu của chư anh linh Thánh Tử Đạo, đã tưới lên từng ngọn cỏ, đọt cây làm xanh tươi non sông gấm vóc. Lý tưởng tứ đại giai không, đem nắm xương tàn bón phân hoa lá cũng có ích cho đất trời mù khơi, sương tuyết. Tất cả đều cưu mang tự tính vô tình và hữu tình đồng thành Phật đạo, thì đâu sá gì một chút cỏn con sanh di tử độ. Chỉ có Cộng sản mới chấp thủ, bảo thủ, định thủ những tư kiến chủ nghĩa của cái nhìn không qua khỏi mũi cho nên cứ mãi ghìm chặt súng đạn, gươm đao, và cho đó là sức mạnh vô cực đối kháng để bảo tồn danh vọng, địa vị. Sự sát hại xem như cứu cánh, kết án tử hình xem như giải pháp tối thượng thì đó chính là ảo ảnh của lương tri, mà trước mặt là hố sâu đưa cả chế độ xuống vực thẳm. Một thế giới mù lòa vì không có văn hóa, văn học, văn phong, văn mỹ. Xã hội chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam chưa hề có một nền văn học thuần túy dân tộc, phụng sự cái hay, cái đẹp, cái thanh cao, tinh khiết con người. Họ giết người vì tự ái thua kém của mình. Giết người để thấy cái khôn của người không còn phải chứng kiến, chướng tai gai mắt. Giết người là để chôn đi hết mọi chứng tích của sự hiểu biết, thông minh, tri thức con người. Và họ giết người vì không cùng đường hướng, chủ trương với chế độ. Bản án tử hình năm xưa, 1988, nơi hai Thầy là chứng nhân một oan nghiệt của chế độ Cộng sản Việt Nam mà mãi mãi ngàn sau, qua những dòng lịch sử dân tộc, đàn cháu con, hậu sinh sẽ biết thế nào là tội trạng của chế độ Cộng sản đối với Phật giáo. Suốt một dòng lịch sử dân tộc và đạo pháp, trải qua những chặng đường thăng trầm, vinh nhục của đất nước, mấy nghìn năm qua có thể nói thời đại Cộng sản Việt Nam là thời đại đầu tiên tuyên án tử hình đối với giới tu sĩ Phật giáo mà hai Thầy đã phải nhận lãnh. Bản án tử hình cũng nói lên sự thật cho mọi người biết rằng : có chế độ xã hội chủ nghĩa thì không có Phật giáo, hoặc nếu có chỉ để làm vì. Cộng sản đâu biết rằng từ ngụm nước đầu nguồn, cha ông, tổ tiên đã ăn trái cây giải thoát của Phật giáo, đã uống dòng nước thanh hương từ bi của đạo Phật mấy nghìn năm qua, mà ngày nay là đàn con cháu lại nhổ gốc cây, bứng tận rễ, tát cạn suối nguồn, quấy phá tanh hôi. Người ta thường nói : “Con hơn cha là nhà có phước”, nhưng quê hương Việt Nam thật kém phước, vì nhà cầm quyền CSVN đã làm đảo lộn mọi trật tự gia đình, xã hội, mọi đạo đức, lễ nghĩa. Họ đã hủy hoại mọi nền tảng lễ nghi, nhân phẩm đến văn hóa, văn học, văn minh của dân tộc qua những hành động áp bức, khủng bố, vô nhân và hủy diệt tất cả sách báo miền Nam. CSVN đã làm hoen ố những trang sử Việt./.
(Nguồn: Wikipedia & Website Tu viện Quảng Đức)
THƠ – VĂN LÝ – TRẦN
THƠ VĂN LÝ – TRẦN
Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977
Đặc điểm văn học Lý – Trần
Tìm hiểu đặc điểm văn học, thiết nghĩ không thể không nhắc đến một luận điểm tưởng đã cũ nhưng cực kỳ quan trọng: Văn học là tấm gương phản chiếu trung thành cuộc sống, là sản phẩm văn hoá tinh thần của thời đại. Văn học Lý – Trần cũng vậy, không ngoài quy luật trên.
Hơn một ngàn năm nô lệ phong kiến phương Bắc (111 TCN – (938 SCN), với ý chí ngoan cường bền bỉ đấu tranh, với ý thức độc lập tự chủ, hễ có cơ hội, dân tộc ta đã vùng dậy đấu tranh đánh đuổi kẻ thù và đã có lúc giành lại nền độc lập tự chủ dù còn ngắn ngủi. Phát huy truyền thống ấy, mùa đông năm 938 bằng mưu lược tài ba, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đưa nước ta sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự chủ. Từ cái mốc lịch sử này, đất nước ta chuyển sang một thời đại mới: thời trung đại. Đây là thời kỳ Nhà nước phong kiến được thành lập, ngày càng hùng mạnh và phát triển qua các triều đại: Ngô (939-967), Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1225), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407) và mấy năm đầu của cuộc kháng chiến chống giặc Minh vào thời hậu Trần (1407-1418). Giai đoạn lịch sử kéo dài ngót năm trăm năm ấy với những thành tựu tổng hợp của các triều đại trên trong đó có hai triều đại Lý và Trần là xứng đáng tiêu biểu hơn cả về nhiều phương diện nên các nhà nghiên cứu đã gọi chung cho cả giai đoạn lịch sử này là thời đại Lý – Trần. Có thể nói đây là thời đại hào hùng và oanh liệt, rực rỡ và đẹp đẽ nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của thời đại này có thể nêu lên ba nét lớn như sau:
– Một là, thời đại độc lập dân tộc thống nhất đất nước, cộng đồng.
– Hai là, thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước.
– Ba là, thời đại khoan giản, an lạc nhân thứ, rộng mở và dân chủ([1]).
Văn học Lý – Trần đã phản ánh sắc nét những đặc trưng cơ bản trên của thời đại.
Điều muốn lưu ý ở đây, văn học Lý – Trần là thời kỳ văn học chính thức mở đầu, có nhiệm vụ khai phá, mở đường cho văn học Việt Nam kể từ sau khi nước nhà giành lại độc lập ở thế kỷ thứ X (năm 938). Nói thế không có nghĩa là văn học Lý – Trần không có một tiền đề nào từ trước. Nền văn học này đã biết kế thừa những gì đã có tuy chưa nhiều của văn học thai nghén trong thời Bắc thuộc([2]). Tuy vậy, những gì đã có ấy chưa thể coi là chính thức mở đầu của văn học thành văn Việt Nam, mà chỉ có thể coi là mầm mống phôi thai tạo tiền đềcho văn học Lý – Trần phát triển. Từ bước mở đầu có tính chất mở đường này, dù muốn hay không, văn học Lý – Trần một mặt chịu sự tác động của một thời đại khoan giản, nhân thứ, hào mại mà dũng liệt; mặt khác, nó cũng tự xác định cho mình một trách nhiệm cao cả mà lịch sử đã giao phó là góp phần tích cực vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì thế, có thể thấy văn học thời kỳ đầu này nổi lên mấy đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, văn học Lý – Trần hình thành trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng có thể nói là nặng nề bởi nhiều yếu tố ngoại lai, đặc biệt là yếu tố Hán nhưng cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hoá.
Trước hết là sự lệ thuộc, ảnh hưởng. Vấn đề này có nguyên nhân là nước ta bị lệ thuộc phong kiến Trung Quốc thống trị cả nghìn năm. Bấy giờ, văn hoá Hán đã xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường, trong đó con đường áp đặt do các quan cai trị Trung Quốc bảo trợ. Vì thế, khi nước nhà giành lại độc lập, văn học Lý – Trần có mặt đã chịu ảnh hưởng sâu sắc, thậm chí là nặng nề những yếu tố của văn hoá Hán, văn học Hán trên các phương diện ngôn ngữ văn tự, hệ thống thể loại và cả những học thuyết, tư tưởng, tôn giáo.
Về mặt ngôn ngữ văn tự, văn học Lý Trần chủ yếu vay mượn văn tự Hán để sáng tác (mãi đến thế kỷ thứ XIII, dưới đời Trần, mới sử dụng chữ Nôm để viết tác phẩm văn học). Bên cạnh việc vay mượn văn tự, văn học Lý – Trần còn vay mượn thi văn liệu, điển cố, điển tích lấy từ sử sách, từ thánh kinh hiền truyện của Trung Quốc. Sự vay mượn đó nhiều đến nỗi trở thành những mô – típ quen thuộc, tạo nên tính quy phạm, ước lệ, tượng trưng trong văn học. Hồi ấy, những sáng tác văn chương có như thế mới được xem là bác học, cao nhã, cao quý. Chẳng hạn, nói đến cây và hoa, người đọc sẽ bắt gặp tùng, trúc, cúc, mai, sen… Đây là những biểu tượng để chỉ phẩm chất, khí tiết của bậc trượng phu, người quân tử; nói đến vật thì thường là long, ly, quy, phụng; nói đến người thì ngư, tiều, canh, mục; tả cảnh mùa thu phải là rừng phong lá rụng, sen tàn giếng ngọc, mây đùn cửa ải, lá ngô đồng vàng rơi; nói hoa bốn mùa thì thường là xuân lan, thu cúc, hạ sen, đông mai… Vì thế, người đọc không lấy làm lạ là một kiệt tác như Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ) của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, để khích lệ lòng yêu nước của các tướng sĩ dưới quyền xông lên đánh quân xâm lược, tác giả lại nêu lên những tấm gương trung thần nghĩa sĩ ở sách vở Trung Quốc như Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Vương Công Kiên.
Về mặt thể loại, văn học Lý – Trần vay mượn những thể loại của văn học Trung Quốc để sáng tác, bao gồm vận văn, biền văn và tản văn: Vận văn có các thể thơ cổ phong, thơ luật Đường (bát cú, tứ tuyệt), từ khúc, ca, ngâm; biền văn thì mượn các thể như hịch, phú, cáo; tản văn thì mượn các thể chiếu, chế, biểu, tấu, tự, bạt, bi ký, sử ký, luận thuyết, các thể truyện… (riêng thể chiếu, chế, biểu, tấu có nhà nghiên cứu xếp vào loại biền văn([3]). Tất cả các thể loại được sử dụng trong văn học Lý – Trần đều là những thể loại của văn học Trung Quốc. Khi vay mượn để sáng tác, các tác giả đã tuân thủ một cách nghiêm ngặt theo những yêu cầu có tính quy phạm của từng thể loại đó. Theo như kết quả nghiên cứu hiện nay thì văn học Lý – Trần chưa có thể loại văn học tự thân, nội tại của dân tộc như ở giai đoạn văn học sau. Điều lưu ý là trong các thể loại trên, về số lượng và chất lượng thì vận văn nổi trội hơn tản văn; các thể loại trữ tình đạt nhiều thành tựu hơn thể loại tự sự.
Bên cạnh vay mượn văn tự ngôn ngữ và thể loại, văn học Lý – Trần còn chịu ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng tôn giáo, những học thuyết của nước ngoài như Phật, Lão, Nho, Bách gia chư tử… Đây là những tư tưởng, những học thuyết có ảnh hưởng lớn ở khu vực Đông Nam Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam) thời trung đại. Tư tưởng Tam giáo đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, trong đời sống con người Việt Nam thời bấy giờ. Đối với các tầng lớp trên thì họ chịu ảnh hưởng những tư tưởng, học thuyết đó nặng nề hơn.
Tiếp theo, tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm như trên nhưng văn học Lý – Trần đã cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hoá.
Văn học Việt Nam tất yếu phải mang bản sắc tư tưởng, tâm hồn Việt Nam. Văn học Lý – Trần cũng vậy. Trên đường hình thành và phát triển, cùng với việc tiếp thu những cái hay, cái đẹp của văn hoá, văn học nước ngoài, văn học Lý – Trần vừa phải từ bỏ, vừa phải chống lại sự lấn áp, áp đảo của những yếu tố ngoại lai đó để ngày càng nâng cao tính dân tộc. Quá trình vận động và phát triển theo hướng dân tộc hoá diễn ra không chỉ ở hình thức mà còn biểu hiện ở nội dung văn học. Trên phương diện hình thức, biểu hiện đó trước hết là văn tự. Nếu ban đầu văn học Lý – Trần sử dụng chữ Hán thì từ đầu thế kỷ XIII, các tác giả còn sử dụng chữ Nôm để sáng tác. Việc chữ Nôm ra đời và được sử dụng đã chứng tỏ ý thức độc lập dân tộc ngày càng được khẳng định, nâng cao; văn hoá, văn hiến đã được phát triển, đang cố gắng để thoát khỏi sự lệ thuộc văn hoá phương Bắc. Đồng thời, sự ra đời của chữ Nôm còn cắm cái mốc cho sự phát triển văn học, làm tiền đề để cho giai đoạn sau kết tinh nên những kiệt tác văn chương bởi những tác giả ưu tú như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông (thế kỷ XV), Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI), Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX)… Điều đáng tiếc là, theo thư tịch cổ cho biết, thời Lý – Trần có nhiều tác giả sáng tác văn học bằng chữ Nôm nhưng qua thời gian, binh hoả, thiên tai, những tác phẩm đó hiện chẳng còn là bao.
Về điển cố, điển tích, văn thi liệu, bên cạnh sự vay mượn của văn học Trung Quốc thì văn học Lý – Trần còn sử dụng văn thi liệu của Việt Nam, lấy ngay đề tài ở Việt Nam để viết về cuộc sống con người Việt Nam, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên của đất nước Việt Nam, phần nào biểu lộ niềm tự hào dân tộc.
Về thể loại, văn học thời kỳ này chưa có dấu hiệu gì về dân tộc hoá hình thức thể loại văn học như ở văn học giai đoạn sau.
Trên phương diện nội dung, văn học Lý – Trần đã biết “hút nhuỵ tinh hoa”([4]), biết tiếp thu có chọn lọc rồi dung hợp, chuyển hoá cái của người thành cái của mình, phục vụ cho cuộc sống của mình, phù hợp với dân tộc mình. Nền văn học ấy đã thể hiện được tâm hồn, tình cảm, tâm tư nguyện vọng của người Việt Nam. Chẳng hạn, cũng là văn tự, thể loại nước ngoài nhưng những bài thơ như Nam quốc sơn hà(Lý Thường Kiệt ?), Tụng giá hoàn Kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão) đọc lên nghe hào sảng, hả hê biết bao, bừng bừng khí thế và đậm đà tính dân tộc biết dường nào! Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Tuy nêu những tấm gương nước người nhưng tác phẩm đã khích lệ, động viên được tinh thần yêu nước, khơi dậy ý chí chiến đấu và quyết chiến thắng quân xâm lược của các tướng sĩ đời Trần để góp phần làm nên hào khí Đông A của thời đại. Ngay cả những tư tưởng tam giáo: Nho, Phật, Lão khi vào Việt Nam cũng đã được dân tộc tiếp thu, dung hợp rồi Việt hoá để phục vụ cho đời sống tâm linh của mình. Lý tưởng trung quân ái quốc, lý tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh; tư tưởng từ bi bác ái của Phật khi vào Việt Nam đã có sự chuyển hoá nên có khác Trung Quốc, Ấn Độ là nơi sản sinh ra chúng.
Hai là, văn học Lý – Trần đã vận động và phát triển trên cơ sở ý thức dân tộc, kết hợp với cảm hứng thời đại, mở ra một dòng văn học yêu nước trong văn chương Việt Nam.
Ở thời trung đại, trong đó có thời Lý – Trần, yêu nước gắn liền với lý tưởng trung quân. Yêu nước và trung quân là một. Trên cơ sở ý thức độc lập dân tộc được củng cố và phát triển, kết hợp với âm hưởng của thời đại phục hưng mà cảm hứng yêu nước trong văn học Lý – Trần được thể hiện ở nhiều khía cạnh, sắc thái, cung bậc, giọng điệu khác nhau bởi những thời điểm lịch sử khác nhau.
Trong điều kiện đất nước hoà bình thì cảm hứng yêu nước được bộc lộ trong thơ văn thường là ý thức tự cường, tự tôn dân tộc; là niềm khát vọng xây dựng đất nước hoà bình hạnh phúc; là yêu giống nòi, tiếng nói, cảnh trí của non sông gấm vóc và yêu cả nền văn hoá của dân tộc. Câu thơ của Đỗ Pháp Thuận “Vô vi cư điện các, Xứ xứ tức đao binh” khi trả lời vua Lê Đại Hành đã chứng tỏ niềm tin vào vận mệnh đất nước. Bài Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) thể hiện sự nhìn xa trông rộng của Lý Thái Tổ về tương lai đất nước, vì Thăng Long không chỉ đẹp ở thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” mà còn là nơi trung tâm để có thể “mưu toan việc lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau”, điều mà cố đô Hoa Lư không còn phù hợp với yêu cầu của thời đại lịch sử bấy giờ. Bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu không chỉ đưa lại cho người dọc một tình yêu thiên nhiên với cảnh trí tươi đẹp của non sông gấm vóc, mà còn đem đến một niềm tự hào lớn về truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm. Bài phú từng được xem là kiệt tác văn chương. Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã so sánh bài phú này với bài Xích Bích phú của Tô Đông Pha (đời Tống – Trung Quốc) rồi ngợi khen “văn thể phú triều Trần phần lớn khôi kỳ, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”([5]).
Cũng là con sông Bạch Đằng lẫy lừng chiến tích, nửa thế kỷ sau cuộc kháng ch iến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285), thứ ba (1287), Trần Minh Tông và Trương Hán Siêu cùng cảm nhận một màu máu tanh hôi trên dòng sông: “Ngỡ rằng máu giặc hãy còn đây”, dù theo thời gian, nước vẫn trôi nhưng dấu vết, chiến tích lịch sử thì vẫn còn lưu lại mãi. Thật tự hào biết bao! Cũng với cảm hứng ấy, Phạm Sư Mạnh khi nhìn dòng sông cuộn sóng, cảm thấy lòng bồi hồi tưởng nhớ chiến tích oai hùng năm xưa của Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên dòng Bạch Đằng giang:
Hung hăng Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.79)
Dịch:
Bạch Đằng cuồn cuộn sóng,
Tưởng thuyền chiến Ngô Vương.
Để hơn trăm năm sau, thi hào Nguyễn Trãi khi đến dòng sông này cũng đã có cảm xúc và niềm tự hào như thế trong bài thơ Bạch Đằng hải khẩu.
Khi Tổ quốc bị xâm lăng thì yêu nước là lòng căm thù giặc, là tinh thần quyết chiến thắng kẻ thù, bảo vệ đến cùng chủ quyền của dân tộc. Yêu nước còn là lòng biết ơn và ca ngợi những con người dám xả thân cứu nước; những con người thà hy sinh chứ không hàng giặc, không hợp tác với kẻ thù. Bài thơ thần (Nam quốc sơn hà) tương truyền của Lý Thường Kiệt vẻn vẹn chỉ hai mươi tám tiếng, gói gọn trong bốn câu mà ít nhất đã mang hai tầng ý nghĩa: vừa là lời hịch lại vừa là lời tuyên ngôn, vì đã khích lệ, cổ vũ tinh thần quyết chiến đấu và chiến thắng quân Tống xâm lược vào năm 1076 trên trận tuyến sông Cầu; đồng thời khẳng định cương vực bờ cõi chủ quyền của đất nước với sự phân biệt rạch ròi “Nam quốc” với “Bắc quốc” và “Nam đế” với “Bắc đế”. Do thế, xưa nay nhân dân ta đã coi bài thơ như là lời tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 1, tr.322)
Dịch:
Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Hay như lòng căm thù, sự căm tức của chủ tướng Trần Quốc Tuấn “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đằm đìa”, với ước muốn “xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù” thì đó cũng là lòng căm thù sôi sục của tướng sĩ trong thời điểm ấy. Còn đây là khí phách hào hùng cùng niềm tin vào vận nước nghìn thu được thể hiện trong bài thơ ngắn với giọng điệu hả hê của Trần Quang Khải:
Đoạt sóc Chương Dương độ,
Cầm hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr.424)
Dịch:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu.
Cảm hứng yêu nước của thời đại Đông A còn vút lên giọng hào sảng của kẻ nam nhi quyết lập công để lưu danh hậu thế trong thơ của Phạm Ngũ Lão:
Hoàng sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr. 562)
Dịch:
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Một thời đại văn học đầy chất tráng ca. Hào khí thời đại ấy đã làm cho Trần Phu, một sứ thần nhà Nguyên, vào thời điểm đó đi sứ sang ta, khi về lại Trung Quốc vẫn còn “giật mình kinh sợ” đến nỗi “tóc bạc”. Cái cảm giác này ông có ghi trong bài Sứ hoàn cảm sự:
Kim qua ảnh lý đan tâm khổ,
Đồng cổ thanh trung, bạch phát sinh.
Dĩ hạnh quy lai thân kiện tại,
Mộng hồi do giác chướng hồn kinh.
Dịch:
Bóng lè binh khí lòng đau khổ,
Vang vọng trống đồng, tóc bạc sinh.
Mừng được về nhà, thân khoẻ mạnh,
Ngủ dài, trở dậy, thấy còn kinh.
Cảm hứng yêu nước ấy còn thể hiện qua giọng điệu uất hận, dồn nén của người anh hùng lỡ vận trong bài Cảm hoài của Đặng Dung. Đây là hai câu kết:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.517)
Dịch:
Thù trả chưa xong đầu đã bạc.
Gươm mài bóng nguyệt đã bao rày.
Ba là, văn học Lý – Trần đã hình thành những giá trị nhân bản, trong đó lòng nhân ái, nhân đạo trở thành cảm hứng chủ đạo trong văn chương.
Xét đến cùng, cảm hứng yêu nước không hoàn toàn tách biệt với cảm hứng nhân bản, bởi yêu nước cũng là một phương diện cơ bản của nhân bản. Yêu nước bao giờ cũng gắn với vận mệnh, cuộc sống con người. Việc đấu tranh chống áp bức thống trị, sự chiến đấu chống ngoại xâm, giải phòng đất nước đều xuất phát từ sự mưu cầu hạnh phúc cho con người. Tuy vậy, nội dung nhân bản vẫn có những điểm riêng. Nội dung đó không chỉ hiểu theo nghĩa đạo đức học mà còn phải hiểu theo nghĩa triết học. GS. Nguyễn Đình Chú đã giới thuyết ngắn gọn thuật ngữ nhân bản như sau “Tinh thần nhân bản không chỉ là tình thương con người, đặc biệt là con người đau khổ, thiệt thòi trong cuộc sống, mà còn là sự khám phá, biểu dương tất cả mọi giá trị làm nên vẻ đẹp con người trong mối quan hệ với vũ trụ, với tự nhiên, với xã hội, với gia đình, với chính nó trong hành động và trong tâm linh”([6]).
Từ giới thuyết trên, nếu triển khai và vận dụng vào văn học Lý – Trần sẽ có rất nhiều vấn đề cụ thể, phong phú và khá phức tạp. Ở đây, chỉ xin điểm qua giá trị nhân bản với hai cấp độ: thứ nhất, văn học Lý – Trần đã xây dựng và giải quyết được mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, tự nhiên; thứ hai, văn học Lý – Trần đã nêu được mối quan hệ giữa con người với con người; con người với cuộc sống.
Ở cấp độ thứ nhất, có thể xem mối quan he giữa con người với vũ trụ, tự nhiên chính là vũ trụ quan thì văn học Lý – Trần đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Xuất phát từ cảm thức trung đại, con người Lý – Trần chưa nhận thức tự nhiên như một khách thể. Hồi ấy, con người nhận thức và phản ánh tự nhiên không chỉ ở cấp ý thức hệ mà ở cấp tâm lý xã hội; không chỉ ở cầu trường cảm quan về thế giới như A. Gurevich đã phát biểu([7]). Với cảm thức ấy, con người đã tự xem mình là một phần tử của vũ trụ, bởi quan niệm thiên nhân tương dữ, thiên nhân hợp nhất. Vì thế, giữa con người với vũ trụ, tự nhiên có sự gắn bó hoà đồng, có mối quan hệ tương giao. Có được điều này, như đã đề cập, là nhờ sự gặp gỡ giữa chất phóng khoáng, dân chủ, cởi mở, phá chấp, cùng xuất phát từ tư duy tổng hợp, nhất nguyên, vạn vật nhất thể, tâm pháp nhất như của Phật với chất phiêu diêu, phóng nhiệm, tinh thần biện chứng khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh và tư tưởng hoà quang đồng trần của Lão – Trang với đức tính dung dị, mềm dẻo, linh hoạt, sống phụ thuộc vào thiên nhiên của người Việt. Vì thế, văn học Lý – Trần, đặc biệt là văn học Phật giáo Lý – Trần đã đem lại cho người đọc nhiều tác phẩm thể hiện sự gắn bó tương giao ấy, tạo nên hình ảnh con người vũ trụ thật đẹp.
Ở cấp độ thứ hai, văn học Lý – Trần đã nêu được mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cuộc sống. Đây là những nguyên tắc đạo lý làm người, là thái độ ứng xử tốt đẹp trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, là khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống của con người, là lòng thiết tha vun đắp những giá trị nhân bản ngày càng hoàn thiện hơn. Về góc độ này, văn học trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX phản ánh rõ nét và có nhiều thành tựu xuất sắc. Riêng trong văn học Lý – Trần thì vấn đề trên cũng đã được các tác giả đề cập đến tuy không nhiều bằng giai đoạn văn học sau.
Có thể nêu lên đây vài tác phẩm tiêu biểu thể hiện cảm hứng nhân bản ở cấp độ này như bài thơ Ai phù lỗ của Huyền Quang:
Khoá huyết như thành dục ký âm,
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr. 642)
Dịch:
Chích máu thành thư muốn gởi lời,
Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi.
Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ?
Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi.
Bài thơ là nỗi lòng thương cảm sâu xa của Thiền gia thi sĩ đối với tên giặc bị bắt. Nhà thơ hiểu được tâm trạng nhớ quê nhà, nhớ người thân của tù nhân và ghi lại những dòng thơ đầy xúc động. Thật hiếm gặp những bài thơ như thế trong văn chương đời Trần. Còn đây là nỗi niềm trăn trở, day dứt của quan tư đồ Trần Nguyên Đán khi nghĩ về nhân dân sống trong cảnh mất mùa đói kém, mà mình thì chẳng giúp ích được gì trong bài thơ Nhâm Dần lục nguyệt tác:
Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,
Hoà cảo miêu thương hại chuyển thâm.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.208)
Dịch:
Năm nay hạ hạn lại thu mưa,
Đau nỗi mùa màng, những thiệt thua.
Ba vạn sách đầy đành xếp xó,
Yêu dân còn nợ, mái đầu phơ.
Trong một bài thơ khác, Trần Nguyên Đán cũng nhắc đến đầu bạc: “Ba phần tóc bạc tấm lòng son”. Bạc đầu vì dân. Một nỗi lo thật cao cả, cũng chỉ vì muốn cho con người sống đầy đủ hơn, hạnh phúc hơn.
Có được nhân sinh quan đẹp đẽ, ấm áp tình người ấy, có lẽ là nhờ sự bắt gặp giữa lòng Thương người như thể thương thân của dân tộc với tư tưởng từ bi bác ái của Phật và học thuyết nhân nghĩa của Khổng – Mạnh. Nhờ sự gặp gỡ này mà văn học Lý – Trần mới có được những tư thế nhân sinh lành mạnh và khoẻ khoắn.
Tóm lại, văn học Lý – Trần với những đặc điểm cơ bản vừa trình bày chính là sản phẩm tinh thần của thời đại Lý – Trần. Nó chi phối các bộ phận văn học thời đại này, cho dù đó là văn học của các nhà Nho hay văn học được sáng tác theo cảm hứng Phật giáo, cảm quan Thiền học; đồng thời còn ảnh hưởng đến các giai đoạn sau của văn học trung đại Việt Nam.
Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, H, số 2, 2001
THIỀN LỤẬN – DAISETZ TEITARO SUZUKI – Việt Dịch Trúc Thiên
TRUNG THU ẤM ÁP
TRUNG THU ẤM ÁP
Tôi đứng đây, giữa lòng Thu mênh mang, gió Thu mềm – mát dịu, Thu hắt hiu đong đưa từng chiếc là, lá thu vàng rụng. Từng bước chân, nghe Thu reo xào xạc. Hơi thở của Trung Thu đến gần !
Tùng dinh dinh… cắc tùng.. dinh dinh!… tiếng trống rộn ràng, tôi bước đi theo hướng trống múa lân. Từng đàn em nhỏ í a – í ới !. Rồi ánh nến bùng lên, lung linh trong những chiếc đèn lồng xinh xắn – rồng rắn quanh các ngã phố.
Tôi bắt gặp em – thui thủi bên góc phố, ánh mắt vời vợi nhìn các bạn cùng trang lứa, ai nấy đều vui cười hớn hở. Tôi đến bên em.
– Em không ra chơi cùng chúng bạn? em nhè nhẹ lắc đầu.
– Em không có lồng đèn à? Em buồn bã cuối mặt.
Tôi thân mật nắm tay em, trong ánh mắt ngạt nhiên, em nhìn tôi. Em đi với tôi, chúng ta sẽ cùng nhau đến một nơi rất vui ! Em lủi thủi bên tôi. Chúng tôi dừng lại trước gian hàng tạp hóa, nhìn những chiếc lồng đèn treo lủng lẳng. Em thích chiếc nào thì chọn ! em ngại ngùng. Tôi trao vào tay em chiếc đèn thiên nga, mắt em ánh lên hớn hở.
Tôi đưa em vào cổng chùa, vừa lúc tiếng còi của Huynh trưởng trực cất lên. Tôi đến trao đổi với chị phụ trách đoàn oanh vũ, chị vui vẻ cầm tay đưa em vào hàng.
Có lẽ hôm nay, lần đầu tiên, em được sống trong không khí chan hòa đầm ấm yêu thương, em được thưởng thức một cái Tết Trung Thu đầy ý nghĩa. Em được phát quà, được ăn bánh Trung Thu, được vui cười thỏa thích cùng chúng bạn, tuy lạ mà dường như đã rất thân quen tự thuở nào./-