VÔ NGÃ

VÔ NGÃ

NGÃ, một luận lý thực nghiệm, được hình thành bởi ngũ uẩn:

I. NGŨ UẨN: Một tổ hợp hình thành bởi năm nhóm, năm yếu tố cấu thành tâm, vật:

  1. Sắc: Lục căn, sáu giác quan: mắt, tai. mũi, lưỡi, thân, ý, do Tứ đại: Đất, nước, gió, lửa hợp thành. Sắc, giác quan tiếp xúc hiện tượng, hình thành đối tượng phân biệt.
  2. Thụ: Xúc giác tiếp xúc lục căn, cảm nhận được: dễ chịu, khó chịu, hay trung tính.
  3. Tưởng: Tri giác, biết được, phân biệt được: âm thanh, màu sắc, mùi vị, kể cả ý thức được hiện tượng chung quanh.
  4. Hành: Những hoạt động tâm lý sau tri giác: nhận định, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh thức; dẫn đến hành động tạo nên nghiệp thiện, nghiệp ác.
  5. Thức: Là cái biết, sự phân biệt. Qua mối quan hệ với sáu giác quan (lục căn): Mắt (nhãn), tai (nhĩ), mũi (tỷ), lưỡi (thiệt), thân (thân thể), ý (tâm lý), tiếp xúc với sáu trần: Sắc (hình tướng), thinh (âm thanh), hương (hương thơm), vị (muồi vị), xúc (cảm giác), pháp (hiện tượng, khái niệm của vật chất và ý thức); hình thành nên lục thức:

II. LỤC THỨC:

  1. Nhãn thức: Cái biết của mắt. Nhãn căn tiếp xúc với sắc trần hình thành nên.
  2. Nhĩ thức: Cái biết của tai. Nhĩ căn tiếp xúc với thanh trần hình thành nên.
  3. Tỷ thức: Cái biết của mũi. Tỷ căn tiếp xúc với hương trần hình thành nên.
  4. Thiệt thức: Cái biết của lưỡi. Thiệt căn tiếp xúc với vị trần hình thành nên.
  5. Thân Thức: Cái biết của thân. Thân căn giao tiếp với xúc trần hình thành nên.
  6. Ý thức: Cái biết của ý. Ý căn nhận thức được các pháp hình thành nên.

Trên hành trình đi vào vô định, con người thật sự vong thân, mong manh; được vay mượn bởi năm uẩn hiện hành, là một chuỗi hiện tượng tương quan tương duyên hoạt động đến vô cùng, đến khi hết duyên, tổ hợp này tách rời, tan rã thì cũng chỉ là giả hợp, vô ngã, không có cái ta ảo tưởng, một nhân cách độc lập thật thể.

III. NGHIỆP: Là nguyên nhân dẫn đến một kết quả tuần hoàn chãy suốt dòng luôn hồi:

  • Nghiệp được hình thành bởi một hành vi, hay một hành động, thông qua tư cách xử sự của Tam nghiệp (còn gọi là tam độc): Thân (thân thể), khẩu (miệng), ý (suy nghĩ).
  • Nghiệp, là một năng lực tiềm tàng, được lưu lại, đến khi thuận duyên, được nẫy mầm, tạo nên một kết quả khác cho mai sau.
  • Nghiệp có tốt, có xấu; có thiện, có ác; nghiệp có đồng nghiệp, biệt nghiệp:
  • Đồng nghiệp: Chung cùng một chủng loại, một hoàn cảnh. Do nghiệp chiêu cảm, mà có chung một cuộc sống cộng đồng, cùng một hoàn cảnh.
  • Biệt nghiệp: Là khác loại, nghiệp riêng biệt khác nhau. Có một cuộc sống đồng sàng, nhưng dị mộng. Cùng có chung một đời sống cộng đồng, nhưng mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau.
  • Vị kỷ vô minh, mù mờ, lệch lạc, thiếu nhận thức đúng đắn, không nhìn thấy được hết sự lợi lạc tích cực thiết thực vì cộng đồng; chỉ vì dục vọng tồn tại tư lợi, hay quyền lực cá biệt, để cho tham, sân, si mê muội, tạo nên hành vi dẫn đến nghiệp ác.
    • Thiện nghiệp: Tỉnh tại sáng suốt, nhận định, phân tích đúng sai, phát nguyện tinh tấn dấn thân, vì lòng từ bi: giải khổ, đem vui, vì nhiêu ích thiết thực tha nhân.

Nghiệp đoanh vây bao quanh cuộc sống, dẫn dắt con người tái sinh. Được hưởng nhờ bởi tài sản của nghiệp, một cuộc đời hay một hoàn cảnh sống nhất định được tái lập, đây là sự tái hiện của nghiệp.

Dưới sự tác động của nghiệp, hình thành nên quả = Nhân quả.

IV. NHÂN QUẢ: Nhân, duyên và quả:

Là một luật tắc tất yếu được hình thành bởi nhân sinh và vũ trụ quan, qua mối tương quan duyên khởi.

Quả hay nghiệp, được hình thành bởi nhân (chủng tử, năng sinh), một khởi đầu hành nghiệp, và được xúc tác bởi duyên để cấu thành quả (sở sinh) báo ứng tái hiện trong cuộc vay trả luân hồi.

Pháp nào có khả năng làm phát sinh ra quả, thì được gọi là nhân. Những tác động môi sinh, những hiện tượng chung quanh, nhiều yếu tố góp sức, tổ hợp hình thành, gọi là duyên. Và nhân cũng là duyên để tạo nên sự sinh tồn, gọi là quả.

a. NHÂN, có lục nhân:

  1. Năng tác nhân: Nhân là năng tác, quả là sở tác. Là tác nhân tạo nên năng lực phát sinh.
  • Hữu lực năng tác nhân: Là tác nhân tích cực làm cho phát sinh.
  • Vô lực năng tác nhân: Là một tác nhân tiêu cực, nhưng không chướng ngại, làm cho tăng trưởng.

2. Câu hữu nhân: Nhân khác thời gian, nhưng quả được phát sinh cùng không gian .

  • Hỗ vi quả câu ữu nhân: Nhân hỗ tương với quả để tác thành.
  • Đồng nhất quả câu hữu nhân: Nhân đồng nhất với quả để hình thành.

3. Đồng loại nhân: Các pháp tương tự như nhau, được tạo tác bởi quá khứ để được liên tục hình thành hiện tại. Thiện sinh thiện, ác sinh ác…

4. Tương ưng nhân: Nhân nương vào quả, quả nương vào nhân để hòa hợp tồn tại.

5. Biến hành nhân: Có khả năng thay đổi, biến động.

6. Dị thục nhân: Nhân quả khác loại, nhưng thuần thục đồng tôn tại.

b. DUYÊN, có tứ duyên:

  1. Nhân duyên: Nguyên nhân nội tại trực tiếp sản sinh trong trật tự. Nhân cũng là duyên.
  2. Đẳng vô gián duyên: Do một sát na tâm lý khởi niệm từ quá khứ để tương tục sinh ra trong thời hiện tại.

Đẳng: Một ý nghĩ, niệm tưởng vừa diệt đi, ý nghĩ sau như nhau lại tiếp tục phát sinh.
Vô gián: Những ý niệm phát sinh liên tục, không rời cách.

3. Sở duyên duyên: Nơi ý thức y cứ, liên tục duyên duyên phát sinh.
4. Tăng thượng duyên: Những dữ kiện từ bên ngoài, y cứ tương trợ nhau làm phát sinh:

  • Thuận tăng thượng duyên: Trợ giúp thêm thuận lợi để phát triển.
  • Nghịch tăng thượng duyên: Giúp thêm ngang trái dẫn đến sụp đổ, thất bại hoàn toàn.

c. QUẢ, có ngũ quả::

Quả hữu vi: Có sanh, có diệt, có biến dị; do nhân duyên phối hợp mà thành.
Quả vô vi: Do thánh giả, thiện tri thức chứng ngộ, thường hằng.

  1. Dị thục quả: Nhân khác quả, nhưng tương tác phát sinh
  2. Đẳng lưu quả: Nhân đồng loại sinh ra quả cùng loại, giống nhau.
  3. Sỹ dụng quả: Do tác dụng của nhân mà hình thành nên quả:
    • Nhân sĩ dụng: Do tri giác thông qua công nghệ tạo thành.
    • Pháp sĩ dụng: Do pháp vô tình (không phải con người) tác động lên mà hình thành, như nắng làm hạn hán, mưa làm ngập lụt v.v…

4. Tăng thượng quả: Là kết quả tốt xấu được tác động bởi nhân và duyên làm tăng trưởng.
5. Ly hệ quả: Là quả vô vi. Nhờ năng lực trí tuệ, được cách mạng, khai phóng, vượt thoát lên trên sự ràng buộc của vô minh phiền não, đem đến tự do bình đẳng. Không phát sinh từ nhân duyên.

Nhân quả là một nguyên lý, một quy luật tất yếu, được phản ảnh chung nhất, bởi một biệt nghiệp hay cộng nghiệp, cá nhân hay tập thể tạo nên dưới một điều kiện giai đoạn nhất định. Một kết quả tốt, vị tha hướng đến tha nhân, luôn luôn đem lại sự thanh bình, bình đẳng, tự do, hạnh phúc thật sự cho cá nhân hay cộng đồng. Một suy nghĩ, một hành động cố ý, một ý đồ tàn hoại, sẽ mang đến đến một hậu quả tự sát bi thảm.

Thời gian báo ứng nhân quả:

  • Ngay trong lúc tạo nhân. Đương kiếp nhân quả
  • Được thể hiện bởi cái nhân từ trước. Tiền kiếp nhân quả
  • Báo ứng vào mai sau. Hậu kiếp nhân quả

V. VÔ THƯỜNG:

Đây là một nguyên lý chứng nghiệm như thật. Mọi dòng chảy của hiện tượng từ tâm đến vật lý, được hình thành trên cơ sở lệ thuộc, không độc lập; tất cả đều không chắc chắn, luôn luôn luân chuyển thay đổi một cách hiển nhiên, chuyển biến liên tục, từ trạng thái này, sang trạng thái khác; sinh ra, tồi tại trong một khoảnh khắt thời gian nhất định, rồi mất hẳn; không thường còn:

– “Vạn vật, nếu có một khởi đầu, thì cũng phải có một chung kết”
– “Hoại diệt là bản chất của chư hành”

Đức Phật đã dạy:
“Ác ngiệp do chính mình tạo ra, tự mình sinh ra. Ác nghiệp làm hại kẻ ngu dễ dàng như kim cương phá hoại bảo thạch… Làm dữ bởi ta, mà nhiễm ô cũng bởi ta; làm lành bởi ta, mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể làm cho ta thanh tịnh được”.

Tha nhân hay siêu nhiên ngoại giới không có năng lực chi phối lên nhân chủ nhân sinh. Với đạo đức nhân bản: Phải tự khai phóng chính mình, tự mình vươn lên để làm một cuộc cách mạng đổi mới chính mình, xây dựng hoàn chỉnh uế độ thành tịnh độ tự tâm, phải tự mình làm trong sạch tam nghiệp, ngộ nhập tri kiến, để được thanh tịnh và giải thoát.

Trong thế giới hữu hạn, không có cái gì, kể cả tâm lẫn vật, được tồn tại bất biến. Ngã (cái ta) được hình thành bởi năm uẩn, nhưng ngũ uẩn giai không, sinh diệt vô cùng. Ngũ uẩn được hình thành bởi duyên sinh, phụ thuộc vào tha lực để tạo nên cái tự ngã, như vậy ngã không có thực thể. Chúng ta có tồn tại hay mất đi, thì thế giới này vẫn cứ vận hành theo định luật như thật. Không ai có thể ngông cuồng, vô minh, phóng tưởng tự phong cho mình cái quyền lực bá chủ, có khả năng làm thay đổi chuyển hóa vận mệnh, áp đặt thế giới này tuân phục dưới một chủ thuyết đạo đoạn.

Một con người hoặc cả thế giới này được tồn tại hay mất đi, là do nghiệp lực của biệt nghiệp hay cộng nghiệp. Một cá nhân hay một tập thể tùy thuộc vào nghiệp thiện hay nghiệp ác đang tạo, sẽ được tái hiện bằng quy luật nhân quả, cá nhân hay tập thể đó sẽ được hưởng nhờ vào cái hậu quả đã tạo nhân.

Ngã được vô tâm nuôi dưỡng bởi tham lam ích kỷ, tự ái, thỏa mãn tham vọng, cố ý xem thường, dẫm đạp nhân tâm, cũng cố xây đắp trên cát lên đỉnh cao bao nhiên, thì đau khổ cũng được phát triển lớn dần lên theo cấp số nhân.

Quy luật vô thường tác động lên thời gian, gậm nhấm, bào mòn dần vũ lực, đến lúc đủ duyên lão hóa suy sụp thì hoang mang, dù chấp nhận hay không chấp nhận, tự thân vẫn cứ sụp đổ hoàn toàn.

Với tâm lượng từ bi vị tha chan hòa cuộc sống, vì hạnh phúc cá nhân và cộng đồng, ứng dụng tinh thần vô ngã tích cực, mạnh dạn dẹp cái tội vị kỷ, giác ngộ như thật, vị tha góp phần làm đẹp, xoa dịu phần nào cuộc đời vốn dĩ đã đa mang quá nhiều đau khổ ./-




THIỆN TRI THỨC GĐPTVN

THIỆN TRI THỨC GĐPTVN

“Chư Phật và Bồ tát có pháp giải thoát Bất tư nghì. Khi Bồ tát trụ nơi pháp, đem núi Tu Di (Sumeru) để vào trong một hột cải vẫn không dư không thiếu. Hình dạng núi Tu Di cũng không biến đổi, trời Tứ thiên vương và chư thiên cõi trời Ba mươi ba (Ðao Lợi) cũng không biết là mình vào trong đó. Chỉ những bậc Ứng hợp độ thế mới có thể biết rằng núi Tu Di đã được đem vào trong hạt cải. Ðó là pháp môn Bất tư nghì giải thoát”

“Bất tư nghì giải thoát”, pháp môn không hai, vượt thoát vô ngã, không còn suy tưởng

Không! Một trạng thái tỉnh thức, một tìm lực làm chuyển biến cả thế giới – chơn không diệu hữu

Không! Không phải là trống vắng hoàn toàn “ngoan không”. Những khái niệm về tâm lý, không có một hình thái tư hữu để hình thành một cái tôi riêng biệt. Những hiện tượng được phơi bày, là trò chơi phóng tưởng của “tánh không” – không tự ngã

Trong cái không vô cùng “chân không”, không phải là không có gì, bởi vì sự vật không thực tại, chứ không phải là không tồn tại, vẫn hiện hữu một tìm lực – một nguồn năng lượng vô biên, dù sinh ra – tồn tại hay mất đi, cũng chỉ là một chuyển thể đến vô cùng – duyên sinh

Đạo Phật xuất hiện từ một thực tại vô ngã, từ trạng thái hữu ngã vô minh – đoạn trừ phiền não, thể nhập biện chứng nhân bản, giác ngộ – ngã không – giải thoát. Có – không – còn – mất – hơn – thua, dù trong nguy khó là vậy, nội ma ngoại chướng vây bủa nghìn trùng, Người Huynh trưởng PT chứng nghiệm vô biên Phật pháp, phát nguyện vững vàng, gánh vát gian nan, an nhiên tĩnh tại vô úy đi tới, giữ vững tay chèo, cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, đưa con thuyền GĐPTVN cặp bến bình yên

Ngoài trí tuệ siêu việt, ngoài năng lực hiện thực, người Huynh Trưởng thiện tri thức, còn phải có tâm huyết thiết tha – nồng nhiệt. Với cái tâm hết lòng vì tổ chức mà phụng sự, mang lại một giá trị đích thực cho cuộc sống. Không thể có những Huynh trưởng bàng quang – hời hợt – cưỡi ngựa xem hoa, xem tổ chức GHĐPT chỉ là nơi chốn nương náu đoạn tháng – mua vui chốc đó – làm đà tiến thủ cá nhân vị kỉ

Người Huynh trưởng tri thức, là người có đầy đủ kiến thức về cuộc sống, không mụ mẫm trước niềm tin thiếu kiểm chứng. Vào đời với biết bao thao thức – khát khao đi tìm một định hướng sống mới mẽ thiết thực, thăng hoa tốt đẹp cuộc đời

Người thiện sĩ Huynh trưởng GĐPTVN, vững vàng trong thế đứng thẳng tắp, với tấm lòng vị tha bát ngát vào đời, vì tha nhân mà phụng sự. Chọn tuổi trẻ làm đối tượng để khai thị tuệ giác. Chọn nhân sinh làm nấc thang thăng tiến, kiến thiết một xã hội công bằng an lạc. Mỗi tham vọng – mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm từ dục vọng thấp hèn, từ hận thù nghi kỵ, từ ganh tị hơn thua, xô đẩy nhau đọa đày đau khổ

Người Huynh trưởng GĐPT biết nhóm lên ngọn lửa thương yêu, đem lại niềm tin yêu và vui sống cho mọi người, xua tan đi mê mờ kiến chấp

Người Huynh trưởng GĐPT, là người nghệ sĩ biết rung cảm trong từng mỗi suy tư, sáng tạo nên những công trình nghệ thuật vĩ đại, đáp ứng vẹn thỏa những khát khao thưởng thức nét đẹp tâm linh thanh thoát

Người Huynh trưởng GĐPT, là người biết dóng lên những hồi chuông tự tại ngân dài, như những đợt sóng hải triều âm, làm lắng xuống vạn lòng siêu thoát

Người Huynh trưởng GĐPT, là một chiến sĩ trên mặt trận tâm linh, một kỹ sư tâm hồn, một thiền sinh đang đối mặt trước thực tại vô minh – khai phóng tuệ giác. Phải luôn luôn nổ lực, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng GĐPTVN hướng về phía trước. Không lùi bước khi nhắm vào mục phiêu cứu cánh, không xuê xoa trước những sai trái đời thường, không chùn bước trước những xuyên tạc, những kẻ rắp tâm bẻ cong chân lý. Trên hành trình đi tìm lẽ sống, mỗi trở ngại – mỗi gian nan, đều có giá trị riêng của nó. Nếu đường đời mà bằng phẳng cả, thì khó mà đánh giá được giá trị – là vốn sống dài lâu

Hoa sen tinh khiết sinh trưởng trong bùn, từ bùn mà vươn lên, nhưng không bị bùn tanh làm ô nhiễm. Huynh trưởng GĐPT sống giữa lòng đời, nhưng tâm tư tĩnh tại. Từ tục đế mà vượt thoát lên trên dòng ngũ trược, mang theo hương sắc tinh khiết làm thơm đẹp cuộc đời ./-




Thân Cận Xứ

Thân Cận Xứ

Trong sinh hoạt GĐPT, chúng tôi được phân công làm công tác Lãnh đạo. Chúng tôi được tổ chức điều động trãi qua 4 đơn vị GĐPT – 4 ngôi Chùa.

Trong những thập niên 80 – ảnh hưởng một thời bao cấp lạc hậu – tối tăm – tồi tệ!

Chúng tôi đến đây, phố núi thưa thớt đìu hiu, cư dân nghèo nàn cơ cực. Với chiếc xe đạp cọc cạch chạy quanh khắp các ngã phố. Được người dân ở đây hướng dẫn, chúng tôi tìm đến, Chùa chỉ còn là một kho bãi. Tìm hiểu những vị cao niên, được cho biết:

Kể từ sau 1975, chùa không còn bóng dáng Tăng Già – người dân âu lo không dám đến Chùa. Nhà nước địa phương chiếm dụng, ngôi Chùa trở thành kho chứa hàng hợp tác xã mua bán.

Sau nhiều lần tới lui thăm viếng, vận động – động viên bà con địa phương xin lại ngôi tín ngưỡng. Trãi qua một thời gian dài nhọc nhằn – gian nan, cuối cùng cũng được toại nguyện.
Sau nhiều ngày thui thủi – tích cực dọn dẹp vệ sinh – lau sạch tượng Phật – hương trầm xông ngát – tiếng chuông chùa lại được ngân nga đầm ấm, như giục giã lòng người tục lụy, quên đi hư vinh, mau chóng quay về bờ giác.

Dưới ngọn đèn dầu tù mù – leo loét, tiếng chuông – tiếng mõ – tiếng kinh trầm lặng – lẽ loi – đơn độc, ê a gọi thức bao đêm. Rồi dần hồi cũng rung động – cảm ứng lòng người. Ban đầu là những trẻ em hiếu kỳ, rồi đến những người lớn tuổi. Được động viên – được phân tích nhân quả – thiện ác – tội phước, ai nấy đều hẹn nhau, hằng đêm về chùa lễ Phật – tịnh độ cầu kinh. Sau thời kinh, chúng tôi quây quần bên tách trà xanh đàm đạo – trao đổi Phật pháp, lâu dần thành nề nếp, không đêm nào thiếu vắng được. Những đêm thứ Bảy – Chủ Nhật, sau thời kinh tịnh độ, chúng tôi tập hợp các em lại, tập cho các em những bài hát sinh hoạt, kể cho các em nghe những mẫu chuyện đạo và sinh hoạt vài trò chơi nhỏ. Nhiều Bác đạo hữu thấy vui, cũng thích thú hòa mình tham gia.

Sau đại lễ Vu Lan Báo Hiếu được tổ chức hoành tráng, chúng tôi tập họp các em – tay trong tay, hát lại bài ca:

“Chúng ta là chim bốn phương bay về đây…

“Đây gia đình cùng nhau chung thân ái…”.

Để rồi năm sau, mùa Phật Đản về. Trước ngày Đại Lễ, chúng tôi mời quý Bác đạo hữu có uy tín trong làng, hình thành Ban Hộ Tự, thống nhất cử chúng tôi làm thư ký. Và tập hợp những Huynh trưởng – Đoàn sinh trước năm 75 có tham gia sinh hoạt GĐPT, hình thành Ban Huynh Trưởng, thống nhất cử chúng tôi làm Liên Đoàn Trưởng (mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi chưa qua bậc tu học nào – chưa qua trại huấn luyện nào và dĩ nhiên là cũng chưa có có cấp). Chúng tôi vận động các nhà hảo tâm tài trợ, cùng nhau thực hiện vườn Lâm Tỳ Ni – trang trí Lễ Đài rực rỡ. Tổ chức may cờ GĐPT – may áo lam. Gấp rút thực hiện một chương trình văn nghệ hoành tráng.

Trong ngày Đại Lễ Phật Đản Sinh – ngày trọng đại ra mắt GĐPT, trong niềm hoan hỷ vô biên, tất cả chúng tôi, gần 60 anh – chị – em đều đồng phục tề chỉnh, lá cờ nền xanh – Hoa sen trắng tung lượn phất phới. Một buổi lễ Đoàn được chính thức cử hành trang trọng trong xúc động tràn trề – nghẹn ngào nước mắt. GĐPT gần 20 năm bị chựng lại, giờ đây được tái sinh hoạt! Từ đó, chúng tôi đưa màu Áo Lam đi khắp các Chùa – đến các địa phương sinh hoạt – vận động tái sinh hoạt lại các đơn vị GĐPT.

Có lẽ các Anh – các Chị, trong mỗi chúng ta, ai nấy đều nhớ lại cái thuở ban đầu ấy!… Ai mà không ngậm ngùi rơi nước mắt khi nhìn thấy lại màu cờ – sắc áo thân thương, cứ ngỡ rằng đã bị vùi dập mai một với thời gian mưa sa – bảo táp. Trong khó khăn là vậy, ai nấy cũng ẩn nhẫn dùi mài ý chí, tự giác vận động tự thân vươn lên dưới mọi hình thức, để cho mầu cờ – sắc áo kỳ vĩ được sống mãi. Thế là chúng ta đã được sống – tự sinh – tự tồn…
Nhưng hôm nay thì sao ?

Một dấu hỏi to lớn đang được đặt ra, một công án thách đố ý chí mỗi Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPTVN!

Chúng ta đang đối mặt trước vô vàn khó khăn (lòng người tráo trở – khúc mắc), một thách thức lớn trước thời cuộc, một sa bàn của một trò chơi lớn đang được mở ra trước mắt, đòi hỏi mỗi tự thân phải có đủ năng lực huyền nhiệm, để kiến giải – chuyển hóa – định hướng đường về ?!…

Sau năm 1986, nhà nước VN mở cửa, mở rộng tầm mắt nhìn ra thế giới bên ngoài – kinh tế tư sản dần hồi phục hồi – phát triển.

Trong giai đoạn mở rộng lộ giới, mặt tiền Chùa bị thu hẹp. Chúng tôi tư vấn, Ban Hộ Tự và đồng bào Phật tử địa phương nhất trí ủng hộ, đất Chùa được chia lô – sang nhượng lại. Nhờ nguồn tài chánh này, chúng tôi chọn mua một đồi cây bên ngoài khu dân cư và tiến hành xây dựng Chùa mới. Ai nấy đều than thở: Chùa nằm giữa khu phố – đông dân cư, còn ít người lui tới, bây giờ dời Chùa xa khu dân cư, lại ở trên đồi cao, không biết có còn ai đến Chùa ? Chúng tôi hết lòng – tùy duyên trấn an, mọi người ai nấy phần nào nguôi ngoai.

Đến ngày khởi công, GĐPT nhận nhiệm vụ san mặt bằng – đào móng – mở đường – trồng cây tạo cảnh quang. Chúng tôi và Ban Hộ Tự chia nhau đi khắp các thôn – xóm, vận động đồng bào Phật tử, chia thành nhiều đội – nhiều tổ – xoay vòng – tham gia – nhiệt tình công quả. Gần một năm nhọc nhằn – gian khổ trôi qua, ngôi Chùa dần hồi được hình thành – trang nghiêm – thanh tĩnh – đẹp đẽ.

Có lẽ như là duyên định. Sau khi xây dựng Chùa xong, chánh quyền địa phương quy hoạch: Một một công viên – một ngôi chợ mới được mọc ngay dưới chân đồi – phố thị mở ra rộng rãi – đường xá thênh thang – dân cư đông đúc – nhà cửa mọc lên như nấm bao quanh chân đồi. Chúng tôi thường hay nói vui với nhau: Chùa tuy xa mà gần – tuy động mà tịnh. Vì chùa thì ở trên đồi, núp mình dưới những tán lá cây xanh yên tĩnh, còn chợ và khu dân cư tấp nập – náo nhiệt thì ở dưới chân đồi.

Được Thầy Chánh Đại Diện thị hội (lúc bấy giờ cấp huyện – thị chưa có danh hiệu Ban Trị Sự) giới thiệu 1 Thầy thanh tu ẩn cư. Sau 3 lần phái đoàn chúng tôi đến tư am đảnh lễ – thiết tha – thành tâm cung thỉnh, Thầy mới nhận lời – chấp thuận về Trụ trì.

Thực hiện mô hình cơ cấu tổ chức GHPGVNTN. Sau khi trình bày – thỉnh ý, được Thầy thống nhất. Chúng tôi tập họp quý đạo hữu có uy tín, đại diện các thôn – xóm, hình thành các Chúng – Vức cư sĩ Phật tử theo từng khu phố – mỗi khu dân cư. Hưởng ứng cuộc vận động, nhận thấy quyền lợi thích đáng khi tham gia Đạo tràng. Đồng bào Phật tử truyền tai nhau: Nếu không vào Đạo tràng – không về chùa, khi gia đình riêng gặp hữu sự, thì không ai quan tâm – không đến tương trợ – không được giúp đỡ. Thế là, ngoại trừ người theo đạo Thiên Chúa Giáo. Từ những hộ gia đình đã quy y cho đến những hộ gia đình chưa quy y – chưa từng đến Chùa, ai nấy đều lũ lượt – tấp nập đổ dồn về Chùa – nhiệt thành đăng ký tham gia Đạo tràng – Tham gia các Lễ Quy Y. Kể từ đó, những đêm tịnh độ không dưới trăm Phật tử. Chưa nói đến các ngày lễ trọng, chỉ nói đến các ngày Lễ Sám Hối hàng tháng, đồng bào Phật tử về Chùa đông đảo – nườm nượp, chánh điện lớn như vậy mà không đủ sức chứa, phải đứng tràn ra ngoài sân – chung quanh Chùa, hàng hàng lớp lớp nghiêm trang chấp tay – hướng về Đại Hùng Bảo Điện – tâm thành – niệm kinh – làm lễ.

Chúng – Vức nhiều, Đạo tràng đông đảo thì GĐPT cũng khởi sắc. Số lượng Đoàn sinh tham gia sinh hoạt bình thường hàng tuần lên trên 500 – những ngày lễ – ngày trại thì tập trung quá tải. Nhờ đất vườn chung quanh Chùa rộng rãi – thoáng mát, được chia thành nhiều khu vực cho mỗi Đoàn. Lều trại – cổng trại từng Đàn – Đội – Chúng (Nam – Nữ riêng biệt), được dựng dưới những tàng cây rợp mát, cờ xí – đèn hoa giăng đầy – trang trí rực rỡ như từng khu phố thu hẹp, làm khởi sắc – huy hoàng ngày lễ. Những buổi chiều Chủ Nhật sinh hoạt – hoặc các ngày trại lễ, GĐPT đều được quý Cô – Bác đạo hữu thương yêu – ưu ái dành cho bánh trái – những thùng nước chanh – tắc – hoặc sắn dây giải khát và tổ chức những buổi cơm chay đầy đủ – suốt thời gian GĐPT ở lại Chùa.

Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT, ai nấy đều xem Chùa là ngôi nhà thứ 2 – là mái ấm thân yêu của mình, hằng ngày, không hẹn mà lên, ai nấy đều dành thời gian rảnh rỗi lên Chùa công quả, chia nhau dọn dẹp vệ sinh, xới đất trồng rau, tưới cây, chăm sóc vườn hoa – cây cảnh, trồng thêm cây xanh.

Sau khi ổn định cơ cấu tổ chức, chúng tôi tư vấn, được Thầy đồng ý. Dưới sự hướng dẫn của Thầy, chúng tôi tiến hành tổ chức – điều hành các khóa Tu Bát Quan Trai và thực tập quán niệm hơi thở – hướng dẫn tu học Phật pháp trong 1 ngày – 1 đêm, mỗi tháng 2 lần vào các ngày 14 – Rằm và 30 – Mồng Một hàng tháng. Số lượng cư sĩ Phật tử tham gia mỗi khóa tu giao động trên 7 – 8 trăm người. Ngoài số Huynh trưởng – Đoàn sinh tham gia khóa tu, các chị Ngành Thanh lớn tuổi nhận nhiệm vụ Trai soạn (nấu ăn), các em Ngành Thanh tuổi trẻ tham gia Hành đường.

Các ngày lễ trọng trong năm: Tết Nguyên Đán – Phật Đản – Vu Lan – Giỗ Tổ khai sơn (chùa cũ) – Trai Tăng – Trai Đàn Chẩn Tế, Thầy là Trưởng Ban – anh Liên Đoàn Trưởng là Phó ban điều hành Tổ Chức, tất cả Huynh trưởng và Đoàn sinh – cùng đạo hữu bổn tự tham gia trong các Tiểu Ban – Ban Tổ Chức. Trong suốt thời gian trước và sau tổ chức Lễ, GĐPT tích cức phục vụ hoàn thành các phật sự được giao. Sau khi đồng bào Phật tử thập phương trai phạn xong, thì GĐPT mới cùng Thầy thọ trai, những buổi thọ trại này, lần nào cũng vậy, đều được nhà trù – ban trai soạn thiết đãi đặc biệt ngon hơn.

GĐPT là cánh tay đắc lực, luôn luôn sát cánh cùng Thầy trong mọi hoạt động của Chùa. Mỗi lần Thầy cần – chùa có hữu sự, là GĐPT sẵn sàng có mặt. Cho nên GĐPT luôn luôn được Thầy yêu thương – cư sĩ Phật tử quý mến. Mỗi lần GĐPT tổ chức cứu trợ, tổ chức trợ cấp học bổng cho học sinh là Đoàn sinh nghèo, tổ chức các sinh hoạt quan trọng – hay đi sinh hoạt – phật sự xa, chúng tôi vào thưa trình, được Thầy hoan hỷ mở hầu bao trợ cấp, được quý Bác đạo hữu – mạnh thường quân vui vẻ ủng hộ. Mỗi lần Ban Tổ Chức Hội Chợ địa phương, mời GĐPT tham gia tổ chức các gian hàng trò chơi, hoặc GĐPT tổ chức Hội Hoa Xuân tại Chùa – gian hàng trò chơi – lô tô hoặc xổ số nhận thưởng, đều được quý đạo hữu mạnh thường quân, chủ các cửa hàng hoan hỷ – sẵn sàng – tích cực đưa các mặt hàng hóa đến từng gian hàng để hỗ trợ, qua Lễ Hội mới thanh toán – nếu hàng còn tồn đọng, vẫn vui vẽ nhận lại. Qua đây cho thấy, muốn tổ chức một ngôi chùa mạnh – một GĐPT mạnh, thiết nghĩ không khó. Với tinh thần Thân Cận Xứ – với tấm lòng vị tha cao cả – với tâm Bồ đề kiên cố, với lý tưởng son sắc, biết găn bó – hy sinh cá nhân, biết tổ chức –- biết tập hợp, có kế hoạch – có ý chí – sẵn sàng gánh vác gian nan, thì việc gì cũng làm nên – kết quả thành toàn viên mãn .

Trong giai đoạn khủng hoảng – tranh tối tranh sáng, một vài anh chị em quay lưng, Phân ban GĐPT thọc sâu tạo mâu thuẩn chia rẽ nội bộ, đa số Đoàn sinh bi lôi kéo sang Chùa tỉnh hội sinh hoạt Phân ban. BHD điều động chúng tôi về đây.

Quan điểm của chúng tôi, khi đi đến bất cứ nơi đâu, bất cứ ngôi Chùa nào. Muốn phát triển một đơn vị GĐPT, điều tiên quyết là phải thực hiện tinh thần “THÂN CẬN XỨ”, phải tiếp cận chư tôn đức tại trú xứ – tạo sự tín nhiệm ở quý Thầy. Thầy thương – thầy mến, thầy xem chúng ta là một phần thân thể vốn có – không thể thiếu, mọi tổ chức – hoạt động – sinh hoạt của Chùa – Thầy đều cần đến sự có mặt trợ duyên của chúng ta.

Vào năm 1996, chúng tôi về đây, chùa Đạt Ma – thành phố Phan Thiết – Bình Thuận. Với tâm nguyện phụng sự tổ chức Áo Lam – phụng sự Đạo pháp – phụng sự dân tộc. Trên chiếc xe 4 chỗ quá date – cũ mèm, đã cọc cạch đưaThầy trò chúng tôi lủi thủi đi đến các Chùa, trong các thành phố – thị xã – huyện – xã trong tỉnh, vận động chư tôn đức Tăng – Ni để hình thành Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận. Sau khi được chư tôn đức hứa khả, thống nhất cử chúng tôi làm Thư Ký Ban Đại Diện. Hòa thượng Trưởng Ban tiến hành tập hợp tổ chức các phiên họp hàng tháng. Đa số chư tôn đức Tăng – Ni và cư sĩ Phật tử tham gia BĐD lúc bấy giờ, hiện nay vẫn còn đó, tấm lòng trung trinh vẫn luôn luôn hướng về

Trên chuyến xe bôn ba đây đó, có lần Thầy cho xe ghé lại tư gia chúng tôi. Bà xã chúng tôi lăng xăng cúng dường nước và bánh – trái mời Thầy thọ thực. Thầy ngỏ lời động viên:

  • Anh Nguyên Hoàng (pháp danh chúng tôi) tham gia nhiều phật sự, thường xuyên đi cùng Thầy. Cô hoan hỷ để cho anh đi làm việc Phật. Anh Nguyên Hoàng làm việc Phật là lập hạnh Bồ Tát. Nhưng cô mới là một vị Bồ Tát tại gia đáng quý, nhờ cô ủng hộ – hoan hỷ giúp đỡ mọi điều kiệu và cô ở nhà tận tụy lo toan gánh vác mọi công việc gia đình, để cho anh Nguyên Hoàng an tậm đi theo Thầy làm tròn phật sự !

Bà xã tôi chấp tay cung kính Mô Phật – y giáo – đảnh lễ Thầy.

Ở đây, không như các vùng nông thôn hay huyện – thị, mỗi địa phương có một ngôi Chùa. Chùa ở đây nằm trong lòng thành phố. Trong thành phố có rất nhiều ngôi Chùa, mỗi phường cũng có vài Chùa. Người cư sĩ Phật tử ở đây về Chùa tùy thích, mỗi nhóm cư sĩ Phật tử ở mỗi phường khác nhau, mến – thích Thầy nào là về Chùa đó, không có ranh giới – mà liên kết với nhau dưới dạng da beo – không tập trung. Chúng tôi nhận thấy tổ chức loại hình chúng – vức cư sĩ Phật tử khó thực hiện được.

Chúng tôi quay ra – hằng tháng tổ chức khóa tu Bát Quan Trại kết hợp tu Chánh Niệm (quán niệm hơi thở) – thọ trai dưới hình thức khất thực (tự chọn).

Thời gian đầu, giới tử tham gia khóa tu vài chục cư sĩ Phật tử thường xuyên về chùa tịnh độ hằng đêm. Có lẽ do tiếng lành đồn xa, có lẽ hình thức tu tập mới lạ tại địa phương, có lẽ do quá trình thực tập có kết quả an lạc thực tại trong đời sống. Cư sĩ Phật tử ở các Chùa khác trong thành phố đổ dồn về tham gia tu tập, mỗi khóa tu có số lượng lên đến 7 – 8 trăm người.

Trong thời điểm đó, tôi có nghe quý vị cư sĩ Phật tử thân quen nói lại, Hòa thượng Trưởng ban Trị Sự Phật Giảo tỉnh nói:

  • Ông HT về đây thu hút hết Phật tử Chùa tỉnh hội và các Chùa khác trong thành phố.

Về phía chánh quyền gọi chúng tôi là: Nhà hoạt động tộn giáo từ đó.

Trong những khóa tu, tiếp xúc với chúng tôi, nhận thấy có nhiều thành phần xã hội, từ những anh – những bác cư sĩ Phật tử trong giới xe xích lô – xe ba bánh, đến các em học sinh cấp 2 – cấp 3 – sinh viên, có những vị cư sĩ Phật tử là giáo viên – kỹ sư – bác sĩ – thương gia V.v… mỗi người đều thể hiện tự thân tỉnh thức – nhiệt thành tham gia khóa tu. Sau mỗi năm, chúng tôi tổ chức tổng kết mãn khóa dưới hình thức truyền đăng mới lạ – hấp dẫn, mỗi người ai nấy đều nhận lại một cuốn sổ ghi nhận kết quả tu học – thực tập trong năm, làm cho giới tử ai nấy đều nhiệt thành – phấn khởi – thích thú.

Hằng năm, sau lễ Vu Lan, kết hợp cùng Thầy viện chủ tổ chức Đại lễ cúng dường Trai Tăng. Hình thành một Ban Tổ Chức khá quy mô – đầy đủ ban bệ. Tiến hành vận động tài chánh – vật thực, dự trù trên 5 ngàn phần ăn – trong đó có phát chẩn bố thí cho người dân nghèo. Chúng tôi tham gia cùng Thầy – đi khắp các Chùa trong thành phố và các huyện, đảnh lễ cung thỉnh đủ 100 chư Tăng về dự. Và tại buổi lễ này hàng ngàn đồng bào Phật tử trong thành phố về dự lễ – cúng dường và thọ trại. Nhờ kết quả các khóa tu, chúng tôi tiến hành vận động phụ huynh cho con em về tham gia sinh hoạt GĐPT.

Trong quá trình sinh hoạt, chúng tôi tổ chức mỗi Đoàn có từ 2 đến 3 Đoàn Phó (ĐP), chúng tội tận dùng cử làm ĐP các em đang học từ lớp 9 trở lên. Em đang học lớp 9 được cử vào làm ĐP, được chúng tôi bồi dưỡng – thực tập, đến năm lớp 10 các em đã quen dần – biết cách điều hành và hướng dẫn, đến năm học lớp 11 thì các em đã hoàn chỉnh. Khi em đang học lớp 12, đang là Đoàn Trưởng (ĐT), em này tốt nghiệp 12, đi Sài Gòn vào Đại học, thì em đang học lớp 11 lên thay làm ĐT và cứ phải bổ xung như thế để có nhân sự liên tục xoay vòng.

Có một câu chuyện rất hài lòng – đáng nhớ:

Có lần, trong một buổi sinh hoạt, sau giờ học Phật pháp, mỗi Đoàn tách ra sinh hoạt riêng và Đội – Chúng sinh hoạt tự trị.

Chúng tôi vòng tay sau lưng, lững thững đi quanh các Đoàn xem tình hình sinh hoạt. Chúng tôi vừa bước đến phòng của Đoàn Thiếu Nữ đang sinh hoạt, em Đoàn Trưởng – Đoàn Thiếu Nữ bước ra, đi song song bên tôi em nói:

  • Anh HT thấy không, em bây giờ cũng vòng tay sau lưng, và đi lòng vòng cũng giống như anh.

Tôi dừng lại, ngạc nhiên nhìn em, như chợt hiểu ra – tôi bật cười sảng khoái !

Chúng tôi bước trở lại phòng Đoàn Thiếu Nữ đang sinh hoạt, đứng ngoài khung kính nhìn vào, thấy khung cảnh sinh hoạt trật tự – nền nếp. Em Đoàn Trưởng giới thiệu:

  • Các bạn đang thực tập môn nữ công.

Tôi nhìn thấy các em, trên tay mỗi em đang cầm 1 khung thêu, mỗi khung căng 1 mảnh vải trắng, trong đó có lẽ là những cánh hoa sen đang thêu dang dỡ. Em Chúng Trưởng đang đi đến từng bạn, tay chỉ vào khung thêu hướng dẫn. Chúng tôi nhìn sang các Chúng khác ở mỗi góc phòng, thấy mỗi Chúng, Chúng nào Chúng nấy cũng trình tự sinh hoạt y như vậy.

Sau những năm tháng tâm huyết tận tình hướng dẫn, em nỗ lực tu học – rèn luyện – thực tập. Em bây giờ đã được trưởng thành – xứng đáng là một Đoàn Trưởng. Đây là kết quả truyền trao, chúng tôi cảm thấy sung sướng – hoan hỷ vô cùng.

Mỗi tuần sinh hoạt, chúng tôi tổ chức luân phiên mỗi Đoàn trực 1 lần, Đoàn trưởng trực tuần đó, chúng tôi ủy quyền Xử lý Liên Đoàn Trưởng. Các Anh – Chị điều hành từ A đến Z tất cả mọi sinh hoạt của đơn vị trong tuần trực. Nhờ vậy mà Đoàn trưởng nào cũng vững vàng – đủ năng lực quán xuyến tất cả. Mỗi khi có phật sự phải đi xa, chúng tôi rất yên tâm, không phải bận bịu – lo lắng.

Mỗi dịp Đại Lễ Phật Đản – Vu Lan, GĐPT đều tổ chức đêm văn nghệ cúng dường. Trước đây, mỗi lần tổ chức văn nghệ đều thực hiện trước tiền đường Chùa, phục vụ nội bộ. Khi chúng tôi về đây, chúng tôi xin phép Thầy cho dựng sân khấu lộ thiên ngoài mặt tiền Chùa – bên đường nhựa – giữa khu phố đông đúc dân cư. Nhờ đó, đêm văn nghệ thu hút hằng ngàn quần chúng tham dự, đứng tràn lan đầy đường – trên hè phố, làm cho nguồn thu lớn lao vô cùng.

Hằng năm chúng tôi đều tổ chức lễ Chu Niên đơn vị. Cứ 1 năm thì tổ chức nội bộ – trong đơn vị – trong phạm vi Chùa, 1 năm thì tổ chức rộng rãi, mời tất cả các đơn vị GĐPT trong toàn tỉnh về tham dự. Năm nào tổ chức rộng rãi, thì chúng tôi lo lắng chu toàn hơn. Chúng tôi hình thành 1 Ban Tổ Chức quy mô lớn, đầy đủ các ban bệ phục vụ. Khi tổ chức lớn, thì yêu cầu phải có nguồn tài chánh lớn để chi phí các mặt tổ chức, trong đó nguồn chi phí cho ẩm thực là lớn nhất. Nhờ vào đạo tràng khóa tu cư sĩ Phật tử nhiệt tâm ủng hộ và tham gia hỗ trợ các mặt, cho nên tổ chức năm nào cũng thành công viên mãn.

Lễ Chu Niên, trong vườn dừa rộng rãi, chúng tôi tổ chức chia ra nhiều khu vực trại: Trại trung tâm, khu vực mỗi Đoàn Nam – Nữ riêng biệt. Trước khu vực trại mỗi Đoàn có 1 cổng trại, có giây găng chung quanh làm hàng rào, chia ranh giới. Trước mỗi lều Đàn – Đội – Chúng đều có 1 cổng trại – trong mỗi lều đều có thiết trí 1 bàn Phật trang nghiêm, hoa – quả đầy đủ.

Có một phòng triển lãm, được chia ra làm nhiều khu vực trưng bày sức sống của Đơn vị – của mỗi Đoàn – mỗi Đàn – Đội – Chúng. Trước đó, các ngày Chủ Nhật, dưới sự hướng dẫn của Đoàn trưởng, các em Đoàn sinh tập trung về Chùa, khẩn trương thực hiện các sản phẩm để trưng bày triển lãm.

Dễ thương nhất là các em Oanh Vũ, Nam có – Nữ có, với bàn tay nhỏ nhắn – xinh xắn, các em đã cặm cụi – chăm chỉ làm ra những sản phẩm theo ý tưởng của riêng mình đã tu học được.
Đêm văn nghệ Chu Niên, chiều hôm đó mưa bay lất phất. Anh Đoàn Trưởng – Đoàn Thiếu Nam phụ trách sân khấu, vào thưa với chúng tôi, cho phép các anh chuyển sân khấu vào trước tiền đường Chùa, lúc ấy chúng tôi đang tiếp chuyện với chị Phó Trưởng Ban Ngành Nữ Ban Hướng Dẫn. Được sự đồng ý, toàn thể Nam Huynh trưởng và Đoàn sinh túa ra, mỗi người 1 tay chuyển sân khấu vào tiền đường. Sau khi anh ĐT bước ra, Chị PTB nhắc nhở chúng tôi:

  • Tại sao anh không ra hướng dẫn cho anh em làm, mà lại để cho AE tự làm có được không vậy ? Tôi nói với Chị:
  • Thưa Chị ! AE tự chủ làm rất tốt. Em xin đưa chị ra xem.

Khi chúng tôi đưa chị đến tiền đường, thấy sân khấu được thiết trí lại, đâu vào đó rất đẹp đẽ. Chị nhận xét – khen:

  • Tôi nhận thấy, Anh hướng dẫn – điều hành đơn vị, tổ chức các mặt sinh hoạt – các hoạt động rất tốt.

Trong quá trình vận động tái sinh hoạt, có 1 em Đoàn sinh Thiếu Nữ. Gia đình em theo Thiên Chúa Giáo, nhưng em xin gia nhập GĐPT. Gia đình em không đồng ý, mỗi ngày Chủ Nhật sinh hoạt, bằng mọi cách, em trốn tránh gia đình để vđến Chùa sinh hoạt. Có lần mẹ em đến Chùa gặp chúng tôi, nói rõ trường hợp và ý kiến của gia đình. Sau khi nghe chúng tôi trình bày tường tận về mục đích hướng thiện con người của tổ chức GĐPT. Bà gọi em vào, nghe ý kiến quyết tâm của em, bà đành nhượng bộ đồng ý, và xin chúng tôi cho gửi gắm con em sinh hoạt GĐPT.

Còn có một em Đoàn sinh Thiếu Nữ, gia đình em từ miền Bắc chuyển vào, cả cha – mẹ đều là đảng viên – cán bộ cấp tỉnh. Mỗi lần đi sinh hoạt, em luôn luôn bị cha – mẹ ngăn cấm, không cho em sinh hoạt GĐPT. Em đến Chùa khóc nấc nở, các bạn đưa em vào Đoàn quán gặp chúng tôi, chúng tôi trấn an, hứa hẹn với em sẽ đến tư gia gặp cha – mẹ em. Được các em Đoàn sinh hướng dẫn, tôi vào nhà gặp cha – mẹ em. Có lẽ như biết trước mục đích, sau khi mời uống nước, 2 ông bà im lặng nhìn chúng tôi. Chúng tôi tình cảm chân thành, trình bày mục đích hướng thiện cao cả của tổ chức GĐPT, và cũng nhằm mục đích góp phần cống hiến hiền tài cho đất nước. Sau khi nghe chúng tôi trao đổi, 2 ông bà im lặng, có lẽ đang suy ngẫm. Ông lên tiếng:

  • Chúng tôi là đảng viên, gia đình không có tín ngưỡng tôn giáo. Từ trước đến nay, chúng tôi chưa từng nghe ai phân tích tỉ mỉ về tinh thần Phật Giáo và đủ sức thuyết phục như anh.

Qua lời trình bày của anh, chúng tôi đã nhận thấy được sự lợi ích thiết thực của Phật Giáo.

Chúng tôi đồng ý cho cháu tham gia vào GĐPT. Chúng tôi tin tưởng gửi cháu cho các anh, kính mong các anh quan tâm thay gia đình dạy dỗ cháu nên người !

Hai ông bà vui vẻ bắt tay, tiễn đưa chúng tôi ra đến tận cổng.

Hàng tháng, cứ đến kỳ Lễ Sám và các dịp Lễ Phật Đản – Vu Lan, chúng tôi đều thấy 2 ông bà thường xuyên đưa các con của mình lên Chùa tham dự lễ. Những kỳ họp phụ huynh và vào dịp Lễ Chu Niên hằng năm, nhận được thừ mời, 2 ông bà cũng đến đơn vị để dự lễ.

Sau khi ổn định sinh hoạt đơn vị GĐPT, chúng tôi tiến hành vận động thành lập Ban Đại Diện GĐPT liên huyện – thành phố. Chúng tôi được tập thể cử làm nhiệm vụ thư ký.

Hai anh Trưởng và Phó BĐD, có anh sinh hoạt trước 1975 có anh anh mới sinh hoạt sau này. Có lẽ vì lớn tuổi, cho nên hiểu biết về tổ chức không nhiều. Mỗi lần chúng tôi lên đề án tổ chức sinh hoạt, vì muốn được việc – đạt kế hoạch trong năm, với chiếc Vetba cà tàng, chúng tôi phải đến tận tư gia từng anh để tư vấn – xin ý kiến cụ thể, sau khi được thống nhất, mới tổ chức phiên họp trển khai phật sự, thành lập Ban Tổ Chức – Ban Quản Trại V.v….

Những năm tháng ở đây, chúng tôi cùng nhau kết hợp các đơn vị GĐPT, tổ chức nhiều khóa tu học các bậc học, tổ chức Trại Dũng, Trại Hạnh, trại dã ngoại vượt núi cao, trại huấn luyện Tuyết Sơn – Đầu – Thứ Đàn, Trại huấn luyện A Nô Ma – Ni Liên Đội – Chúng Trưởng, và Trại huấn luyện Huynh trưởng sơ cấp Lộc Uyển …

Năm 2004, chúng tôi được Ban Hướng Dẫn chuyển sinh hoạt về đây, chùa Huyền Long – thị xa Lagi – Bình Thuận. Chúng tôi được mời vào làm thư ký Ban Hộ Tự. Khi đến đây, đơn vị GĐPT Khánh Long sinh hoạt lèo tèo vài mươi Đoàn sinh. Do hiểu biết cách tổ chức mà Chư Tôn Đức trước năm 1975 đã chỉ dạy, và chúng tôi đã thực hiện thành công tại một số địa phương. Căn cứ địa giới hành chánh địa phương, chúng tôi chia thành 13 khu dân cư Chúng Cư sĩ Phật tử.

Chúng tôi mới tiến hành thành lập được 2 chúng Cư sĩ Phật tử, đồng bào Phật tử địa phương nô nức về chùa. Mỗi buổi Lễ Sám, ngôi chánh điện lớn như vậy mà không đủ sức chứa, người dân phải đứng tràn ra ngoài sân – chung quanh chùa, chúng tôi hướng dẫn qua loa, mọi người nghiêm trang chấp tay, hướng vào Đại hùng Bảo điện làm lễ.

Hằng tháng chúng tôi tổ chức các khóa tu Chánh Niệm, số lượng Giới tử tham gia thường kỳ lên đến 7, 8 trăm người. Có lần chúng tôi tổ chức Lễ Phóng Sanh Đăng, dự kiến làm 1 ngàn cây đèn hoa. Nhưng khi đến giờ làm lễ, hàng ngàn người dân cả làng đổ xô về chùa. Chúng tôi thông báo trên loa phóng thanh, đồng bào tự động vào các quán bán tạp hóa bên đường, mỗi người tự mua cho mình 1 cây đèn nến cầm tay, có người trên tay không có đèn nến, vì không còn có quán nào còn nến để bán. Số lượng người quá tải, Ban Tổ Chức bó tay không còn xắp xếp được theo từng hàng quy định, người dân đi – đứng tràn lan hết cả con đường to lớn. Đoàn dẫn đầu đã đến cửa biển, cách xa hơn 2 ngàn met, mà cái đuôi vẫn còn ở trước cổng chùa và số lượng người vẫn còn kẹt 2 bên lề đường chưa nhập đươc vào đoàn. Nhận được thông tin, an ninh tỉnh vào gặp chúng tôi, được chúng tôi trấn an, cuộc lễ Phóng Sanh Đăng vẫn trình tự diễn ra tốt đẹp.

Đạo hữu đông thì GĐPT cũng đông, số lượng Đoàn sinh lúc bấy giờ tăng lên trên 2 trăm 5 mươi ĐS. Nếu chúng tôi tiếp tục tiến hành hình thành đủ 13 chúng Cư sĩ Phật tử, thì thử hình dung, số lương Đoàn sinh tăng lên biết bao kể xiết. Sau khi rời quê hương ra đi xuất cảnh, khi chúng tôi trở về lại, nhìn thấy chùa đìu hiu, đạo tràng tu chánh niệm không còn hoạt động, GĐPT rơi rớt còn lại vài chục em. Như vậy thì đủ biết rằng, người H.Tr được giao lại, không đủ khả năng – không điều hành được tổ chức (nhân chứng sống vẫn còn đó).

Tôi tiếp xúc Ban Huynh Trưởng, thì được nghe nói, Sư Cô tham quyền, nhận chức Phó Ban Trị Sự thị xã, nghe lời giáo hội – nghe lời chánh quyền, nhiều lúc Sư Cô đóng cửa chùa, không cho GĐPT vào chánh điện làm lễ, không cho tổ chức trại – không cho tổ chức văn nghệ vào các dịp lễ tại chùa.

Sau thời gian rời chùa, chúng tôi về lại, tham gia đạo tràng – tịnh độ hằng đêm, hy vọng tiến hành kế hoạch sắp đến. Qua tiếp xúc gần gũi, qua những lần thầy trò tâm sự, Sư Cô cho biết:

  • Sư Cô rất thương mến GĐPT. Như thời gian qua Chú về lại chùa, Chú Nguyên Hoàng đã thấy rồi đó, những buổi về chùa sinh hoạt, Ban Huynh Trưởng xem quý Chư Ni như người xa lạ, có bao giờ vào gặp gỡ – chào hỏi – trao đổi thân tình.

Có lẽ Ban Huynh Trưởng thiếu tinh thần Thân Cận Xứ, nên các em GĐPT đành phải mất trắng – lủi thủi mồ côi.

Trước tình hình GĐPT tại đây èo uột – thiếu sức sống, Phân ban GĐPT xâm nhập lấn áp phá rối. Năm 2010, Ban Hướng Dẫn điều động chúng tôi về đây GĐPT Khánh Hiệp, thị xã Lagi, Bình Thuận củng cố lại đơn vị. Sau khi anh Liên Đoàn Trưởng từ trần, tôi tiếp nhận một đơn vị sinh hoạt lèo tèo chỉ có hơn 10 em. Chúng tôi cố gắng củng cố phục hồi sinh hoạt lên dần 5, 6 chục em. Trước đây, vào các ngày lễ, nhà bếp không cho các em ăn cơm, các buổi chiều Chủ nhật sinh hoạt, không cho các em vào uống nước. Thầy không thường xuyên ở chùa, Ban Hộ Tự lấn át, đạo tràng tách ra riêng tư. Chùa mất đoàn kết, chia ra làm 2, 3 phe nhóm. Khi chúng tôi về đây thì khác, hằng đêm tôi về chùa, các đạo hữu Nam trí thức dần hồi về chùa lại, trong đó có cả giáo viên, có đêm lên đến trên 20 người, cùng nhau uống trà đàm đạo – hướng dẫn Thiền tập. Có lúc vì lý do công việc, chúng tôi vắng đến chùa, thì chùa trở lại vắng teo. Có đêm tôi về lại chùa, thì Bác Ban Hộ Tự vội vàng nhấc máy gọi báo từng người một: Có anh Tâm về chùa, mau mau gọi nhau lên chùa. Thế là anh em lần lược lại về chùa, làm cho không khí ngôi chùa rộn rã – vui tươi hẵn lên. Chúng tôi gắn kết các nhóm lại với nhau, tuy bằng mặt – nhưng không bằng lòng. Còn GĐPT thì được quý bác ưu ái thương yêu. Các ngày lễ, GĐPT được ưu tiên hai dãy bàn dài đầy ắp thức ăn – thức uống đặc biệt, các ngày chủ nhật sinh hoạt, quà bánh – nước giải khát được quý cô trong đạo tràng gửi đến ăn – uống thừa mứa.

Vì Thầy không thường xuyên có mặt ở chùa, chúng tôi không trình bày được kế hoạch – thống nhất thực hiện chúng – vức cư sĩ Phật tử. Chúng tôi lên kế hoạch phát triển đơn vị. Chúng tôi xuống tận dưới làng, vận động bà con về chùa. Chúng tôi gặp quý Bác đạo hữu, trong đó có Huynh trưởng và Đoàn sinh kỳ cựu trước đây. Trước đây vì tranh chấp ảnh hưởng hơn thua, bị Ban Hộ Tự đương nhiệm đang nắm quyền hành trong tay, cấn cái – xem thường – ruồng rẫy đẩy đuổi ra khỏi chùa. Các Bác và các Huynh trưởng – Đoàn sinh kỳ cựu, đề nghị chúng tôi thành lập Ngành Thanh, họ sẽ kẻo cả dân làng về hết gia nhập GĐPT, còn con em thì tùy vào lứa tuổi mà vào các Đoàn. Hởi ôi ! Nếu tôi mà đồng ý, thì chùa trở thành một bãi chiến trường, đấu tranh khốc liệt, một còn – một mất.

Vào dịp lễ Phật Đản, Thầy mời họp để phân công phụ trách ngày lễ. Oái oăm thay, Thầy không giao cho các Bác Ban Hộ Tự, mà đề nghị thẳng chúng tôi thủ chương trình, tôi vô tình nhận điều hành buổi lễ. Ngờ đâu vì tự ái, bị Thầy xem thường, nghĩ rằng tôi hớt tay trên, làm danh dự mấy bác mất mặt. Một cuộc chiến tranh lạnh âm thầm diễn ra. Vì bảo vệ tôi, đạo tràng lại tách ra, đấu võ mồm tay đôi với nhau kịch liệt. Chúng tôi vào đề nghị Thầy chủ trì xử lý vụ việc, nhưng thầy lúng túng, không biết phải ngã về bên nào. Vì mong muốn để cho Thầy được yên tĩnh, vì mong muốn để cho ngôi chùa được êm ấm, chúng tôi đành phải chấp nhận lui về. Còn ở đó thì 2 phe cứ tranh chấp với nhau diễn ra âm ỉ mãi mãi. Còn một phe ở dưới làng, thì âm thầm chực chờ thời cơ bộc phát ./-




TƯ TƯỞNG DUY MA CẬT

TƯ TƯỞNG DUY MA CẬT
ĐẠI BIỂU LÝ TƯỞNG CHO GIỚI CƯ SĨ PHẬT TỬ TẠI GIA

Kinh Duy Ma Cật, được mang tên trưởng giả Duy Ma Cật, một cư sĩ giàu có, sống cuộc đời thế tục, nhưng vẫn đi lên trên con đường Bồ tát hạnh. Từ mười điều phi pháp, dẫn đến ngã rẽ các bộ phái Phật giáo tại thành Tỳ Xá Ly, Kinh Duy Ma Cật đã có mặt sớm nhất, nhằm mục đích phát triển đại thừa. Kinh Duy Ma Cật là cái nôi kiến giải tư tưởng đại thừa, đưa đạo vào đời, thực tiễn trong đời sống dân sinh, hướng đến giải thoát, nhưng không bị đời làm ô nhiễm. Với cái nhìn khách quan, bằng trí tuệ bát nhã, Duy Ma Cật soi rọi vào lòng xã hội nguồn văn hóa tri thức vô ngã, đây là một tinh hoa siêu việt, vươn lên trên sự nghiệp xiển dương đại thừa.

Tư tưởng Phật giáo trước giai đoạn đại thừa, hình ảnh người tu sĩ xuất gia, có cuộc sống nghiêm mật, giới luật tịnh hạnh, được xem là đối trọng. Nhưng thành quả của Duy Ma Cật, một thương gia giàu có, có gia đình, sinh sống tại thành Tỳ Xá Ly, được giới cư sĩ hướng đến tôn vinh, là một thánh giả thượng sĩ tại gia quán chúng nổi bật, ông là đại biểu lý tưởng cho giới cư sĩ Phật tử tại gia. Tư tưởng Duy Ma Cật tạo nên một luồng sinh khí mới mẽ, trẻ trung hóa Phật giáo, được hình thành từ đại chúng. Từ tục đế mà phương tiện diệu hữu, đem lợi ích thiết thực tại nhân gian: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” không cần thiết phải từ bỏ thế tục, vẫn thực hiện được chí hướng giải thoát. Quan điểm trọng yếu của kinh Duy Ma Cật là tính không của tất cả các pháp. Trong tính không này đều có hữu lẫn vô, đều được hợp nhất, bất nhị, đó là nền tảng giáo lý của Duy Ma Cật.

Bất nhị rất khó diễn bày, 32 vị Bồ tát (chương thư 3 – phẩm Chúng đệ tử), khó trình bày được hết tinh túy. Ngay cả Văn Thù Sư Lợi, hiện thân của trí tuệ siêu việt, cũng chưa phân tích được rốt ráo, bởi vì ngôn ngữ trần gian đạo đoạn, làm sao diễn tả được hết sự uyên thâm của tư tưởng bất nhị. Bằng sự im lặng sấm sét, mặc như tôi, Duy Ma Cật đã lột tả được tinh thần siêu việt bất tư nghị.

Kinh Duy Ma Cật, minh họa nên chân dung người cư sĩ Phật tử, hướng đến giải thoát, áp dụng tri kiến tánh không trong cuộc sống đời thường. Kinh Duy Ma Cật, diễn tả khung cảnh trưởng giả Duy Ma Cật thị hiện thân lâm trọng bệnh tại tư gia, nhằm mục đích chuyển hóa nhân sinh. Đức Thế Tôn đã cử các đại đệ tử đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật, nhưng tất cả đều thoái thác, vì đã từng được trưởng giả Duy Ma Cật, chỉnh sửa sai sót trong những lần thừa hành Phật sự, nên không ai dám thay Phật đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. Cốt tủy uyên áo của kinh Duy Ma Cật được cô đọng tại chương thứ ba, phẩm Chúng đệ tử. Tại đây đã nêu lên lập trường thiền đại thừa. Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật:.

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. Vì sao vậy? Con nhớ lại, có lần, con đang ngồi tĩnh niệm dưới tàn cây trong rừng, Duy Ma Cật đến đó, và bảo con rằng: Kính thưa ngài Xá Lợi Phất, bất tất ngồi như vậy mới là ngồi tĩnh niệm. Hiện thân và ý mà không ở trong ba cõi, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện các oai nghi mà vẫn không xuất khỏi diệt tận định, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện thân làm các việc phàm phu mà không xả Đạo pháp, ấy mới là tĩnh tọa. Tâm không trụ trong, không trụ ngoài, ấy mới là tĩnh tọa. Tu hành ba mươi bảy phẩm mà không làm dao động các kiến chấp, ấy mới là tĩnh tọa. Nhập Niết bàn mà không đoạn trừ phiền não, ấy mới là tĩnh tọa. Ngồi được như vậy, thì mới được Phật ấn khả”.

“Si và hữu ái là nguồn gốc của bệnh tôi. Vì hết thảy chúng sinh bệnh mà tôi bệnh. Bao giờ hết thảy chúng sinh đạt đến chỗ không bệnh, bệnh tôi sẽ hết. Vì sao? Bồ tát, vì chúng sinh mà đi vào sinh tử. Có sinh tử thì có bệnh. Nếu hết thảy chúng sinh được thoát ly bệnh khổ thì Bồ tát không còn bệnh. Ví như, vị trưởng giả chỉ có đứa con một; khi người con ấy bị bệnh, cha mẹ nó cũng bị bệnh. Nếu nó bình phục, cha mẹ nó khỏe. Cũng vậy, Bồ tát yêu thương chúng sinh như cha mẹ yêu con, nên chúng còn bệnh thì Bồ tát còn bệnh; khi chúng hết bệnh, Bồ tát khỏe! Câu hỏi tiếp theo: Bệnh của Bồ tát từ đâu phát sinh? – Bệnh của Bồ tát xuất phát từ tâm đại bi”.

“Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.

Bộ kinh Duy Ma Cật, tổng hợp toàn bộ tư tưởng đại và tiểu thừa. Với trí tuệ bát nhã quán chiếu, hành giả chắt lọc những tinh túy, rút ra những tinh hoa làm trang nghiêm thân tâm, thăng hoa cuộc sống. Với hạnh nguyện vị tha, đem nguồn giáo lý giác ngộ thù thắng, soi rọi cuộc đời, kiến tạo xã hội văn minh, hạnh phúc. Huynh trưởng cư sĩ Phật tử, thực tập tinh thần Duy Ma Cật, với tâm lượng từ bi, với nhận thức trong sáng, xây dựng hoàn chỉnh tự thân, chuyển hóa tha nhân, góp phần kiến tạo xã hội toàn thiện, thịnh lạc, tịnh độ nhân gian ./-




TƯ DUY NGÀY THÀNH ĐẠO

TƯ DUY NGÀY THÀNH ĐẠO
– Phan Văn Huy Tâm –

Nếu không có sự giác ngộ của Đức Phật, thì không có sự hiện diện của Đạo Phật. Con người lịch sử ấy đã đi vào lòng nhân loại với một kho tàng tinh hoa tư tưởng bát ngát, đong đầy tinh thần từ bi – vị tha – vô ngã bất diệt, làm xua tan rào chắn bất công, khai phóng ý thức hệ vô minh, nô lệ đặc quyền, đáp ứng vẹn thỏa mọi nhu cầu bức thiết trong đời sống xã hội. Bằng một phong cách tĩnh tại.

Đạo Phật đi đến đâu thì kiến tạo hòa bình đến đó, mỗi bước đi của Đạo Phật chưa bao giờ nhuộm máu thương đau, làm tổn thương đồng loại. Âm hưởng của Đạo Phật bàng bạc, tồn tại mãi mãi giữa cõi đời này bất biến đến muôn sau.

Đối diện trước thực tại khổ dau mà chúng sinh phải hứng chịu. Bốn nỗi khổ lớn: Sinh – lão – bệnh – tử, luôn luôn đè nặng lên kiếp nhân sinh. Với tình thương bao la, với chí nguyện đại hùng – đại lực, biến khổ đau thành hành động thực tiễn, xác định lí tưởng phụng sự, lấy tha nhân làm đối tượng giác ngộ. Thái tử Tất Đạt Đa mạnh dạn xả bỏ nếp sống phù du mong manh, là vật ngoại thân, vượt dòng A Nô Ma, lên đường giải thoát

Sinh – tử được chi phối bởi nghiệp lực, hình thành nhân quả, chịu sự quán tính luân hồi. Giải thoát là vượt qua, là ý chí thù thắng, quyết định vươn lên vòng xoáy quy luật quán tính.

Nghiệp, được cấu thành bởi lời nói và hành vi tạo tác. Do lời nói – hành vi nhất định mà hình thành nhân quả tốt xấu, tác động lên tái sinh, dẫn dắt đi suốt sáu cõi luân hồi. Muốn vượt thoát vươn lên quy luật luân hồi, là phải quyết định dứt nghiệp.

Bên dòng Ni Liên Thuyền, với chí nguyện sâu sắc:

“Nếu không thành đạo, dù thịt nát xương tan, quyết không rời cội Bồ Đề”

Phía sau sự thành công lúc nào cũng lưu lại những vết tích tàn phá thương đau. Sự Thành Đạo của Đức Phật, không phải được dễ dàng thăng hoa. Trên hành trình năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh và suốt bốn mươi chín ngày đêm hành thiền, Đức Phật nếm trãi biết bao nghiệt ngã, dẫy đầy cam go thử thách, lắm lúc ngỡ rằng gục ngã trước khổ đau. Bằng cả một quá trình công hạnh, với đạo lực kiên cường, bằng năng lực từ bi, bằng đỉnh cao trí tuệ bát nhã, Đức Phật tĩnh tại nhận thức, nguyên nhân của sinh tử là phiền não.

Sự sống không thật có, được hiển bày bởi hiện tượng duyên khởi, do vận hành của nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt, vô thủy vô chung, không từ đâu đến và rồi cũng không đi về đâu. Trong nhân có quả, trong quả có nhân, nối tiếp không dừng, chỉ vì động dụng vô minh mà có sinh có diệt. Nhận chân được thực tướng năm uẩn vô ngã, trong phiền não có Bồ đề, niệm trước là vô minh tác ý não loạn, niệm sau là giác ngộ giải thoát, Đức Phật đã diệt tận lâu hoặc, vô úy vượt qua – chứng ngộ – thành toàn đạo nghiệp cao cả.

Bằng tuệ giác thực chứng, với bản hoài tự giác viên mãn, khi ánh sao mai vằng vặc xuất hiện trên bầu trời xanh trong vắt, rời gốc Bồ đề, Đức Phật tuyên bố:

“Như Lai là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”

Đã khẳng định: Tất cả chúng sinh đều có quyền bình đẳng như nhau, đều có thể tinh tấn để đạt đến quả vị giác ngộ thành Phật.

Đức Phật là một người bình thường như những người bình thường khác, cũng thân mạng do tứ đại hợp thành, cũng đói ăn – khác uống, cũng sử dụng cùng ngôn ngữ xã hội, cũng chi phối bởi quy luật vô thường.

Nhưng Đức Phật là một bậc phi thường – kỳ vĩ. Đức Phật đã đại hùng – đại lực vượt lên trên đời sống ngũ dục, luôn luôn ưu tư khắc khoải hướng đến chân lý siêu việt. Với tuệ giác vô lậu, đoạn tận gốc rễ vô minh phiền não, thâu suốt pháp tánh duyên khởi, phát Bồ Đề Tâm, thực hành sáu pháp Ba La Mật, nhiêu ích quần sinh, thành tựu vô thượng chánh đẳng – chánh giác.

Sự thành đạo của Đức Phật đã soi rọi một cái nhìn mới – một tư duy mới. Mọi hiện hữu đều dung thông với nhau. Ảo vọng cho sự tồn tại của cá thể tự tôn – độc lập, chỉ là ảo tưởng điên đảo, được khởi lên bởi vọng tưởng vị kỷ – ngạo mạn mù quáng. Những cái nhìn cục bộ phiến diện do nhận thức vụng dại sai lầm ấu trỉ từ bản ngã biến động phàm tục, đã đẩy nhân loại chênh vên bên hầm lửa tự hủy diệt.
Tư duy mới không thiết lập trên bản chất hữu ngã, mà hình thành trên tự tánh chứng nghiệm vô ngã. Không phục vụ cho bản ngã cá thể, mà nhằm mục đích hiển thị lợi ích cho toàn thể, thành tựu nhiêu ích cho vạn hữu, và sự tồn tại dòng sinh mệnh.

Hãy giải thoát cho nhau những ràng buộc của tham sân si – cố chấp – tà kiến. Hãy mở cho nhau những ràng buộc mù mờ vô lối, những qui ước phàm tục. Hãy hiến tặng cho nhau những tự do – nhân chủ căn bản. Từ đó cùng nhau thực tập bước tới quả vị giác ngộ hoàn toàn, đem lại lợi lạc cho nhân quần xã hội.

Đức Phật đã hiện hữu sống động thực tế, quên mình vì người, viên mãn hạnh nguyện độ sinh. Mặc dù Đức Phật an trú Niết bàn tịch tịnh cách nay 2561 năm, nhưng suối nguồn tuệ giác vi diệu luôn luôn tuông chảy ngọt ngào trong hàng triệu con tim dạt dào phật chất, hướng tới thường – lạc – ngã – tịnh ./-




TỰ CHỦ HIỆN TƯỢNG KHÔNG NHƯ

TỰ CHỦ HIỆN TƯỢNG KHÔNG NHƯ

Khi mặt nước đã được tĩnh lặng, thì phản ánh in hình mồn một các hiện tượng trôi qua

Tâm đã được tĩnh lặng trong suốt, hành giả nhận chân được hiện thực tâm hành. Những trạng thái giận hờn – sợ hãi – lo lắng – tuyệt vọng được xuất phát từ tâm hành. Nhờ chánh niệm tỉnh thức mà nhận diện được sự thật một cách trung thực

Nhờ thực tập quán niệm tỉnh thức, hành giả kịp thời phát hiện được tâm hành thất tình: mừng – giận – buồn – vui – thương – ghét – muốn, biết làm lắng dịu được cảm xúc vừa phát khởi. Tự chủ không dễ dàng bị chi phổi bởi hiện tượng không như làm căng thẳng đau nhức, làm đổ vỡ những tấm chân tình

Sự phá rối của thế quyền, sự không đồng tình của giáo hội, sự khủng hoảng – chia chẻ làm phá sản GĐPT, sự e dè thờ ơ của xã hội, nó chỉ là hiện tượng. Đã là hiện tượng thì chỉ là khách thể – thứ yếu – không như, thời gian rồi sẽ được đánh giá lại
Điều quan trọng là ở nội tại, tự thân đã xác tín được lập trường, đã định hướng được hướng đi, hay chỉ lập dị, lưỡng tính, chưa được đồng nhất. Lắm lúc, dường như đã được xác định phải như thế này, nhưng khi đụng việc, lại bân khuân lo lắng, sợ bị đánh giá, rồi lại dối lòng, quay ngoắc ứng dụng như thế khác. Diễn biến này là một sự thật, đang được diễn ra ở hai luồng tư tưởng lập dị trong một chủ thể!?…

Nhiều cấp huynh trưởng nhìn thấy sự thật thiếu rõ ràng, chưa dứt khoát này, làm ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý, mơ hồ, lung lay lập trường, khó quyết đoán được. Lắm lúc muốn tự tìm ra một giải pháp ôn hòa, bình thường hóa cho sự sinh hoạt tại mỗi địa phương, nhưng không để tách rời quần thể. Nhưng vấp phải sự ràng buộc cơ chế, làm lúng túng trong sự tự ứng xử

Nhà nước – cộng với sự tiếp sức của giáo hội, tham vọng triệt buộc, đưa GĐPTVN vào quĩ đạo để dễ dàng quản lý thao túng, lôi kéo không được, quay ra triệt tiêu, đánh đuổi. Nhà nước – giáo hội đã thấy được các mặt tích cực thánh thiện của GĐPT, nhận thấy mình sai lầm, nhưng đa nghi lo lắng vu vơ, để cho quán tính càng lúc càng sa lầy lún sâu. Tư trào văn hóa GĐPT dân lập, tự thân cứ vô úy kham nhẫn, chịu đựng bền bĩ vươn lên. Nhưng hàng ngũ lãnh đạo, nhìn bề mặt, thấy có thống nhất ý chí, bên trong mỗi cá thể còn có tư ý, chưa đồng nhất, dè chừng vị nể nhau. Nhiều đơn vị GĐPT địa phương bị khoáy rối – đẫy đuổi, trung ương không có giải pháp thực tiễn, có người còn chùn lòng, thiếu quả cảm, không dám đối mặt với thực tại, vô tình đánh mất lòng tin

Tiêu diệt thì không được, bởi vì tư trào văn hóa GĐPT còn có một đội ngũ vững vàng, khi được tập hợp lại thì hùng mạnh đến vô cùng, khó mà tiên liệu trước được, và sau lưng còn có đông đảo quần chúng ủng hộ. Còn bảo theo thì không xong rồi, bởi vì mỗi bên còn có cái nhìn chưa thoáng, đâu đó còn vướng bẩn rong rêu. Không biết cuộc chiến tâm lý này rồi sẽ đi về đâu! Nhà nước – giáo hội – GĐPT, như đang nhai phải một sợi gân gà, nuốt vào thì không đặng, nhưng nhả ra thì nuối tiếc. Cái tự ái của mỗi bên đang nấc nghẹn trong mỗi cuốn họng, làm cho cứ mãi âm ỉ ấm ức mỗi lòng

Lam Nhã Thảo Am, 22602014




TƯỞNG NIỆM ANH NGUYÊN Y

TƯỞNG NIỆM
“Hôm nay anh về – vùng quê hương mới xa xôi
“Sáng hồng lên ngôi – đàn em bổng vắng anh rồi
“Anh đi không hẹn – ngày về thăm lũ chim non
“Chuông rung gát chùa – còn rung những bước âm thầm…”

Bài hát đã đưa bước chân tôi nối gót các anh – chị trong Ban Hướng Dẫn Trung Ương, đến tại tư gia, dự lễ húy kỵ anh Nguyên Y – Lương Hoàng Chuẩn.

Cái nắng gay gắt của Sàigòn, không làm cho chúng tôi nao núng, mặc dù trên vai áo, ai nấy đều thấm đẫm mồ hôi. Tất cả chúng tôi đều quì thẳng tắp, trang nghiêm sau lưng chị Lương Thị Khiêm Cần, con gái anh Chuẩn, cũng là một chị trưởng, bây giờ đã là ni cô Thích Nữ Huệ Ngạn. Trước hương án trầm hương quyện tỏa, dị khẩu đồng âm, chúng tôi hòa theo nhịp mỏ, lời kính cầu cứ âm trầm đầm ấm vang lên siêu thoát.

Ôi ! con chim đầu đàn của ngày nào, hôm nay không còn nữa. Mất anh rồi, thế gới này bổng vắng tênh. “Oanh vũ cồ” của muôn vạn chim lam thuở nào, giờ đây đã bay vào vô tân, bỏ lại sau lưng anh, biết bao đàn em cứ mỗi ngày mỗi lớn khôn thêm. Để rồi hôm nay em lại về, chỉ còn lại đây, với di ảnh, ánh lên ánh mắt trầm hùng, dõi theo từng bước đàn em.

Ngày anh ra đi, còn thuyền lam lạc vào cơn bão dữ, say mèm chuếnh choáng, nhiều lúc cứ ngỡ rằng vùi dập giữa đại dương. Nhưng may mắn thay, nối bước theo anh còn có biết bao tay chèo vững chãi, con thuyền lam lại tiếp tục dương buồm, vững vàng ra khơi.

Anh mất đi, nhưng cái tinh anh trong anh không mất trong hàng vạn trái tim lam, cuộc đời ngời sáng của anh, luôn luôn soi rọi cho chúng em đi tới. Và mỗi lần lá cơ nền xanh hoa sen trắng được phất phới – tung bay giữa trời lộng gió, thì hình ảnh của anh, được hiển hiện rõ ràng trước hàng trăm vạn lời tung hô tinh tấn, và anh vẫn mãi mãi trong mọi trái tim lam là “Oanh vũ cồ” muôn thuở./-

Lam Nhã Thảo Am, 02092554 – 09102010




TU BÁT QUAN TRAI GIỚI

TU BÁT QUAN TRAI GIỚI

Sinh ra có được thân người đã khó, tiếp cận được chánh pháp lại càng khó hơn.

Thực tập tu học, nhằm mục đích thanh lọc nghiệp xấu ác, tăng trưởng nghiệp thiện lành. Không gieo trồng tạo tác nhân xấu thì không gặt hái thu hoạch quả xấu. Nhân quả là qui luật tất yếu không thể loại trừ được, dù cho đã đạt đến thánh quả, vẫn phải trả nghiệp. Nợ đã lỡ vay mượn, thỉ phải thanh toán chi trả cho xong, không tránh trút được, “Thánh nhân sợ nhân, chúng sinh sợ quả”

Các tôn giáo đều tán thành việc tiêu trừ những điều xấu, phát triển điều tốt, hạn chế ích kỷ, phát triển lợi ích cho mọi người, nhưng ở Đạo Phật thì khác

Phật: Là giác ngộ – giải thoát, tu học phật pháp, nhằm phát triển tuệ giác, đạt đến quả vị Phật Đà, “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”, đủ năng lực giác tha

Tam nghiệp: Thân – Khẩu – Ý. Nếu hướng ba nghiệp đến hành vi xấu ác thì cửa địa ngục được mở ra. Hành giả ứng dụng thân khẩu ý thực tập hướng thiện cuộc sống thì trạng thái an lạc giải thoát được hiển bày

Đời sống thì quá nhiều đau khổ, “Ta bà khổ, ta bà chi khổ”. Thực tập tu học, nhằm mục đích giải phóng khổ đau, phát sinh trạng thái an lạc – giải thoát

Nhiều pháp môn thực tập tu học được Phật – Tổ bày ra, nhằm mục đích đưa hành giả đạt đến quả vị an lạc – giải thoát. Kinh văn đã ghi nhận, trong thời mạt pháp, chánh pháp dần dần thiếu vắng, chúng sinh lúc bấy giờ chỉ còn lưu giữ pháp môn tịnh độ, niệm biết hồng danh và cuối cùng chỉ còn một từ Phật duy nhất để cầu tốc vãng Tây Phương

Hàng cư sĩ tại gia, quá nhiều gia duyên bận bịu, khó xuất gia cầu giải thoát được. Đức Phật chỉ dạy pháp môn: Bát Quan Trai Giới, dành cho người cư sĩ tại gia phát nguyện thực tập xuât gia cầu giải thoát trong một ngày một đêm. Duyên lành kỳ ngộ phật pháp, TT Thích Thông Lý Trụ Trì chùa Phước Bình, quay về với nguồn cội Thầy Tổ xưa, thương tưởng Phật tử tại đây, thực hiện lời Phật dạy, tổ chức khóa tu Bát Quan Trai Giới truyền thống, 2 ngày: 22 – 23 (Âm lịch) hàng tháng. Trợ duyên cho hàng cư sĩ tại gia, thực tập tu học, phát triển Bồ Đề Tâm, gieo tạo nhân xuất gia giải thoát ./-




TINH THẦN VÔ ÚY

TINH THẦN VÔ ÚY

Hơn lúc nào hết, tinh thần vô úy phải được trân trọng đặt lại. Huynh trưởng GĐPT không hãi sợ trước các thế lực vô minh mù quàng. Bởi vì trong mỗi chúng ta có sẵn nguồn năng lượng vô biên được thắp sáng – định hướng cho mỗi người, tạo nên một sức mạnh kì vĩ làm chuyển biến thế giới tối tăm, nhằm tạo nên sức sống diệu kì hãnh tiến vào tương lai tuyệt bích.

Tinh thần vô úy phải được nâng cao. Mỗi Huynh trưởng GĐPT phải khẳn định cho được chính mình. Nhờ sức mạnh tối thắng vô thượng mà chúng ta dũng tiến vào đời, làm nên biết bao kì tích.

  • Vô úy ! là ánh đuốc khai phóng vô minh – quét sạch bóng đêm tăm tối.
  • Vô úy xua tan áp bức bất công, tái lập trật tự yên bình.
  • Vô úy ! đã làm nên kì tích lịch sử vẽ vang cho toàn dân tộc.
  • Vô úy ! tạo nên sức mạnh Sư tử hống, làm cho loài chồn cáo tanh hôi phải cúi đầu run sợ.
  • Vô úy ! như đợt sóng triều dâng, làm dập tan rong rêu bọt bèo cặn bã – cuốn trôi rác rưởi nhớp nhơ.
  • Vô úy ! đã tạo nên sức mạnh lịch sử vào những năm của thập niên sáu mươi.

Với tinh thần vô úy, biết bao ngọ lửa từ bi của chư Thánh tử vì đạo đã bùng lên làm thức tỉnh lương tri các chế độ vô minh. Với tinh thần vô úy mà hàng hàng lớp lớp Huynh trưởng – Đoàn viên GĐPT không hãi sợ trước thế lực đen tối, nguyện siết tay nhau hãnh tiến, phá vỡ xiềng xích bất công – đòi lại tự do bình đẳng yên bình cho đất nước.

Khi mà tinh thần vô úy đã được hun đúc nâng cao thì không còn sợ hãi nữa. Có gì mà hãi sợ ? khi mà con đường chúng ta đang đi thênh thang rộng mở tràn đầy chính nghĩa. Vì tự do bình đẳng toàn nhân loại mà sẵn sàng đối mặt – thách thức với thực tai cam go cay nghiệt.

Hôm nay chúng ta không còn cúi đầu nữa, mà phải kịp thời ngẫng cao, mạnh dạn nhìn thẳng vào mặt vô minh, mạnh dạn sấn bước đi tới – đạp lên trên mọi rào chắn – phá vỡ mọi cản ngăn, không sợ khủng bố – hù dọa – trù dập, vì tất cả mọi rào chăn ràng buộc trước quy luật vô thường đều chỉ là giả dối ảo ảnh hư vô, mọi thứ đều tầm thường vô nghĩa dưới bước chân của chúng ta, không bao giờ có thể làm chùn bước chúng ta đi. Dù có hi sinh cả thân mạng để phục vụ tổ chức GĐPTVN – để cúng dường chư Phật – để cảnh tỉnh lương tri các thế lực vô minh, chúng ta vẫn với tinh thần vô úy vị tha cao cả, tay trong tay siết chặc dây thân ái… rạng chiếu khắp núi sông ./-




TIẾNG HÓT CỦA CON CHIM SẺ

Tiếng hót của con chim sẻ

Con chim sẻ giữa vườn xanh. Thời gian trôi nhanh, nó nhìn lại vóc dáng, mỗi ngày thêm lớn, không còn thơ ngây như thuở nào, cái ngày mà tóc còn để chỏm, áo quần lôi thôi lếch thếch, nói năng ngọng nghịu, nũng nịu vòi vĩnh mẹ cha. Chim sẻ cảm thấy bây giờ nó đã trưởng thành, mái tóc mượt mà óng ả, quần áo chải chuốt phẳng phiu – chỉnh chu.

Nó cảm thấy mình thật sự đã lớn khôn. Nó cất cao tiếng hót, khoe mẽ ríu ra ríu rít, nó muốn tiếng hót của mình sắc nhọn vút cao, thật vang xa, lấn át tất cả mọi âm thanh ô trọc chung quanh.

Nó nghiêng nghiểng cái đầu, ánh mắt lúng liếng nhìn xa ngoài kia. Rừng cây bát ngát, bầu trời trong xanh, ánh nắng chói chang. Không gian chung quanh cứ mãi theo từng ánh mắt kéo dài trãi rộng, mênh mông bát ngát.

Nó bất chợt cảm thấy mình lớn khôn hơn, hiểu biết tất cả. Không như ai kia, bộ óc hẹp hòi bó chặt ru rú, quanh quất với núi rừng thâm u tịch mịch – lạc hậu, không thấy được bầu trời trải rộng, đâu là ánh sáng chói chang tỏa ngát thênh thang.

Chim sẻ chợt vùng lên, tung đôi cánh bo tròn hướng ra khoảng trời trong xanh ngát. Bất chợt đập mình vào khoảng không, bật ngửa rơi mình xuống sàn, đau đớn thu mình rụt cổ. Nó hoảng hốt nhìn lại, thì ra nó đang còn ở trong lồng kính, nó chưa thực sự tự vươn mình thoát ra, mà từ lâu nó đã tự đánh lừa lầm nhận sự còn non kém khờ khạo của chính mình.

Khoảng trời xanh trong vắt ngoài kia, lúc bấy giờ chưa đến lúc, chưa phải thực sự là của nó.

Nó nhìn lại chính mình, cái bệnh ham làm thầy đời hiu hiu tự đắc, cái bệnh thà làm đầu con gà hơn là làm đít con trâu, đã cho nó nếm trải trái đắng đau lòng. Tiếng hót của con chim sẻ vẫn chỉ là của loài chim sẻ sằn sặt lè tè bé xíu nhẹ tênh, khờ khạo, chỉ biết tự vỗ béo, chưa phải là tiếng hót hòa điệu, biết chối từ ngã ái, tự gát mình qua một bên, biết trãi lòng vị tha hướng về phía trước của loài chim Họa Mi – Sơn Ca – Khổng Tước – Ca Lăng Tầng Già.

Bởi vì thiểu trí, mê vọng ôm ấp cái ngã ái không hư vô tưởng: Điều ta nghĩ luôn luôn là đúng, việc ta làm luôn luôn là hay. Xa kia, Tào Tháo, một tên gian hùng vẫn nghĩ mình thế thiên hành đạo. để rồi trái bom nguyên tử bùng nổ giữa Hiroshima, gieo thảm họa cho hàng loạt con người, cũng chỉ vì nghĩ là làm một việc nhân đạo, “Sát nhất miêu cứu vạn thử”, để cho chim sẻ mãi hoài quằn quại xót xa – phóng khí tách rời tha nhân, tự đánh mất lòng nhiệt thành hăng hái thuở nào, ngậm ngùi khép mình co ro trong tự kỷ cô liêu.

Cái tâm sự :

“Cả đời đục cả, một mình ta trong
“Mọi người say cả, một mình ta tỉnh”

Đã đẩy Khuất Nguyên vào lòng sông Mịch la, trầm mình lạnh giá

Tại sao không như lão ngư ông, có cái nhìn nhân sinh hoà quang đồng trần:

“Sông Tương nước chảy trong veo.
“Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
“Sông Tương nước đục phù sa
“Thì ta lội xuống để mà rửa chân”

“Thắng một vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng chính mình mới là chiến công oanh liệt nhất” – Kinh Pháp Cú

Chế ngự sự phẫn giận là một công phu tu tập mạnh mẽ, là sức hàm dưỡng chịu đựng không phải tầm thường. Người thực hành pháp kham nhẫn không phải là người yếu đuối.

Chung quanh ta biết bao điều bất như ý, hà cớ gì phải vướng bận đa mang. Nếu có sức kham nhẫn thì phiền não được lắng dịu, an vui tự tại được nẩy sinh.

“Một đóm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả một cánh rừng”, một thái độ bốc đồng nóng giận có thể thiêu đốt cả công đức mà đã bao nhiêu năm sống hạnh thiện pháp mới tích góp đươc.

Giữ không vô minh nóng giận là bảo toàn đức tính tốt vẹn toàn
Nhẫn có ba loại:

1. Một là nhẫn với người:

Nghe lời nói trái tai dèm xiểm công kích, bị xúc phạm đánh đập mà nhẫn nhịn cho qua, không hờn giận trách móc, thì đó là tu nhẫn.

Kinh A-hàm Phật dạy:

Ngài Phú Lâu Na xin đức Phật về phương Bắc giáo hóa, Đức Phật hỏi:

  • Này Phú Lâu Na, người phương Bắc hung hăng lắm, nếu ông về đó giáo hóa, họ sẽ chửi mắng ông, ông nghĩ thế nào ?
  • Bạch Thế Tôn, nếu họ chửi mắng con, con nghĩ họ cũng còn lương thiện vì chưa đánh đập con.
  • Giả như họ đánh đập ông, thì ông nghĩ thế nào ?
  • Bạch Thế Tôn, nếu họ đánh đập con, con nghĩ họ cũng còn . lương thiện, vì chưa giết con chết.
  • Nếu họ giết ông chết thì ông nghĩ thế nào ?
  • Bạch Thế Tôn, nếu họ giết con chết, thì họ là người ơn của con, vì nhờ họ mà con bỏ được cái thân tứ đại hôi thối này.
  • Được, như vậy thì ông nên đến đó giáo hóa.

2. Hai là nhẫn với mình:

Nhẫn với mình là hạnh khó làm. Nhẫn với sự đau đớn, bệnh hoạn, nhẫn với sự đòi hỏi hưởng thụ̣: Ăn ngon, mặc đẹp, nhu cẩu thị hiếu, thỏa mãn khát vọng…

Người biết thực hành hạnh kham nhẫn là biết tiết chế, dừng lại đúng lúc, không buông lung thả trôi dục vọng.

3. Nhẫn với hoàn cảnh, thời tiết:

Thời tiết bất thường là do nghiệp chiêu cảm.

Hoàn cảnh chung quanh thuận hay nghịch, bằng lòng hay không vừa ý, là do cộng nghiệp tùy hiện.

Người thức giả đại trí không nên tự tả oán thân phận, mà phải biết ứng dụng tùy thuận cương – nhu, phải thẩm thấu cái thân phận lau sậy hèn mọn hữu hạn trước cái mênh mông vô tận của vũ trụ bao la.

“Vật cực tắc phản, vật cùng tắc biến”, lấy cái thân phận hèn kém mà đọ sức với guồng máy to lớn như thường, liệu có làm nên !

Phải biết mặc áo kham nhẫn, là “Mặc áo Như Lai để vào nhà Như Lai”, mới là người thức giả tự chiến thắng chính mình ./-




Đại Hội Ba GĐPTVN Trên Thế Giới

TẤM LÒNG HƯỚNG VỀ ĐẠI HỘI III
GĐPTVN Trên Thế Giới

Hoan hỷ và phấn khởi nhiệt thành, là niềm cảm nhận chung của toàn thể Lam Viên từ quốc nội đến hải ngoại, hướng về Đại Hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam Trên Thế Giới đong đầy trí tuệ, triển vọng hướng tới một tương lai sáng lạn.

Đại hội Huynh trưởng GĐPTVN Trên Thế Giới lần thứ III, tại Bangkok – Thailand. Mỗi nhân giả đều biểu hiện mỗi biểu cảm khác nhau, nhưng tất cả đều chung lòng, đặt trọn vẹn niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự thành công viên mãn đầy phong quang của đại hội, đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại, khẳn định một định hướng giáo dục đạo đức tâm linh – ứng dụng giáo lý Phật Đà góp phần làm thanh sạch môi sinh, xây dựng hoàn chỉnh hành tinh này thành cảnh giới tịnh Phật quốc độ nhân gian.

Trong niềm đại hoan hỷ vô biên, toàn thể Lam Viên trên khắp các châu lục – quốc gia chia sẻ trọn vẹn niềm tin, kỳ vọng lớn lao vào sự lãnh đạo tuệ giác của Ban Hướng Dẫn GĐPTVN Trên Thế Giới trong sự nghiệp phát triển nền giáo dục khai phóng.

Từ Đại Hội, lá cờ xanh hòa bình Sen Trắng đã được phất lên, ảnh hiện ánh hào quang rực rỡ – hiệu triệu sự thống nhất GĐPT toàn cầu. Từng tín hiệu truyền tải những sự kiện trọng đại đang diễn ra trong thời khắc bùng cháy khao khát tự do từ muôn vạn trái Tim Lam. Từ mọi ngõ ngách GĐPT, đang chuyền tay nhau từng bản tin nóng hổi. Trong từng câu chuyện, trao đổi cho nhau nghe những thông tin về hoạt động của đại hội, ẩn chứa biết bao mong chờ, hy vọng ở đại hội một sang trang mới mẻ, có nhiều quyết sách lớn, định hướng phát triển, tạo chuyển biến, đưa tổ chức hội nhập quốc tế vươn lên tầm cao.

Ban Hướng Dẫn nhiệm kỳ ba, đang đối mặt trước những thách thức lớn, nhiều thử thách đang đón chờ, phía trước còn lắm bối cảnh bộn bề gian nan, nhiều tồn tại rối rắm cần phải đối phó – tháo gỡ. Những khủng hoảng về mặt ý thức – chánh kiến – tông phái – giáo hội, tạo nên nhiều khoảng cách làm dằng xé đau lòng. Trong thế kỷ bùng nổ thông tin – chạy đua kinh tế, những suy thoái hạnh đức trầm trọng, làm tha hóa ngầy ngụa tuổi trẻ – bào mòn tâm linh – kiệt quệ sức sống.

Gia Đình Phật Tử Việt Nam là điểm hẹn xứng đáng, một khu đất mầu mở, nơi hội tụ tinh hoa, đầy đủ chất liệu từ bi – trí tuệ và hùng lực toàn diện, làm nền tảng chuyển hóa thế tục. Trách nhiệm của nhà lãnh đạo làm công tác giáo dục hiện nay, là cấp thiết hàm dưỡng phẩm chất đạo lực, có đời sống văn hóa tâm linh tốt đẹp, gát lại sau lưng cái tôi vị kỷ – “thể hiện cá tính – lấy cấp đè cấp” – “vú cả lấp miệng em”, xả kỷ – vị tha, có giải pháp thu hút tuổi trẻ – phát hiện tài năng, đầu tư – quy hoạch – chăm lo tài bồi đội ngũ kế thừa, tạo điều kiện cho tuổi trẻ rèn luyện – trưởng thành – góp phần hổ trợ phát huy hoài bảo. Biểu thị quyết tâm sắt đá, mạnh dạn dấn thân – hy hiến để phụng sự tha nhân. Chỉnh đốn cơ chế, yêu nghề dạy trẻ – yêu tổ chức GĐPTVN, làm tròn sứ mệnh truyền trao thực tiễn – hiệu quả. Nghiêm túc lắng nghe ý kiến – tranh thủ sự góp ý – ý thức trách nhiệm – chắc lọc suy tư hí luận, đáp ứng vẹn thỏa từng mỗi nguyện vọng thâm sâu, chuyển hóa vô minh, tỉnh thức nhân loại.

Trên hành trình đi đến tuệ giác, mỗi hành giả gặp phải biết bao gian khó. Sự bạc đãi đối xử thiếu bình đẳng đối với GĐPTVN trong thời gian qua là một thử thách lớn, từ lò lửa của ý thức hệ khắc nghiệt đã trui rèn cho tự thân kim cương vững chãi. Sự thành công của Đại hội ba, đã khẳn định được nguyện lực nhẫn nhục bền bỉ – ý chí sắc thép vô úy tự tại, đạp lên trên đầu sóng ngọn gió lèo lái con thuyền GĐPTVN cặp bến bình yên. Có nhiều nơi, còn có nhiều tỉnh thành, còn gặp nhiều gian khó, bởi ý thức ngoại tại còn có vô minh che phủ – đoanh vây bao quanh bởi những tham mưu xu nịnh – thiếu thực tế – mù mờ về tổ chức GĐPTVN. Còn hạn cục – chưa thoáng – chưa cởi mở, còn dè dặt – âu lo vu vơ thiếu kiểm chứng. Còn nội tại thì thờ ơ, mờ mắt lương tri, phủ phàng – lọc lừa, xu phụ thế tục, mê vọng quyền lực hư ảo, tối mắt trước hư vinh, đang tâm đẩy đuổi đàn con hiếu thảo chơ vơ lăn lóc giữa chợ đời, phó mặc cho sóng đời vùi dập. Cũng có nhiều tỉnh thành, GĐPT đã từng nếm trải khó khăn, nhưng các chức năng nơi đây đã sớm ý thức được, cách đối xử tệ bạc bất công trong thời gian qua là sai lầm, sự có mặt của GĐPT là tối cần thiết. GĐPTVN như là một chất keo hàn gắn, làm dính liền giữa đạo pháp và dân tộc. Sự tập hợp chặc chẽ – đoàn kết nhất trí cao của GĐPTVN, là biểu trưng – là tấm gương sáng – là sức mạnh tạo nên sự đoàn kết cho toàn xã hội – đạo pháp. Nhờ cái thấy thông thoáng đầy trí tuệ của mỗi địa phương, nhiều GĐPT sở tại đang dần hồi được tái lập trật tự – sinh khí sống lại tràn trề, sự góp mặt hữu ích của GĐPTVN đang từng bước xây dựng kế hoạch đi vào thực tiễn, làm tròn sứ mệnh hộ đạo – xây đời.

Trên bãy mươi năm lịch sử GĐPTVN mới có ngày hôm nay, và gần 40 năm đen tối, GĐPTVN kỳ vọng được lóe sáng. Toàn thể Lam Viên chấp tay cầu nguyện cho mặt trời bừng rỡ kể từ đây, tham vọng không còn, chỉ còn có thương yêu. Cầu xin buông dao đồ tể – lập địa thành Phật, hãy mở rộng từ ái – thắp sáng lương tri, chung tay chung sức hàn gắn vết thương đau của đạo pháp – dân tộc và đất nước, đang bị bàn tay vô minh dằng xé, làm nhức nhối từ bấy đến nay ./-




Sư Tử Hống (2)

Sư Tử Hống (2)

Tại buổi họp mặt Ban Hướng Dẫn và Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT tỉnh Bình Thuận.

Trước giờ nhận quà cứu trợ, Thượng tọa Thích Chơn Thức, Trưởng ban An sinh Hội đồng Giáo Giới GĐPTVN, đã đặt câu hỏi:

  • Các anh – chị có biết Đạo Phật đã dùng biểu tượng gì để nói lên tinh thần vô úy ?

Trong hội trường đông đảo, có anh – chị nào đó đã thốt lên:

  • Con Sư Tử !
  • Đúng rồi, con Sư Tử !

Thuở xưa, Sư Tử dũng mãnh thường được chọn để bảo vệ chốn linh thiêng như đền – chùa – cung điện.

Sư tử là linh vật tượng trưng cho sự dẻo dai – bền bỉ – tỉnh táo – dũng cảm – kiên cường, nâng cao vị thế của người đứng đầu, có khả năng đối mặt với nghịch cảnh – khó khăn, hóa giải những chướng duyên xấu ác, đem lại thành công – hạnh phúc – may mắn.

Trong Phật giáo, Sư Tử Tuyết làm nhiệm vụ bảo vệ Chánh Pháp, được mô tả ở tư thế đang nâng pháp tòa của Đức Phật.

  • Con Sư Tử, nói chính xác hơn là: Sư Tử Hống !

Sư Tử Hống, là tiếng gầm của loài Sư Tử, vua của muôn thú. Đức Phật đã dùng ảnh dụ này, để chỉ cho âm thanh thuyết pháp, như tiếng gầm rống của Sư Tử Chúa, không những không sợ hãi bất cứ loài thú nào, mà còn làm cho muôn thú phải khiếp sợ, bị nhiếp phục hoàn toàn.

Không phải chỉ có Đức Phật hoặc Chư Tăng mới có đủ uy lực nói lên tiếng nói Sư Tử Hống. Người Huynh trưởng GĐPT, đứng trước chướng duyên, cũng phải hống lên tiếng rống Sư Tử, tuyên bố dứt khoát, chỉ có ở đây mới là chánh đạo, mới có chân lý tối thượng.

Sư Tử Hống có ba nghĩa: Như thuyết tu hành. Vô úy thuyết. Quyết định thuyết.

  1. Như thuyết tu hành: Lời nói phù hợp với sự thực tập – tu học, không nói suông – hý luận dài dòng, thiếu thực tế.
  2. Vô úy thuyết: Không sợ hãi, biện tài vô ngại, xiển dương diệu pháp, lời nói kiên quyết – xác tín. Vô úy có hai nghĩa: Không sợ người, trái lại nhiếp phục được người.
  3. Quyết định thuyết: Căn cứ vào chân lý nói lên sự thật, có khả năng xiển dương chánh pháp, dẹp tà – hiển chánh, chuyển hóa tha nhân.

Sư Tử Hống được gọi là Quyết định thuyết, nói lên yếu nghĩa:

“Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Như Lai thường trụ, không biến đổi”Kinh Đại Bát Niết Bàn –

Sáng sớm Sư Tử Chúa ra khỏi hang, vươn vai nhìn bao quát khắp bốn phương, hùng lực cất tiếng rống lớn:

  1. Phá dẹp những loài chẳng phải thiệt sư tử mà dối làm sư tử.
  2. Chứng tỏ uy lực dũng mãnh
  3. Khiến chỗ ở thanh tịnh
  4. Muốn bầy sư tử con biết hướng đến
  5. Muốn bầy đàn sư tử không sanh tâm kinh sợ
  6. Làm cho kẻ mê ngủ được thức tỉnh
  7. Làm cho tất cả muôn thú đang phóng dật được tinh tấn siêng năng
  8. Những thú khác đến chầu hầu
  9. Điều phục đại hương tượng
  10. Dạy bảo con cái
  11. Trang nghiêm quyến thuộc

Người Huynh trưởng không phải như con rùa, chỉ biết co đầu rút cổ trong vỏ ốc xơ cứng – vô hồn, tránh né – đùn đẩy trách nhiệm, ẩn núp – dựa dẫm quyền lực.

“Phú quý bất năng dâm,
“Bần tiện bất năng di,
“Uy vũ bất năng khuất”
– Mạnh Tử – chương Đằng Văn Công Hạ –

Là đại trượng phu, không hợm mình – mê hoặc bởi giàu sang, lắm tiền – nhiều bạc, thế lực lớn, quyền uy to. Luôn luôn giữ gìn phép tắc, tuân thủ pháp luật, kiểm soát hành vi. Không dâm ô dục lạc, không tham muốn bất chính, no ăn ỡm cật. Phú quý bất năng dâm.

Dẫu đời sống có nghèo hèn, cũng không đánh mất lương tri – chí khí – nhân cách, giữ gìn khí tiết – phẩm giá sạch trong. Bần tiện bất năng di.

`Đại trượng phu, dù đứng trước thế lực uy vũ – cường quyền, cũng không cúi đầu khuất phục. Uy vũ bất năng khuất.

Với ý chí của bậc trượng phu xuất thế, lội ngược dòng đời, thì hướng đi phải lên trên trượng phu thế tục.

Người Huynh trưởng Phật Tử tri thức, phải có tư duy phê phán, không có khái niệm giai cấp – quyền uy, Không mềm yếu, gục xuống, đầu hàng, rẽ ngoặc, ảo tưởng ngây thơ, bẻ cong chân lý. Ý thức tự chủ – bất khuất. Đầu đội trời – chân đạp đất, giữ gìn chí hướng – tiết tháo, đởm lượt tài ba – đủ năng lực gánh vác sứ mệnh – lý tưởng cao cả, chịu trách nhiệm về tương lai của tổ chức. Có hào khí xung thiên bát ngát – rạng rỡ đến bất tận !




SỨ MỆNH HUYNH TRƯỞNG

SỨ MỆNH HUYNH TRƯỞNG

“Vì còn có chúng sinh bệnh, nên tôi có bệnh”

Còn có một Thanh – Thiếu – Nhi tha hóa, Huynh trưởng GĐPT phát nguyện nhập thế giải khổ cho họ. Huynh trưởng GĐPT thị hiện vào đời, san sẻ những khổ đau người đời, lấy cái khổ của mọi người làm nỗi đau của chính mình để mà độ tận

Huynh trưởng GĐPT hôm nay, tự xác định sứ mênh trước tiền đồ tổ chức, thắp sáng niềm tin, giúp cho đàn em vững chãi noi dấu, luôn luôn chăm lo – làm trong sáng thế hệ mai sau

Các em đến với chúng ta, do một nhân duyên hòa hợp, được gieo trồng từ nhiều đời. Dẫu biết rằng “Do duyên mà hợp, và cũng do duyên mà tan”.

Nhưng “Nghiệp” thì có thể chuyển hóa được. Người Huynh trưởng PT, phải là cái thiện duyên tốt hơn, để chuyển hóa cái duyên xấu ác, tạo nên một cái duyên mới thiện lành – đẹp đẽ hơn, để tập hợp cho được các em, làm cho các em gắn bó hơn với mình – với tổ chức nhiều hơn, mà không vì lý do này, hay điều kiện khác, mà phải rời xa Đoàn. Dẫu mai này do hoàn cảnh, hay điều kiện sinh kế – học tập, mà phải ngậm ngùi chia xa, các em vẫn mãi mãi nhớ về, và nếu thuận duyên, dù ở bất cứ nơi đâu, các em vẫn nhanh chóng, thiết tha tìm về với tổ ấm muôn đời, bởi vì hạt giống này, đã được bàn tay lành nghề, của các anh – các chị cần mẫn chăm bón kĩ càng, cho dù được thả dưới vùng đất nào, các em cũng vẫn nẩy mầm vươn cao – rợp mát bóng đời. Và, bởi vì các em là một phần thực thể, không thể thiếu trong đời sống của người Huynh trưởng GĐPT

Huynh trưởng GĐPTVN đang đối mặt trước những thách thức nghiệt ngã. Nhiều vấn đề bức súc trước mắt, đòi hỏi người lãnh đạo tài ba nhạy bén ứng xử, vững vàng tay lái đưa con thuyền Lam cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, cặp bến bình yên
Nếu cuộc đời là gấm hoa bằng phẳng cả, thì Huynh trưởng GĐPT không thị hiện vào đời. Sự có mặt của Huynh trưởng GĐPT là tối cần thiết trong giai đoạn thực tại. Huynh trưởng PT không vì lý do này hay lý do nào khác, để mà dễ dàng yên phận – thủ thường – cầu an – bàng quan, chối từ trách nhiệm nặng nề trước tiền đồ tổ chức

Gia Đình Phật Tử Việt Nam là sức sống của đạo pháp – dân tộc. Nếu được tầng lớp Huynh trưởng GĐPT thiện hữu tri thức lãnh đạo tài tình – tuệ giác, thì sức sống này được lan tỏa đến vô cùng. Nền tảng của GĐPTVN là đông đảo đoàn viên – đoàn sinh GĐPT, là khối Huynh trưởng đã traix nghieemk kinh qua nhiều thử thách, dạn dày trong sóng gió, vững chãi trong đời sống đạo vị.

Biết bao cấp Huynh trưởng trưởng bối đi trước, đã nêu lên những tấm gương ngời sáng, đã từng xông xáo quả cảm – đầy sinh lực – đầy tài năng, đã thể hiện những hoạt động nóng bỏng, trong những giai đoạn cam go nhứt, qua đó đã khắc họa nên những suy tư, những chân dung kỳ vĩ – đẹp đẽ lạ thường. Những con người ấy, đã trung thực với cuộc sống, và hết lòng vun vén cho những mầm non được nhanh chóng đâm chồi – nãy lộc – đơm hoa, mai này tỏa hương – ngời sắc tô đẹp cuộc đời

Trong giai đoạn rối rắm – khắc nghiệt – chưa sáng sủa như hiện nay, đòi hỏi người Huynh trưởng phải tỉnh thức, nghiêm túc định hướng, chấp nhận một tác chiến gay go – nghiệt ngã nhất. Đòi hỏi với ý chí cẩn trọng – xốc vác – nhạy bén – tinh tường. Biết bao thử thách cam go đang đón chờ phía trước, đòi hỏi ở mỗi Huynh trưởng một tài năng – một đức độ sẵn sàng ứng phó

Nếu mở lại những trang sử rạng ngời ngày qua, làm cho chúng ta không khỏi ngỡ ngàng. Nhưng phấn chấn biết bao, khi thấy nhiều Huynh trưởng GĐPTVN, tình nguyện hiến dâng đời mình, vì sự trường tồn của tổ chức, đã lăn lộn với những giai đoạn khó khăn – uyển chuyển với thời cuộc. Nhiều Huynh trưởng đã lãnh đạo phong trào, nhận lãnh gánh vác những gánh nặng, phụ trách nhiều GĐPT địa phương đầy lửa bỏng. Quả thực, đây là những lò lửa, có nơi đã lên đến cả nghìn độ, rực cháy suốt đêm ngày. Nhưng các anh – các chị vẫn hùng lực, trên ngực áo vẫn hiên ngang gắn nổi huy hiệu hoa sen sáng chói. Những anh chị ấy, có bao giờ cho phép mình được ngơi nghĩ – xuôi tay, mặc dù hiện nay có người đã nằm xuống! Nhưng các anh – các chị, vẫn sống đầy đủ ý chí, và sống một cách sinh động đầy ý nghĩa – tinh anh trong mỗi tâm tư của thế hệ hôm nay và mãi mãi ngàn sau

GĐPTVN xuất phát từ nhu cầu sống, giải quyết đáp ứng thỏa đáng những nguyện vọng thâm sâu nhất của tuổi trẻ. Do đó, người Huynh trưởng lãnh đạo, phải có nhận thức thiết thực, sáng suốt năng động, hiểu biết thâm sâu mỗi người, thắm thiết tình người, khơi mở cho tuổi trẻ, hòa nhập vào dòng sống vô biên, sáng tỏa của đạo Phật. Thế nên người xưa đã nói “Tri đạo – hành đạo”, kết quả của sự biết đạo, mới có cơ sở, điều kiện tâm sinh lý tối cần thiết để làm việc đạo

Xã hội nào cũng có những mâu thuẩn, tổ chức nào cũng tồn tại trong lòng nó những dòng ý thức lập dị khác nhau, đó là qui luật đối kháng của cuộc sống. Chính nhờ những mâu thuẩn đối lập ấy, mà xã hội được vận động đổi mới – tiến bộ hơn. Thực ra, đời sống phức tạp trong xã hội, trong mỗi tổ chức không đáng kể. Chỉ đáng kể là, con người lãnh đạo đó, có biết điều hành tổ chức, hay xã hội phức tạp đó hay không

  • – Người lãnh đạo giỏi, là người biết dựa vào trí tuệ và sức mạnh của tập thể, để xây dựng nên kế hoạch, và biết ứng dụng – điều hành tập hợp tập thể, để tạo nên thành công cho kế hoạch – phát triển tổ chức
  • – Người lãnh đạo tài tình, là người trầm tĩnh – nhạy bén, biết hóa giải bất cứ mọi tình huống xảy ra
  • – Muốn có được một thế hệ trưởng tử Như Lai, với đầy đủ uy lực – đức độ – tài năng. Người điều hành – lãnh đạo hôm nay, không ỷ vào bề dày sinh hoạt – cấp bậc cao. Mà phải cấp thiết, với tấm lòng mẫn ái – cởi mở – vị tha – độ lượng. Mạnh dạn gát mình qua một bên, không tự ngã – nghi ngờ. Hy sinh – thiết tha vì sự nghiệp phát triển tổ chức. Người lãnh đạo tài ba, là người biết ròng rã thắp đuốc đi tìm – phát hiện, tô bồi nhân tài, và xử dụng đúng tài năng
  • Cấp thời – tích cực có kế hoạch lâu dài, chú ý bồi dưỡng đào tạo đối tượng – đội ngũ lãnh đạo kế thừa. Đây là vốn liếng, là nguồn sáng tạo năng lượng – nuôi dưỡng tiềm năng – sự tồn tại sống còn của tổ chức
  • Tập trung vào thế hệ 50, để sẵn sàng thay thế lãnh đạo – được chuyển giao từ thế hệ 60 – 70 – 80… (lệ thuộc bởi quy luật vô thường tấn tốc)
  • Chuẩn bị thế hệ 40, để đưa vào lãnh đạo, đảm nhận các chức vụ, ở các bộ phận chuyên môn – chuyên năng – các cấp… • Đặc biệt quan tâm – chú ý, những nhân tài ở thế hệ trẻ 20 – 30. Có kế hoạch dài hơi – chuẩn bị chu toàn, cho thế hệ này tiếp cận, phụ tá – tập sự lãnh đạo
  • Trong hệ thống tổ chức các cấp GĐPTVN, chúng ta nhìn thấy, hội đủ các chức danh, có tầm cở quy mô – hoành tráng. Nhưng, trên thực tế, còn có nhiều điều đáng tiếc – bất cập xảy ra. Hầu hết chúng ta đều dựa trên cơ sở cấp bậc – sinh hoạt lâu năm, cơ cấu vào các chức vụ, mà thiếu chú trọng – mạnh dạn lựa chọn – đề bạt nhân tố tích cực – đạo đức – tài năng – kỷ năng chuyên môn – chuyên nghiệp, đẫn đến không phù hợp với nhiệm vụ – khả năng – sức khỏe, của từng đối tượng – nhân thân. Có chức vụ, chỉ có hình thức, thiếu năng động, không có tác dụng cụ thể – thiết thực, làm trì trệ – ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động của tổ chức. Chưa nói là dẫm chân tại chỗ, chưa nói là làm nãn lòng – cản trở – cấn cái, làm cho nhiều HTr trẻ năng nổ – có nhiệt huyết, phát huy – cống hiến hết tài năng, góp sức phụng sự tổ chức
  • – Tổ chức trao cấp, là giao cho anh một sứ mệnh nặng nề, phải gánh vát lo toan vì sự tồn tại – vững vàng của tổ chức, chứ không phải trao, để cho anh tự phong cho mình một quyền uy tối thượng, để thỏa mãn tham vọng, lên mặt kẻ cả, lấn lướt người trên – chèn ép người dưới, coi nhẹ cấp thấp, xem thường tuổi trẻ, đè nén tài năng
  • – Xin hãy thành tâm nhìn lại chính mình, mạnh dạn nói không với phong cách làm việc thiếu tôn trọng – thiếu lòng tin tưởng – thiếu khoa học – thiếu hiện đại hóa. Nóng nãy – thể hiện quyền lực – ganh tỵ – hẹp lượng. Không biết lắng nghe, không khắc phục – sửa sai, không đổi mới tư duy, lạc hậu – lỗi thời trong thời kỳ mở rộng – hội nhập. Là sức ỳ, làm cản trở – trì kéo tài năng, làm chậm bước sự phát triển tổ chưc: nghi ngờ – độc đoán – ôm việc – bao biện – làm thay – không biết dừng lại. Mạnh dạn truyền trao nhiệm vụ lãnh đạo – tổ chức – điều hành các hoạt động Phật sự, dưới sự cố vấn tài tình của HTr đã trưởng thành, để bồi dưỡng – rèn luyện – thử thách tài năng trẻ

Tài năng không phải muốn hô lên là có, mở mắt ra là bắt gặp. Mà phải mỏi mòn chờ đợi, vun bồi – nuôi dưỡng – chăm chút tận tình. Phải có sức kích thích lớn, làm bừng nở tinh hoa, vươn lên đỉnh cao thời đại. Được như vậy, kỳ vọng trong tương lai, chắc chắn dòng chãy GĐPTVN, không dễ dàng bị dứt đoạn, mà còn tạo nên kỳ tích, một sức mạnh diệu dụng vô biên – viết thêm trang sử mới, huy hoàng – hùng tráng, làm chuyển biến, kiện toàn – phát triển tổ chức, làm mới – thăng hoa đẹp đẽ thêm hơn

Lịch sử đã minh chứng, trong giai đoạn phôi thai – của những thập niên 40 => 70, thời kỳ vàng son – vẽ vang nhất, vận mệnh của tổ chức đều nằm cả trong đôi tay trẻ trung vững chãi, của thế hệ 20 – 30 lúc bấy giờ, đã làm nên biết bao kỳ tích để đời, còn lưu truyền đến cho chúng ta hôm nay và mãi mãi đến các thế hệ ngàn sau

Đức Phật là một nhà đại cách mạng. khởi đăng trình tử lứa tuổi 20 – 30, hơn bốn mươi năm ròng rã, với những lời thuyết giảng như sư tử hống. Đức Phật đã xua tan màn đêm, xóa bỏ mọi thành trì ngã chấp – bất công, xua tan mê mờ đau khổ, mang đến toàn bộ hạnh phúc – ánh sáng chân lý cho toàn nhân loại

GĐPTVN có mặt trên đất nước này với biết bao gian nan thử thách, đối măt trước những thách thức khắc nghiệt. Đứng trước giai đoạn lịch sử nghiệt ngã này, người HTr lãnh đạo, phải với tấm lòng son sắc, luôn luôn hâm hấp – thao thức trước tiền đồ Tổ chức – Đạo pháp – Dân tộc. Với khí tiết vô úy – không khom lưng – cúi đầu – nô dịch. Với uy lực kỳ vĩ – tạo nên kỳ tích, tĩnh tại – tuệ giác – uyển chuyển, có năng lực huyền nhiệm làm chuyển hóa thế cục. Sẵn sàng hy sinh – dấn thân phụng sự – bảo vệ chính nghĩa đến hơi thở cuối cùng

Phải với ý chí dõng mãnh, với tinh thần vô úy hy sinh, với lý tưởng cao cả, với tình thương vô biên, người Huynh trưởng GĐPTVN mới quên mình, dấn thân nhập thế, làm nên một cuộc cách mạng vinh quang kỳ vĩ cho tương lai GĐPTVN – đạo pháp – dân tộc sáng láng hơn ./-




SỨ MỆNH GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM

SỨ MỆNH
GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM

Mỗi đơn vị GĐPT là tế bào của tổ chức, được phát triển và tồn tại giữa cộng đồng dân cư. Muốn tạo nên một sức mạnh, thì mỗi đơn vị GĐPT phải được chỉ đạo – hướng dẫn – cầm tay chỉ việc, định hướng đúng đắn – sáng tỏa – nhạy bén sâu sắc, phù hợp với tình hình mới

Chúng ta nghiêm túc mà nhìn nhận rằng, các hoạt động của nhiều GĐPT hầu như còn rất yếu, chưa chỉnh chu hoàn bị lắm, còn cầm chừng, còn dẫm chân tại chỗ, ỷ lai, mong chờ. Nguyên nhân, do Huynh trưởng chưa thể hiện trọn vẹn vai trò lãnh đạo của mình. Hoặc năng lực còn hạn chế, hoặc do nhận thức chưa sâu sắc, hoặc do nhiệt tình phụng sự chưa cao, hoặc do trở lực này – chướng duyên khác… làm ảnh hưởng đến năng lực hoạt động

Thiết nghĩ, người lãnh đạo phải mang tâm trạng của một người đi tìm hướng sống, tìm cái hay – cái đẹp, cái chân thiện mỹ cho cuộc đời. Phải thao thức với những khám phá mới lạ một cách nhiệt thành. Không nên có tâm trạng của một người đi qua rừng trầm hương, mà không thưởng thức được mùi hương. Tắm mình trong dòng ánh sáng Phật pháp, mà không nhận thức được chân đế. Hoặc bọc trong mình hạt minh châu, mà không biết là châu ngọc. Không thiết tha trân quí, không thẩm thấu được luồng sinh khí mới mẽ, để mang lại một kết quả tốt đẹp hơn

Chúng ta sẽ rất thất vọng, nếu là một nhà lãnh đạo, mà không có một nhiệt tâm quên mình vì tổ chức. Không có một kế hoạch, một hướng nhìn sâu sắc. Không vạch ra một phương hướng mới mẽ để hành đạo, để khế cơ phù hợp xác đáng với tình hình. Thấy trầm lắng mà cứ thỏng tay, thấy dậm chân mà cứ chùn bước. Tối ngày chỉ biết loay hoay, đoanh vây trong tháp vàng, với những hương đăng nghi ngút, giữ mãi những hình thái sinh hoạt, không còn đáp ứng phù hợp với những nhu cầu cấp thiết mới, tức là làm một việc làm vụng dại – ấu trĩ. Nếu cố chấp bảo thủ mãi những hình thức sinh hoạt lỗi thời, tức là vô tình đẩy lùi xã hội, và làm cho tổ chức GĐPTVN thoái hóa, khô héo dần trong xác cũ

GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM

“Bồ đề bổn vô thọ
“Minh cảnh diệt phi đài
“Bản lai vô nhất vật
“Hà xứ nhá trần ai”

– Kinh Pháp Bảo Đàn

Hết thảy vạn pháp không lìa tự tánh, bởi tự tánh vốn tự thanh tịnh, không sanh – không diệt

Tự tánh không nhiểm thiện – ác, thì thiện ác không có cơ sở để tác hại. Tự tánh vốn thanh tịnh, bởi vì bản thể của ánh sáng là trong vắt, là bát ngát vô cùng. Một gợn mây trôi qua, tạo nên một khoảnh khắc tối tăm. Cụm mây là vọng thức, tối tăm là khổ não. Vọng thức thì còn có sai biệt. Nhưng vượt lên trên vọng thức, thì chơn tâm vẫn hiển hiện, vẫn trong vắt không hai. Suy nghĩ đến việc ác, tức khắc địa ngục hóa thành, khổ đau dồn dập đưa đến. Nhưng suy nghĩ đến việc lành, thì thế giới hiển bày tịnh độ, an lành bình yên đưa đến

GĐPTVN đã trải qua nhiều triều đại, các triều đại mong manh như cánh bèo trội dạt trên sông. Triều đại này quằn quại cuốn qua, rồi triều đại khác lại bập bềnh trôi đến, cứ mãi miết – trình tự theo định luật thịnh – suy, do nhân quả – nghiệp duyên chuyển biến vô thường. Nhưng ở bất cứ dưới triều đại nào, GĐPTVN vẫn bị bức hại – hất hủi, đối xử tệ bạc, nếm trải biết bao sóng gió khắc nghiệt ức lòng. Hãy lắng lòng nhìn lại, tổ chức GĐPTVN đã vương mang phải nghiệp dĩ gì ? Hãy đánh giá lại xem, GĐPTVN là tốt hay xấu ? nếu là tốt, tại sao các thế lực vô minh, luôn luôn âm mưu – tìm cách vùi dập, vô hiệu hóa các hoạt động. Còn nếu xấu, thì tổ chức GĐPTVN đã xấu ở chỗ nào ?

Có phải nó xấu, bởi vì nó có cái tâm, thiết tha muốn làm mới – làm đẹp – làm trong sạch đạo pháp – xã hội. Cái quá mới mẽ chói chang, đã làm lóa mắt – choáng váng những tâm hồn đen đúa – thiển cận – cố chấp – hẹp hòi – vị kỉ… Bởi vì cái thiên chức kỳ vĩ của GĐPTVN là đi ngược lại dòng đời “lắng đục – khơi trong”. Như cánh sen trắng muốt vươn mình vượt thoát khỏi mặt nước ô nhiễm, không để bùn nhơ tanh hôi làm vướng bẩn trần tục hư danh. Nhưng đời thì luôn luôn rối rắm, ẩn khuất những tham vọng từ mọi ngỏ ngách đen tối sâu kín của tâm hồn. Hay nó xấu, bởi vì nó mang tính tự do – nhân chủ– khai phóng – giải thoát, hoàn toàn chân chính, không dễ dàng cúi đầu khuất phục trước bạo lực vô minh, hô hào rổng toếch, thiếu tôn trọng, ngấm ngầm tước đoạt, dẫm đạp lên tự giác – tự do – nhân chủ, quyền hạn tối thiểu con người.

Nguyễn Trãi đã chết vì bị kết tội tru di cửu tộc, bởi vì ông quá trong sạch. Sự trong sạch đáng nêu gương, đã làm cho kẻ xấu xa lo lắng – hãi sợ, mưu toan – tìm cách trừ khử. Nguyễn Trãi là một vị công thần, có công rất lớn đối với quốc gia, giữ trọng trách trong triều đình. Nhưng sống một cuộc đời thanh sạch, chỉ nhận cho mình vài chục mét đất trồng rau, đủ để giải quyết cuộc sống ẩn nhẩn – tri túc. Sau khi dụ dỗ – mua chuộc – lôi kéo không được nhà văn hóa đại tài. Bạo quyền triều đình, móc nối – lôi kéo bọn cơ hội – hình đồng – nô dịch, lên án người hiền thần. Nhưng Nguyễn Trãi vẫn tĩnh tại, sẵn sàng ra pháp trường, chịu hành quyết oan khuất cùng dòng họ chín đời, với bản án man rợ “tru di cửu tộc”. Lịch sử bi đát – ô nhục này, vẫn lưu mãi nghìn đời nguyền rủa

“Khi tà mê khởi: Ma làm chủ
“Khi chánh kiến sanh: Phật ngự tòa”
– Kinh Pháp Bảo Đàn –

Khi mà vô minh đã khởi lên rồi, danh lợi bon chen, gót chân nhiễm bụi, tâm ma dấy động lọc lừa, nỡ đành đánh mất lương tri, xa rời biết bao chân tình trân quí

“Lạy mà đầu không sát đất, sao bằng đừng lạy. Trong lòng ngươi chắc còn một vật. Ôm giữ cái gì thế?” – Kinh Pháp Bảo Đàn –

Ôm giữ cái gì thế? Đó là cái ngã chấp đạo đoạn. Cứ ngỡ rằng ta là trung tâm vũ trụ, thế giới này phải nể vì, cúi đầu vâng phục trước hư vị tanh hôi…

Tại sao hàng ngũ xuất gia ngày nay, có vẻ e dè khi tiếp xúc với GĐPT. Có phải vì GĐPTVN là một đội ngũ cận sự quá gần gũi, quá thẳn thắn, nhận thức đúng đắn, thấy rỏ được mặt trái quá đời thường… Hay như đã thường bị đánh giá oan uổng, là hàng ngũ Huynh trưởng Phật tử quá ngạo mạn, ít khiêm cung. Đây là vấn đề nhạy cảm – tế nhị, mà hai bên cần phải cẩn trọng xem lại phong cách hành xử của chính mình

Nhưng điều đáng nói hiện nay, là tổ chức GĐPTVN chưa được Giáo hội – hoặc nhà nước đặc biệt coi trọng. Mặc dù nhiều cấp lãnh đạo đã nhìn thấy được các mặt hoạt động vững mạnh, phát triển – đóng góp thiết thực. Trong tương lai, GĐPTVN có được đánh giá cao hay không, là tùy thuộc vào nội lực của chính lực lượng thế hệ Huynh trưởng Phật tử hiện có. Đội ngũ này phải làm gì, và làm như thế nào, là tùy thuộc vào sự nêu gương – truyền thừa tài tình của thế hệ đi trước, và tùy thuộc chính đáng vào sự nhiệt tâm của mỗi Huynh trưởng PT tại hàng. Nếu thực sự, những sản phẩm tạo ra có giá trị thiết thực, hòa nhập tích cực vào đời sống cộng đồng, tạo nên một chuyển biến hiện thực, thì nghiễm nhiên uy tín sẽ được nâng cao, thế đứng chắc chắn sẽ được vững chãi trong lòng quần chúng. Như vậy Giáo hội và nhà nước không thể mặc nhiên tọa thị – thờ ơ xem nhẹ được
Nếu phủ nhận đây đó các tổ chức GĐPT trãi dài trên khắp cả nước, là chưa tôn trọng tự do, chưa thể hiện trọn vẹn, đúng nghĩa của việc củng cố, xây dựng và phát triển Giáo hội – xã hội toàn diện. Nguyên nhân diễn ra, là do một thiểu số cá biệt hẹp lượng, thậm chí mức độ hoạt động còn thiếu mục đích lý tưởng son sắc, nửa mùa, còn để cho lợi quyền cá nhân ma thuật – lấn át lương tri. Nhưng không thể vì thế, mà vội vàng phủ nhận sự đóng góp to lớn của GĐPTVN đối với Giáo hội, đối với nền văn hóa – giáo dục nước nhà

  • Đối với Giáo hội, GĐPTVN đã có những đóng góp tích cực rất lớn, luôn luôn sát cánh cùng Giáo hội trong những giai đoạn giao thời – đấu tranh tắm lửa – xối dầu, trong công cuộc chấn hưng và xây dựng thành công Giáo hội
  • Đối với xã hội, GĐPTVN đã góp phần thực tiễn trong công cuộc chuyển hóa xã hội. Xây dựng hoàn chỉnh nền văn hóa toàn thiện, góp phần giáo dục – tài bồi hiền tài cho đất nước mai sau. Làm bừng nở biết bao tinh hoa tốt đẹp, góp phần phụng sự dân tộc, làm sống lại nguồn sinh lực tự hào trong công cuộc dựng nước và giữ nước vẽ vang của cha ông, của bao lớp tiền nhân đi trước. /-




Sơ Tâm Tu Phật

Sơ Tâm Tu Phật

Khi mới bước chân vào đạo, với tấm lòng nhiệt thành, thiết tha mong muốn tu học Phật pháp khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Như một tờ giấy trắng trinh nguyên, tiếp xúc Phật pháp – thấm đẫm mùi thiền.

Nhưng thời gian trôi qua, thối tâm chuyển đổi. Cho nên có câu:

“Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật”.

Ngày đầu đến chùa tín tâm tu theo Phật, nhưng càng về sau sanh tâm giải đãi, thì thấy Phật xa đầu! Điều đáng buồn, lẽ ra, nên tinh tấn thực tập tu học để thăng tiến:

“Bền tu như lấy lửa cọ cây”.

Còn nếu giải đãi tu tập, không thấy tiến bộ, không ngộ Phật tri kiến, thì nên bỏ công đi tìm minh sư khác, hay pháp môn tu khác phù hợp với khả năng của mình. Đằng này, lại trở nên nghi ngờ Tam bảo, nghi ngờ luôn cả bản thân, xem thường chuyện tu học. Cuối cùng, trở thành một kẻ Nhất-xiển-đề, một tên bá ngọ tội đồ phá đạo!

Nhất-xiển-đề, Phạn ngữ: Icchantika, là một khái niệm nói về một hạng người đặc biệt nguy hiểm trong đạo Phật, hạng người này luôn luôn tồn tại háo danh – thỏa mãn tham vọng ngông cuồng.

Theo dịch nghĩa chữ Hán:
Nhất-xiển-đề là bất tin hay tin bất cụ, là kẻ ác tâm – là người cực ác – là kẻ làm việc tội lỗi mà chẳng biết hổ thẹn – chẳng chịu hối cải, không tin luân hồi – nhơn quả – kẻ chẳng gần với thiện hữu tri thức, là người dứt tất cả các căn bổn lành, lòng không dính dấp với pháp lành. Không nảy sanh tư tưởng lành – không có lòng tin vào Tam bảo, vào lý nhân quả – duyên sinh – nghiệp báo. Trong Kinh Niết Bàn có dạy:

“Người phạm tội Nhất xiển, là người dứt tất cả các căn bổn lành, lòng không dính dấp với một pháp lành, cho đến không hề nảy sanh một tư tưởng lành.

“Những kẻ Nhất-xiển-đề dầu có Phật tánh nhưng cái Phật tánh đó bị vô lượng tội cấu bao bọc chung quanh cho nên nó chẳng xuất hiện ra được tỷ như con tằm bị bao bởi cái kén. Bởi nghiệp duyên của họ chẳng phát sanh được cái bồ đề diệu nhơn, họ lưu chuyển mãi trong bể sanh tử chẳng bao giời dứt.

“Tỷ như có người bệnh kia dầu gặp thầy giỏi, thuốc hay, dầu được kẻ chăm sóc, chăm nom cũng chẳng hết bệnh. Mà dầu chẳng gặp thầy gặp thuốc, chẳng được chăm sóc bệnh nhơn cũng chẳng dứt. Kẻ Nhất-xiển-đề cũng như vậy, dẫu gặp thiện hữu tri thức – Bồ tát – chư Phật và nghe được diệu pháp, hay dầu chẳng gặp họ cũng chẳng hề phát tâm tu hành để cầu thành Phật đạo”.

Trong kinh Tăng chi (chương Ba pháp, phẩm Ba hạng người), hạng người gọi là “không hy vọng”,  được mô tả như sau:

“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người không hy vọng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người ác giới, tánh tình độc ác, sở hành bất tịnh, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, những hiện tướng là Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, chứa đầy tham dục, tánh tình bất tịnh”.

Cũng theo kinh Tăng chi (chương Bốn pháp, phẩm Kesi), Đức Phật mô tả hạng người này như sau:

“Bị giết hại, này Kesi, là con người này, trong giới luật của bậc Thánh, bị Như Lai nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới”.

Rõ ràng, họ không còn coi trọng giới luật, nên không còn xứng đáng được thọ giới. Và tất nhiên, họ cũng chẳng màng đến chuyện họ có được xem là Phật tử hay không!

Theo kinh Đại bát Niết-bàn (quyển 1):

“Nhất-xiển-đề là kẻ dứt tuyệt gốc rễ của mọi điều lành, lòng không nương theo bất cứ pháp lành nào, thậm chí chẳng sanh được một niệm lành”. Làm người, ai cũng từng có lỗi lầm. Nên Phật có nói về hai hạng người tốt:

  • Một là người chưa bao giờ lầm lỗi.
  • Hai là người có lỗi mà biết ăn năn, hối quá, sửa sai.

Kẻ gọi là Nhất-xiển-đề đã không còn biết tàm, biết quý. Họ đã trở thành một chuyên gia lừa đảo (con artist), không sợ nhân quả – không tin chánh đạo, chỉ hám danh – nghĩ đến lợi lạc cho riêng mình, dùng mọi thủ đoạn, lợi dụng danh nghĩa Phật pháp để cầu danh – mưu lợi cá nhân.

Dù có hám danh, như ngài Cầu Danh Bồ-tát (tiền thân Phật Di Lặc) được mô tả trong kinh Pháp Hoa. Nhưng biết hổ thẹn – sợ nhân quả, vẫn có cơ hội tu tập giải thoát. Đây là điểm chính yếu mà Phật đã dạy trong kinh Trung Bộ (kinh số 27):

“Phật lấy hình ảnh người thợ rừng theo dấu một con voi lớn, để giải thích làm cách nào đệ tử đạtđến sự xác tín hoàn toàn đối với chân lý Ngài dạy” (Ni sư Trí Hải dịch).

Tu tập thành tựu theo những điều Phật dạy: Như gã thợ rừng theo dấu chân voi. Là mục đích tối hậu mà Đức Phật muốn truyền trao giáo pháp.

Có nhiều mẩu chuyện rất cụ thể trong đời thường để chúng ta rút ra kinh nghiệm:
Câu chuyện về một nhà tâm lý dạy cách nào để có hạnh phúc, nhưng chính ông ta, khi bị hỏi, ông rất lúng túng vì đời sống của ông ít khi có hạnh phúc.

Hay, một vị sư, có một người đệ tử, nhờ sư khuyên bảo con của người này bỏ hút thuốc, nghiện rượu… Nhưng oái oăm thay chính vị sư kia cũng đang hút thuốc và uống rượu.

Hoặc, một bác sĩ chuyên trị bệnh cho bệnh nhân. Nhưng bản thân thì thường xuyên mệt mỏi, hay đau yếu v.v…

Trên đây là những trường hợp điển hình cụ thể đang xảy ra nhan nhản giữa đời thường. Người tu Phật phải tỉnh táo – thận trọng – biết ứng dụng lời Phật dạy, giữ vững tâm Bồ-đề, không để bị rạn nứt — thối chuyển.

Giác Ngộ online ngày 29-5-2017 đã nêu lên ‘Ba nhóm vấn nạn tiêu biểu’ hiện đang xảy ra nơi các tự viện – chùa chiền:

  • Nặng về khuynh hướng cầu danh – tư hữu cá nhân, phát triển cơ sở vật chất, chùa to – Phật lón.
  • Không có khả năng quản trị ngôi đạo tràng. Có xu hướng tà mạng, cúng kính linh đình thiên về tha lực ngoại giới.
  • Lạm dụng các tiện ích công nghệ thông tin để xiển dương bản ngã tà kiến – biên kiến – kiến thủ.

Đây là những tín hiệu cho thấy, khuynh hướng Nhất-xiển-đề nguy hiểm, đang bành trướng lan rộng ngày càng mạnh trong Phật môn.

Theo: PHDS của Ni sư Đức Trí và Nhất xiển đề – Sơ Tâm của Thiện Ý.

 




SÓNG GIÓ MỘT KỲ THI

SÓNG GIÓ MỘT KỲ THI

Thực hiện chỉ đạo của Ban Điều Hành Bậc Lực Ban Hướng Dẫn Quốc Nội GĐPTVN. Hôm nay 09/01/2011, tất cả các Hội đồng thi trên cả nước đồng loạt diễn ra

Từ nhiều tháng nay, Ban Điều Hành Bậc Lực Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận, tất bật lo toan các điều kiện, giúp cho toàn thể học viên bậc lực trong các năm 1 – 2 – 3 – 4 (Bình Thuận không có năm thứ 5) bước vào kỳ thi kết khóa năm 2010. Mặc dù biết bao lo toan nặng trĩu trên vai, các anh – chị trong Ban Điều Hành vẫn hoan hỷ – tích cực để kỳ thi được viên mãn

Nhưng có ngờ đâu, gần đến ngày thi, ma chướng lại hoành hành. Như những vong hôn vất vưỡng hù nhác những ai yếu bóng vía, dưới sự chỉ đạo của Phân ban quốc doanh, Sở Nội Vụ – Công An Tỉnh – Phòng Nội Vụ – Công An các huyện – thị lùng sục các chùa hù dọa – răn đe các Thầy. Tủi hổ thay, có nơi – có thầy đã run sợ – khiếp nhược trước dã tâm cường quyền, cúi đầu trước thế lực vô minh, từ chối trách nhiệm trưởng tử Như lai – từ chối sự lãnh đạo tinh thần – từ chối tiếp nhận sự miệt mài tinh tấn Tu – Học trường kỳ của Huynh trưởng GĐPTVN

May mắn thay, trong bóng tối của đêm đen, của những tâm hồn nhầy nhụa với những tâm ma dẫy đầy tham vọng tanh hôi nhơ nhớp, còn có những ánh sáng hùng lực chói chang. Chùa Huệ Đức – huyện Hàm Tân, sẵn sàng đối mặt trước những thách thức dọa dẫm tiểu tâm hèn hạ, Đại đức Trụ trì đã từ bi ưu ái, mở rộng vòng tay cao cả, sẵn sàng đón nhận những mảnh đời chơ vơ lưu lạc, thiết tha tìm về với ánh sáng chân lý cao thượng. Có những dấu hỏi to lớn đã được đặt ra, thế gian này còn có công lý sáng suốt hay không, tự do tín ngưỡng có phải chỉ là bánh vẽ dành cho những ai đó khờ khạo dễ tin với những hình thức phỉnh dụ – lừa dối – giả tạo – hào nhoáng bên ngoài. Nếu thực sự có tự do – độc lập, thì tại sao còn có những tâm hồn nhiệt huyết với tiền đồ tổ chức – đạo pháp – dân tộc, lại bị đẫy vào chốn vong thân nghiệt ngã trên chính quê hương của mình – đất nước của mình – dưới một thể chế độc lập – tự do – hạnh phúc nhất!

Trước cơn bão dữ gầm gừ – đay nghiến, chực chờ đe dọa đây đó. Được sự thương yêu đùm bọc – chở che của Thầy, được sự sách tấn của Ban Hướng Dẫn của Ban Điều Hành Bậc Lực của Hội Đồng Khảo Thí, nhất là sự vô úy – quyết tâm của Ban Điều Hành lớp, đã gieo niềm tin kiên cố vào tổ chức, vào ánh sáng chân lý tuyệt vời cao thượng, tất cả thí sinh Bình Thuận đồng lòng, như nước với sửa hòa quyện vào nhau – keo sơn gắn bó – Tình Lam thắm thiết, đoàn kết xiết chặt tay nhau, chung sức chung lòng, chung một con đường – chung một lý tưởng cao siêu vời vợi. Có những hình ảnh thật dễ thượng – rất xúc động – đáng trân trọng. Trong điều kiện (chạy giặc – di tản) khó khăn, tất cả thí sinh đều bò lết dưới nền nhà, miệt mài làm bài, mà không có một lời than thở. Đặc biệt đáng nêu gương, tại cuộc thi, còn có cả Huynh trưởng thí sinh, tuổi đời đã trên 80 mươi, râu – tóc bạc phơ, đơn vị cách xa hàng trăm cây số, không nề hà tuổi cao sức yếu, tự khắc phục bệnh tình, tinh cần bám sát chương trình, quyết tâm theo đuổi bậc học đến cùng

Theo qui định, 08 giờ 00 mới bắt đầu vào thi, thế mà mới có 06 giờ 30, đã có Huynh trưởng có mặt tại địa điểm thi, sẵn sàng đối mặt với thực tại cam go – thách thức với khắc nghiệt. Sự vững vàng vô úy này, đã làm cho thế lực vô minh, những tâm hồn hẹp hòi đen đúa, run sợ trước một tinh thần vô úy kiên trung – thà hy sinh cả thân mạng vì chính nghĩa để cúng dường chư Phật, chứ không hề vô tâm – nô dịch – thui chột, đành đoạn để cho tâm bồ đề thối thất. Tình Lam như dòng cam lồ mát rượi tưới tẩm yêu thương, làm cho thí sinh bậc Lực Bình Thuận cảm thấy ấm áp yên lòng, tĩnh tại vượt qua thử thách, kỳ thi diễn ra nghiêm túc, kết quả đạt được toàn mãn

Mùa Xuân cũng sắp đến, năm cũ cũng sắp qua, hy vọng vào một ngày mai rạn rỡ tươi sáng hơn. Những cái gì lạc hậu – cũ rích – hẹp lượng – cố chấp, kỳ thị bất công – làm mất nhân tâm – xa rời quần chúng, phải được nhanh chóng thay đổi, đối xử bình đẳng, kịp thời mở cửa thông thoáng hơn, để cho những lời bức súc ta thán – không còn lặp lại nữa, đất nước có thêm cộng lực – tinh thần vật chất cân đối, đạo đức yên bình, thì lo gì không đủ nội lực sánh vai cùng với năm châu – bốn biển, tạo nên sức mạnh Lý – Trần ./-




SINH HOẠT GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

SINH HOẠT GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

Vào dịp Lễ hội Vu Lan, Mẹ dắt em lên chùa từ rất sớm. Em quanh quẩn bên Mẹ. Quý bà – quý cô quây quần xúm xít bên nhau gói bánh. Những chiếc bánh ít – bánh cúng – bánh chưng trắng phau, gói mình trong những chiếc lá chuối xanh, được vớt ra từ những chiếc nồi to bốc hơi nghi nghút, phưng phức thơm tho mùi nếp mới hòa quyện nhân đậu xanh.

Dưới bóng Chân Như – Đức Phật từ bi mỉm cười hỷ xã. Mẹ và em gối quỳ – trang nghiêm, chấp tay sì sụp lễ lạy – dị khẩu đồng âm – trầm lắng hòa quyện theo từng dòng kinh văn cúng dường Đức Từ Phụ.

Em lân la – rụt rè bên gốc Bồ đề nhìn xem quý anh – chị chung cùng một mầu áo khói hương hiền hòa – không phân biệt tuổi tác, tuổi thơ – thiếu niên – trung niên hay người cao tuổi, không phân biệt giai cấp sang hèn, cao học hay ít học, công chức hay thợ thầy – công nhân, giàu có hay khốn khó, ‘Sĩ – Nông – Công – Thương – Dân – Quân – Cán – Chính’ bình đẳng như nhau, cùng chung mầu áo hòa hợp, cùng nhau vỗ tay – hát bài ca “Đây gia đình cùng nhau chung thân ái …” mà lòng thấy nao nao ước muốn.

Tối về, em vòi vĩnh xin Ba cho lên chùa – đến với Gia Đình Phật Tử. Mẹ may cho em chiếc áo lam xinh xắn. Xúng xính trong muồi vãi mới, Ba cầm tay – đưa em lên chùa. Trong đôi mắt dịu hiền – khả ái, chị trưởng dìu dắt em vào Đoàn. Mới tám tuổi bỡ ngỡ – thơ ngây như một tờ giấy trắng nỏn nà. Em được ấm áp trong vòng tay vững chãi từ ái của quý anh – chị trưởng, hướng dẫn – vẽ lên tờ giấy trắng đời em từng nét bút đầu đời – thấm đẫm từng hướng đi thẳng tắp. Em tập tễnh sinh hoạt – tu học từ đó.

Áo lam – quần Short xanh dương – nón Tứ ân trầm hùng tĩnh tại – vững chãi của người Nam Phật tử, chiếc áo dài lam thướt tha – chiếc nón lá xinh xắn dịu hiền thân ái của người Nữ Phật tử. Đàn em – như những cánh chim lam bầu bĩnh trong trắng từ mọi ngã hướng đường đời ùa về, xúm xít quây quần quanh anh – quanh chị, cùng nhau tay trong tay:

“Chúng ta là chim bốn phương bay về đây…
Nguyện đem gieo rắc khắp nơi ánh vàng !”.

Ý nghĩa màu áo lam:
Sau lễ ra mắt chính thức tái sinh hoạt Gia Đình Phật Hóa Phổ ‘ngày 08.12 năm Mậu Tý, tức chủ nhật ngày 06.01.1949’ tại chùa Từ Đàm – Huế. Đến cuối năm 1949, thì tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ ‘GĐPTHP’ đã có mặt, sinh hoạt khắp ba miền Nam – Trung – Bắc, nhưng chưa có đồng phục chính thức.

Năm 1950, Ban Hướng Dẫn ‘BHD’ GĐPHP – Thừa Thiên được hình thành. Chính BHD đầu tiên này đã hội họp nhiều lần và đi đến thống nhất chọn màu lam – màu khói hương trầm, làm màu sắc chính cho màu áo của tổ chức. Trong bản tường trình lên Tổng Hội có viết: “Đây là màu khói hương trầm, tổng thể của mọi màu sắc, nói lên được tinh thần đồng sự, bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật, không phân biệt giàu nghèo – sang hèn – quý tiện – nam nữ, nói lên được chí nguyện xả thân của người Phật tử.”

‘Muốn có màu lam, lấy mực Tàu mài đặc hoặc tán nhuyễn, hòa với màu xanh dương, đun sôi, nhuộm vải màu trắng, giặt sạch, là ra màu lam’.

Bấy giờ chẳng những công nhận cho GĐPHP sử dụng màu lam là màu áo chính thức, mà Tổng Hội còn quyết định đây là màu áo thường ngày ‘nhật bình’ của Chư Tăng – Ni.

Từ khởi đầu bản tường trình lên Tổng Hội Phật Giáo, màu áo lam đã thấm nhuần ý nghĩa:

  • Màu Lam là màu khói hương trầm, tượng trưng cho sự thanh khiết – hướng thượng cao cả.
  • Màu lam là màu hoại sắc, không loè loẹt, tổng hợp của nhiều màu, nói lên tinh thần bình đẳng tuyệt đối của Đạo Phật.
  • Đồng phục màu lam còn toát lên ý nghĩa “đồng sự” của Đoàn sinh GĐPT. Vào GĐPT, gia nhập tổ chức áo lam, luôn giữ gìn nhân cách, phẩm hạnh để tự truyền Phật Đạo, tự thân quật ngã “Cái tôi” trong tinh thần xây dựng tự ngã hoà đồng.
  • Luôn tâm niệm màu lam: Thiêng liêng – tôn quý, nhưng gần gũi – hòa đồng. Khoác lên đồng phục màu áo lam, ta thấy tâm hồn cởi mở – phóng khoáng – cao thượng – dễ tha thứ.
  • Không mặc đồng phục áo lam trong lúc làm việc mưu sinh. Không mặc áo lam mà ăn mặn, vì đồng phục áo lam là lễ phục của tổ chức GĐPT.
  • Quý kính áo lam, quyết tâm tự tiết chế, không vi phạm sai lầm, quyết làm những việc lợi ích cho quần sanh để xứng đáng với ý nghĩa màu lam: Có hiếu với cha mẹ, thuận thảo với anh chị em – bạn bè… sẵn sàng giúp ích mọi người.
    ( Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549 )

Ý nghĩa quần Short xanh dương:
Màu xanh dương là một trong bảy màu sắc cầu vồng, là một trong ba màu gốc cơ bản: vàng và đỏ. Màu xanh dương còn được gọi là màu xanh lam hoặc màu xanh nước biển, tiếng Anh là blue. Một trong những đặc điểm thú vị là được khúc xạ bởi mắt người, khi nhìn vào một không gian hoặc vật thể có màu sắc xanh dương thì có cảm giác xa hơn – nhỏ hơn và sâu hơn.

Màu xanh dương là màu của tuổi trẻ, nhiệt huyết – sáng tạo, có nhiều ý nghĩa:

  • Nhẹ nhàng, biểu hiện cho sự tinh tế – tươi mới – mát mẻ, tạo nên sự phấn khởi.
  • Biểu hiện cho lòng tin – giá trị – sự thật – sự an toàn – chính nghĩa, có trách nhiệm – quyết đoán cao.
  • Khởi đầu một buổi sáng tươi mới – mênh mông – rộng lớn, cảm thấy bình yên và thoải mái.
  • Đại diện cho tình yêu và sự bất tử.

Ý nghĩa nón Tứ Ân:
“Tứ ân” là phạm trù đạo đức, thể hiện ân tình giữa con người với con người.
Trong Kinh Tâm Địa Quán – Phẩm Báo Ân, Đức Phật Thích ca đã dạy: Phàm là con người phải ghi nhớ Tứ ân. Đó là:

Ân cha mẹ – Ân chúng sanh – Ân quốc gia xã hội và Ân Tam bảo.

Trong Tứ ân, đứng đầu là Ân đức của cha mẹ dành cho con cháu. Mỗi người làm con cần phải trân trọng gìn giữ và tìm cách báo đáp. Phải luôn phấn đấu sống, học tập và làm việc thật tốt, báo đáp bằng sự cung kính – vâng lời – siêng năng tu tập những thiện Pháp, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già.

Tứ ân tồn tại hiển nhiên trong cuộc sống mang tính khách quan, chuyển tải được giá trị chân thiện mỹ theo tinh thần Phật giáo, hàm chứa tinh thần đại hùng – đại lực – đại bi – đại trí. Mang sinh khí hòa bình – tự do – bình đẳng cho nhân loại, với hoài bão to lớn là giải phóng mọi ràng buộc khổ đau cho con người và muôn vật.

Ý nghĩa chiếc áo dài:
“Áo dài” là quốc phục, thể hiện bản sắc dân tộc Việt Nam.

Mặc áo dài nhã nhặn – dịu mát, kèm chiếc áo lót màu trắng, tôn vinh vẽ đẹp người con gái, là sự gắn kết không chỉ với những người thân trong gia đình – trong tổ chức mà còn là sự gắn kết với quê hương – dân tộc.

Người phụ nữ Việt Nam khoác lên mình chiếc áo dài, ôm gọn cơ thể, toát lên đường cong hình chữ S, hình dáng uốn lượn tuyệt vời đất nước Việt Nam thân yêu.

Áo dài góp phần làm tôn vinh nếp sống văn hóa của người Việt Nam tin yêu – đoàn kết – hòa nhã – thân ái.

Ái dài nguyên bản từ áo dài ngũ thân lập lĩnh, ra đời năm 1744, sau cải cách trang phục Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Là loại trang phục có cổ cao, thẳng và vuông, tượng trưng cho sự trung trinh – chính trực của người thục nữ. Trải qua năm tháng đã được cách tân – cải tiến – Tây hóa. Với 2 tà áo tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, một thân con nhỏ nằm bên trong, tượng trưng cho người mặc áo. Tà áo càng xuống càng xòe ra, chân – đuôi tà (cuối tà) cong (đường cong hướng lên trên như miệng cười). 5 khuy áo cài bên ngực trái có tác dụng giữ cho chiếc áo ngay thẳng – kín đáo mà còn đại diện cho năm đạo làm người: Nhân – nghĩa – lễ – trí – tín.

Suốt cả dòng đời thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, mãi mãi khắc ghi – nhớ hoài lời ân cần dặn dò của quý anh – chị trưởng:

– Có hiếu – kính trọng – vâng lời Ông – Bà – Cha – Mẹ.

Thương yêu quý mến anh – chị – em – người thân trong gia tộc – họ hàng.

Siêng năng – chăm ngoan, chủ động xắp xếp công việc – tự chăm sóc bản thân – học hành cho thật giỏi.

Phụ giúp gia đình – đỡ đần cha mẹ.

Kính trọng – giúp đỡ mọi người chung quanh.

Dành thời gian ưu tiên, luôn luôn thiết tha – tinh tấn duy trì sinh hoạt, đến chùa đúng giờ, dù trời mưa lạnh hay nắng gắt.

Luôn luôn tích cực – nghiêm chỉnh tu học để hoàn thiện bản thân.

Không chối từ gian khó – sẵn sàng nhận lãnh – hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Suốt dòng đời sinh hoạt, chúng em mãi mãi thao thức hướng về mái ấm Gia Đình Phật Tử, mãi mãi nao nao mong chờ, đến mỗi cuối tuần là rảo quanh thôn xóm, gọi nhau í ới, tay trong tay cùng nhau tung tăng lên chùa, gặp lại anh – chị – bạn bè thân thương, kịp giờ Lễ Phật – Lễ Đoàn – tu học Phật pháp.

Sau ba tháng tích cực sinh hoạt, chúng em được tham dự Lễ Quy Y Tam Bảo.
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo:

Quy y còn được gọi là quy đầu – ngưỡng trượng. Quy y trong Phật giáo có nghĩa là quy y Tam bảo (Phật – Pháp và Tăng). Nghĩa là y thác vào Phật – Pháp – Tăng ba ngôi có thể bảo hộ che chở, cũng gọi là Quy y Tam Bảo.

Chữ Quy có nghĩa là trở về – theo về, Y là nương nhờ hay thuận theo, làm theo lối đã định, tam quy y là quy y Tam bảo. Chữ Quy cũng được viết là 皈 gồm bộ thủ Bạch 白 (“cõi sáng”) và chữ Phản 反, “quay về” là “quay về cõi sáng” – “dốc lòng tin theo”. Trong các bộ Phệ-đà có nguyên nghĩa là “bảo hộ” – “cứu tế” hoặc “chỗ tị nạn” – “chỗ bảo hộ”, là chỗ chúng sinh có thể đến, thân được an toàn – tâm được vô ưu. Quy y Tam bảo của Phật giáo chỉ sự nương vào uy lực của Tam bảo để đạt được an ổn vô hạn của tâm thức, thoát mọi khổ não. Câu-xá luận quyển thứ 14 (Đại Chính 29.76c) nói:

“Nghĩa của Quy y là cứu tế, vì nương vào đó mà người ta có thể vĩnh viễn thoát khỏi mọi khổ ách”.

Người hâm mộ Phật pháp khi nhập môn tất phải thực hiện nghi thức quy y, thệ nguyện quy y Phật – quy y Pháp – quy y Tăng mới chính thức được xem là đệ tử Phật.

Người đã quy y có thể là một Phật tử – cư sĩ tu tại gia hay là xuất gia theo tăng đoàn.

Nếu hành giả muốn thực hiện quy y, tự đặt mình vào con đường tu học của nhà Phật bằng cách giữ giới. Một nguyện vọng tất yếu luôn được thực hiện một cách mặc định khi hành giả quy y Tam bảo là không được sát hại chúng sinh. Tùy theo các tông phái Phật giáo mà phương pháp thực hiện quy y và nguyện vọng có thể khác nhau. Năm giới sau được xem là những thành phần của nghi thức thực hiện quy y:

1. Không sát sinh
2. Không trộm cắp
3. Không tà dâm
4. Không nói dối
5. Không uống rượu

– Quy y Phật, hành giả tiếp cận bậc thầy, tức là đức Phật
– Quy y Pháp, hành giả học hỏi và thực hành Phật pháp
– Quy y Tăng, hành giả kính trọng Tăng già và tu học để đúng với gương của Tăng già.

Hành giả nên cố gắng:

  • Điều chế ba cửa ải thân – khẩu và ý, thay vì để các giác quan khống chế. Không nên nói lời thô lỗ – không nên nghi hoặc và cố gắng không phán đoán.
  • Sống một cách hoà thuận và giữ giới
  • Tôn trọng tất cả chúng sinh
  • Thực hiện các nghi lễ đặc biệt: Tham thiền – Tịnh độ – Tụng giới – Sám hối

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_y

Em được dự Lễ vào đoàn – được chính thức là Oanh vũ – Đoàn sinh Ngành Đồng, được nhận châm ngôn và ba điều luật:

1. Em tưởng nhớ Phật.
2. Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em.
3. Em thương người và vật.

Điều 1: Em tưởng nhớ Phật để được gần Phật và học theo tính tốt – hạnh lành.
Điều 2: Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em để tỏ lòng hiếu kính – thương yêu – không phụ công ơn cha mẹ. Anh em hòa thuận – một nhà thương yêu nhau – gia đình hạnh phúc.
Điều 3: Em thương người và vật bởi vì mọi loài đều biết đau đớn. Có yêu thương mới được yêu thương.

Trong buổi làm lễ phát nguyện đeo hoa sen trắng, chúng em nghiêm trang bắt ấn Cát tường kính chào.

Em vinh dự được quý anh – chị cài lên ngực áo chiếc huy hiệu xinh xắn – có biểu tượng hoa sen. Ấn tượng khắc ghi lời anh trưởng hướng giảng:

Hoa sen trắng muốt – tinh khiết vươn lên, không vướng bẩn mùi bùn nhơ tanh tưởi.

Dù giữa lòng đời uế trược – nhờ tu học Phật Pháp – đủ đầy chánh kiến – biết gạn đục lắng trong, mạnh dạn rời xa nơi chốn lao xao xô bồ lộn xộn, nơi có những trò chơi đam mê phồn tạp vô bổ – bê tha – sa đọa, nhiều màu sắc lôi cuốn cám dỗ ngoài xã hội, dễ dàng làm hư thân – mất nết – hủy hoại phẩm hạnh, mạnh dạn bước vào cổng chùa – gia nhập sinh hoạt Gia Đình Phật Tử, mà người Phật tử thuần thành được hướng thiện – luôn luôn tinh khiết sạch trong – không hề ô nhiễm.

Ý nghĩa Huy hiệu hoa sen:

Huy hiệu hoa sen là biểu trưng cho tinh thần của tổ chức GĐPT Việt Nam gần 70 năm qua, và được Hòa thượng Thích Tịnh Khiết Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam thay mặt Tổng Hội công nhận vào mùa Vía Phật Thành Đạo ngày 08 tháng chạp năm Mậu Tý (tức ngày 06 tháng 01 năm 1949) tại Ngôi Chùa Từ Đàm lịch sử, do H.Tr Lê Lừng sáng tác với sự chuẩn hóa kỹ thuật vẽ của H.Tr Phan Xuân Sanh.

Các em sẽ được cài trên ngực áo mình chiếc huy hiệu thiêng liêng chính thức trở thành Đoàn sinh của GĐPT. Việt Nam.

Tổ chức chúng ta chọn hoa sen làm biểu tượng tinh thần mà không phải là một loài hoa nào khác, bởi hoa sen có những đặc tính cao quý như sau:

  1. Là loài hoa sống gần bùn mà không bị nhiễm bùn, luôn vươn mình tỏa ngát hương thơm thanh khiết. Đây là biểu trưng cho sự vô nhiễm.
  2. Hoa sen không bị các loài ong – bướm – ruồi đến hút nhụy, ngửi hương và không dùng để trang sức. Chính là thể hiện tính ly dục của hoa sen.
  3. Hoa sen với thân ngay, ruột rỗng, gương đầy hạt biểu trưng cho tinh thần hành trực, ngay thẳng, hỷ xả và bao dung.
  4. Nơi nào ngó sen mọc lên thì bùn nhơ lắng xuống sạch trong thanh khiết, đó chính là đặc tính trừng thanh của Sen.
  5. Hoa sen biểu trưng cho nhân quả đồng thời, bởi khi nở thì gương và hột đã thành.
  6. Tất cả từ lá sen, ngó sen, tim sen, hạt sen, cánh sen, củ sen đều dùng được là thể hiện sự rốt ráo trong tu tập.

Từ những đặc tính cao quý này, mà Chư Phật – Chư Bồ tát đều chọn hoa sen làm tòa, đây là loài hoa biểu trưng trọn vẹn tinh thần nhất thừa, thành tựu Phật quả. Người Đoàn sinh GĐPT Việt Nam khi cài hoa sen phải tâm niệm sống như những đức tính thanh cao của hoa sen.

Chiếc huy hiệu của tổ chức chúng ta là hoa sen 08 cánh với bố cục 05 cánh trên và 03 cánh dưới, hoa sen màu trắng, trên nền xanh lá mạ, được bao bọc bởi chiếc vòng tròn trắng bên ngoài mang đầy đủ giá trị tinh thần của tu tập:

Năm cánh trên tượng trưng cho năm hạnh lành của người Phật tử, từ ngoài nhìn vào, cánh chính giữa là biểu trưng cho hạnh tinh tấn, thể hiện sự siêng năng không biếng nhác, sự tích cực không mệt mỏi trong hành trì, trong tu tập, trong phật sự mà tổ chức giao phó, không giãi đãi, không thoái xuất chí hướng khi gặp khó khăn, đây là hạnh nguyện được biểu trưng bởi Đức Phật Thích Ca. Bên trái cánh tinh tấn là cánh sen Thanh tịnh, đây chính là sự trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm, thể hiện sự chân chánh của người Phật tử, đây là hạnh biểu trưng của Đức Phật A Di Đà. Bên phải cánh tinh tấn là cánh sen hỷ xã, đây chính là hạnh đức cao quý của Ngài Di Lặc, hỷ xả chính là bao dung, tha thứ trong niềm hoan hỷ không chấp trước, biết thương yêu, biết xây dựng cho nhau, biết mỉm cười để lỗi lầm của nhau tan biến trong tinh thần cầu sám hối. Cánh sen cạnh bên cánh thanh tịnh là từ bi, với hình ảnh tiêu biểu của Bồ Tát Quán Thế Âm, biết học và thực hành hạnh lắng nghe, đem đến cho người niềm vui, làm cho người vơi đi khổ đau đó chính là hạnh từ bi được thực hiện. Cánh sen cạnh bên cánh hỷ xả là Trí tuệ, tiêu biểu cho Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, trí tuệ là chất liệu để tiến tu, trí tuệ là sự hiểu biết chân chánh, cắt đứt mọi cấu uế phiền não, không chất chứa tà kiến.

Ba cánh dưới tượng trưng cho 03 ngôi báu Phật – Pháp – Tăng, nơi quy ngưỡng bền vững, quý báu nhất trên thế gian này.

Từ đó, chúng ta thấy nền tảng Tam bảo đã xuất sanh 05 hạnh lành, người Phật tử quán niệm và thực hành đúng tinh thần này thì thành tựu công đức, con đường đạt đến cứu cánh không xa.

Màu trắng của hoa sen biểu trưng cho sự thanh khiết, vô cấu nhiễm, thanh tịnh giữa cảnh trần nhiều sự nhiễm ô. Màu xanh lá mạ biểu trưng cho sức sống vươn lên của tuổi trẻ đầy hy vọng vào tương lai, biểu trưng cho tổ chức giáo dục Thanh – Thiếu – Đồng niên GĐPT chúng ta luôn hướng đến con đường hiền thiện.

Vòng tròn trắng bên ngoài chính là thể hiện ý nghĩa Đạo Phật Viên Dung Hoàn Toàn Vô Ngại, tròn đầy tâm nguyện và hạnh đức với con đường hướng đến giải thoát giác ngộ trong hào quang bảo bọc của Tam bảo, quang huy rực rỡ ánh sáng nhiệm mầu, vi diệu.

Với những ý nghĩa cao quý, huy hiệu hoa sen được cài ngay trái tim, khi nào hơi thở còn, nhịp đập con tim còn, thì còn nhiệt huyết cho lý tưởng, sức sống còn chúng ta nguyện giữ tinh thần cao quý cho Hoa sen, nuôi dưỡng hoa sen bằng đất tâm thuần khiết và gìn giữ sức sống, uy danh, sự trường tồn của tổ chức bằng tất cả con tim của mình.

Hãy trân quý huy hiệu hoa sen như quý con ngươi của mình, vì nơi huy hiệu đã chứa đựng tất cả công đức lành với các vị Phật và Bồ tát tiêu biểu, là 03 ngôi báu quý nhất trên thế gian này, là linh hồn của tổ chức, chớ để bừa bãi, chớ quên mất huy hiệu hoa sen trong những lần đến với áo lam. Quên huy hiệu chính là quên bản tâm, phật tánh trong mình. Mất huy hiệu là mất chính mình. Nên các em chớ bao giờ khinh xuất, phải cẩn trọng gìn giữ.

Trích dẫn: Lễ Lượt GĐPTVN
(Phụ bản 1 Đính kèm Quyết định số:
13.114/HDTƯ/QĐ/TB ngày 22.11.2013)

Ý nghĩa ấn cát tường:
Gia Đình Phật Tử cũng như các tổ chức khác có cách chào riêng, khi mặc sắc phục, để tỏ lòng thân thiện, biểu lộ sự hoà hợp, nhắc nhau tinh tấn tu học, biết kính trên nhường dưới, và chứng tỏ tinh thần kỷ luật của Gia Đình Phật Tử.

Khi mặc đồng phục, chúng ta chào bằng cách bắt ấn Tam Muội (cũng gọi là ấn Cát Tường – ấn Chánh Định, ngón cái: tâm, ngón trỏ: thân, ngón cái ấn trên ngón trỏ, ý chỉ thân tâm không hai).

Khi chào đứng nghiêm, mặt hướng vào người mình chào, tay phải gập lại, cánh tay song song với thân người, lòng bàn tay hướng về phía trước, cùi chỏ gần sát thân người và ngang bằng với tầm lưng (đừng đưa quá ra phía sau hay phía trước), các ngón tay khép vào nhau, ngón tay cái đè lên ngón tay đeo nhẫn, tay trái xuôi theo người.

Ấn Tam Muội có mục đích làm cho lòng mình lắng lại, chú tâm không tán loạn, phóng ra sự an lành (Cát Tường). Chào theo lối bắt ấn Tam Muội, là nhắc nhở chúng ta lắng lòng hướng về việc lành, tin theo đức Phật, tin vào chánh Pháp, chúc tốt lành cho nhau. Chính đức Phật thường dùng ấn này để phóng hào quang cứu độ chúng sanh.

Chào kính là những quy ước xã hội mang tính văn hoá, nhân bản nhằm thăng tiến cuộc sống tinh thần của con người nên thông thường :

  • Người nhỏ chào người lớn trước.
  • Khi đi trong hàng, gặp Thầy hay anh chị trưởng, chỉ người hướng dẫn chào mà thôi.
  • Khi gặp đám tang, tất cả đều chào.
  • Khi đón chào quan khách, hô khẩu hiệu tất cả chào một lần.
  • Khi chào cờ sen trắng, hô khẩu hiệu ( tiếng reo) chào xong, đứng nghiêm hát bài ca chính thức Sen Trắng.
  • Khi gặp quý Tăng Ni, thì chắp tay như búp sen ngang ngực, cúi đầu chào, khi gặp quý Bác ( đạo hữu ) cũng vậy.
  • Khi đi ngang qua nơi tôn nghiêm (chùa, đền thờ…) thì yên lặng để tỏ lòng thành kính.

Khi mặc thường phục: Cất nón – cúi đầu, vái chào tùy theo trường hợp.
Là đoàn sinh GĐPT, luôn luôn nêu cao tinh thần kỷ luật, danh dự của đoàn thể :

  • Gặp Tăng – Ni, chắp tay như búp sen để ngang ngực cúi đầu chào.
  • Gặp các anh, chị và bạn đoàn (có đoàn phục), tay bắt ấn Tam Muội (Cát Tường) để tỏ ý vui mừng, nhắc nhở nhau tinh tấn tu học.
  • Những lúc đi ngang qua nơi tôn nghiêm nên im lặng, không cười nói múa may, tỏ lòng tôn kính.
  • Khi vào nơi tôn nghiêm, xuống xe dẫn bộ để tỏ lòng lịch sự – tôn kính.

(Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549)

Mỗi dịp Xuân về. Từ mùa Đông lạnh giá, nàng Xuân duyên dáng bước ra, mang theo hương sắc trinh nguyên xinh tươi rực rỡ. Cây lộc đầu Xuân được Gia Đình Phật Tử trang trí muôn màu muôn sắc làm rực sáng cả góc chùa. Khách thập phương viếng chùa lễ Phật, ai nấy đều hoan hỷ hái cho mình một cánh lộc, mang những dòng kinh văn chúc phúc đầu năm.

Sau thời kinh lễ Phật chào đón năm mới, chúng em nối bước theo chân Huynh trưởng, thanh tĩnh vào phòng phương trượng, cúi đầu đảnh lễ, khánh chúc trên Chư Tôn Đức bổn tự thêm tuổi đạo – tăng long phước thọ. Chúng em hớn hở sung sướng được thầy chúc mừng cho mỗi người một bao lì xì xinh xắn.

Hằng năm đơn vị đều tổ chức ngày Dũng – ngày Hạnh bằng những đêm hội ngộ quanh đèn, nói lên hạnh nguyện – tinh thần – ý chí dấn thân của mỗi Nam – Nữ Phật tử.

Ngày Dũng ngành Nam GĐPT, vào dịp Lễ Phật Xuất Gia – mồng 8/02 (âm lịch). Ngành Nam GĐPT ý thức:

Tùy theo y báo – chánh báo mà nhân sinh thọ nhận báo thân sinh vào quốc độ thọ nghiệp khổ đau. Bằng tuệ giác kỳ vĩ thái tử Tất Đạt Đa đại hùng – đại lực chối từ thế nghiệp – vượt dòng A Nô Ma, năm năm tầm sư học đạo – sáu năm khổ hạnh rừng già – bốn mươi chín ngày đêm ròng rả hành thiền, Ngài giác ngộ thành Phật.

Đoàn viên ngành Nam GĐPT thức dậy – ý thức cộng sinh – lớn dần dòng suy tưởng xuất thế vị tha, trãi lòng rộng lớn vì tha nhân mà dấn thân phụng sự.

Ngày Hạnh ngành Nữ GĐPT, chọn một trong ba ngày lễ Bồ tát Quán Thế Âm trong năm: 19/02 – 19/06 và 19/09 (âm lịch). Đức Quán Thế Âm chứng đắc “Nhĩ căn viên thông”:

Người Nữ GĐPT nghe hiểu Phật pháp, nhận chân thật tướng như thật, ứng dụng Văn – Tư – Tu, Nghe – hiểu – thực tập hoàn thiện bản thân – ứng dụng vào phật sự giáo dục. Người Nữ GĐPT học hạnh Quán Thế Âm “Xoay cái nghe vào bên trong”, lắng nghe tự tánh thanh tịnh, “phản quang tự kỷ” soi rọi chính mình, dừng lại cái nghe thanh trần phồn tạp đạo đoạn sanh khởi vọng tâm.

“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây hạnh để đời mai sau”
‘Ca dao VN’.

Mùa Phật Đản sinh – Hoa Ưu Đàm rộ nở, bảy đóa sen hồng nâng bước chân thơm – thái tử Tất Đạt Đa ra đời. Dưới sự hướng dẫn của quý anh – chị trưởng, chúng em tập trung thành đoàn. Tùy vào ý tưởng sáng tạo – trước mỗi ghi đông xe đạp – chúng em trang trí hình ảnh Đản sinh – cờ – hoa – bong bóng bay đẹp đẽ. Chúng em – GĐPT dẫn đầu đoàn xe hoa diễu hành qua khắp mọi ngõ phố – cổng chào – tư gia trang hoàng biểu tượng – hình ảnh – cờ hoa rực rỡ đón mừng ngày Phật Đản Sinh.

Ngày Hiếu ngành Đồng (Oanh vũ) GĐPT, được chọn thời gian trước Lễ Vu Lan. Ngày Hiếu được tổ chức nhiều loại hình sinh hoạt thể hiện lòng hiếu thảo dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Chúng em ấn tượng nhất là Lễ Cúng Dường Tứ Ân: Tứ ân là phạm trù đạo đức, giáo dục tinh thần:

“Uống nước nhớ nguồn”
“Ăn quả nhớ kẻ trông cây”.
Kinh Tâm Địa Quán – phẩm Báo ân, đức Phật dạy Tứ Ân:

Ân cha mẹ – Ân chúng sanh – Ân quốc gia xã hội và Ân Tam bảo.

Để thực hiện trang trọng buổi lễ cúng dường này, quý anh – chị trưởng đã thông báo – hướng dẫn từ trước. Chúng em ai nấy đều nức lòng, thể hiện lòng thành, tự để dành – nhín lại một phần tiền – bỏ heo ống những khoản tiền mà Ba Mẹ cho ăn quà vặt hay ăn sáng. Đến gần ngày lễ – chúng em đập bể heo đất, lấy ra những đồng tiền đã để dành được, mua những món quà mà Cha – Mẹ ưa thích.

Đến giờ phút thiêng liêng, được Huynh trưởng MC mời lên, chúng em hàng hàng thẳng tắp – đảnh lễ – tưởng niệm Tứ Ân. Đến nghi thức cúng dường Ân Cha nghĩa Mẹ, được Huynh trưởng tuyên xướng – hướng dẫn đến trước mặt Cha Mẹ đảnh lễ hai lạy, quỳ trang trọng nói:

– “Con kính yêu cha ‘mẹ’ nhiều lắm !”

Rồi hai tay kính cẩn nâng phẩm vật cúng dường dâng lên Cha Mẹ kính yêu.

Trước giây phút trang trọng thiêng liêng này, cả thính phòng âm trầm lắng xuống, từng dòng nước mắt hoen mi, đây đó sì sụt từng tiếng nấc nghẹn ngào, làm cho Thầy chứng minh cũng xúc động lau nước mắt !

Lễ Hội Vu Lan, tháng bảy – mùa Thu, mùa có từng đợt mưa phùn – mang theo những ngọn gió heo may – thổi bay những chiếc lá vàng rơi rơi phơi đầy sân cỏ. Tháng bảy – mùa Thu – mùa Vu Lan báo hiếu Tứ trọng ân, làm cho người ta hoài tưởng – ngậm ngùi nhớ nhiều về công đức sinh thành – dưỡng dục. Dù cho ai đó tha hương biệt xứ tận cuối chân mây. Hoài niệm – canh cánh hướng về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có dòng sông lặng lờ – êm đềm bên lũy tre già – mãi miết chảy dài theo năm tháng, nơi có mái tranh nghèo xơ xác – có người mẹ lưng còng – má tóp – tóc trắng giăng mây, cặm cụi bên bếp lửa hồng – cho sợi khói vươn cao vào mỗi buổi lam chiều. Bên bụi chuối sau hè – có chum nước rửa chân – để được sạch bụi đường xa bao nỗi nhọc nhằn vất vã mưu sinh.

Văn hóa hoa hồng, niệm ân công đức Thầy Tổ – Mẹ – Cha, nhân mùa Lễ Hội Vu Lan người ta cài lên ngực áo tặng nhau những đóa hoa hồng.

Niệm ân Sư trưởng – người ta cài lên ngực áo Thầy đóa hoa Hồng vàng. Nếu Mẹ còn sinh tiền – người ta tặng nhau đóa hoa Hồng thắm. Nhớ về người Mẹ đã qua đời – người ta tặng nhau đóa hoa Hồng bạch.

Tháng 8 – Tết Trung Thu, còn gọi là Tết Thiếu Nhi, bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước. Sau vụ mùa lúa chín vàng óng ả hắt lên nền trời Thu trong xanh. Nông trang nhàn rỗi, người ta bày cỗ thưởng trăng, trẻ thơ hân hoan ríu rít rước đèn lồng – đèn ông sao sắc màu rực rỡ:

“Thùng thình thùng thình
Trống rộn ràng ngoài đình…”

Tuổi thơ Oanh vũ GĐPT cũng háo hức hòa nhịp lòng vui Tết đón Trung Thu dưới ánh trăng Rằm man mác, bên những mâm cổ tràn đầy bánh trái, để rồi ký ức tuổi thơ theo năm tháng ngọt ngào. Chúng em được thưởng thức – hòa mình vui cười thỏa thích vào những hoạt cảnh do anh – chị trưởng đóng vai chú Cuội – chị Hằng, cùng nhau cất cao tiếng hát:

“Bóng trăng trắng ngà có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ…”

Rời tuổi thơ ngây, chúng em được lên Đoàn ngành Thiếu rồi ngành Thanh ‘Nam – Nữ Phật tử’ vào dịp trại lễ Phật Thành Đạo. Chúng em được phát nguyện nhận năm điều luật của Gia Đình Phật Tử:

Ý nghĩa 5 điều luật của Gia Đình Phật Tử:

Trước năm 1951, theo đề cương tám điểm của bác Tâm Minh Lê Đình Thám, điểm thứ tư có ghi

Phật tử sống trong Gia Đình Phật Hoá Phổ phải tuân hành 10 điều luật sau đây :

  1. Phật tử học kinh, niệm Phật.
  2. Phật tử kính mến cha mẹ và thuận thành với anh chị em.
  3. Phật tử sống nhân từ đối với người và vật.
  4. Phật tử lựa bạn tốt và mến thương bạn.
  5. Phật tử vui buồn cùng chia, nhắc nhở nhau lánh dữ làm lành.
  6. Phật tử giữ gìn lời nói ôn hoà, ngay thật.
  7. Phật tử thật thà , siêng năng, thứ tự, sạch sẽ.
  8. Phật tử sống giản dị và điều độ.
  9. Phật tử sống giản dị và lạc quan.
  10. Phật tử làm tròn bổn phận .

Đến năm 1951, Đại hội Huynh trưởng GĐPT đã xây dựng nên Nội quy trình gồm 5 chương – 15 điều. Chương thứ nhất – điều thứ tư ghi :

Luật của Thanh Thiếu Niên nam nữ và Huynh trưởng là :

  1. Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện.
  2. Phật tử mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống.
  3. Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật.
  4. Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.
  5. Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo.

Ngày trước, luật nặng tính cách xây dựng cá nhân con người theo Nhân thừa. Giai đoạn thứ hai nhằm phát triển huệ trí, tiến đến giác ngộ và giải thoát.

  • Điều thứ nhất phù hợp với hạnh Tinh tấn của Đức Phật Thích Ca.
  • Điều thứ hai thực hiện hạnh Từ bi mà Bồ Tát Quan Thế Âm là biểu tượng.
  • Điều thứ ba phù hợp với hạnh Trí tuệ mà Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là biểu tượng.
  • Điều thứ tư thực hiện hạnh Thanh tịnh của đức Phật A Di Đà.
  • Điều thứ năm thực hiện hạnh Hỷ xả của Đức Phật Di Lặc.
  1. Kỷ luật của đoàn thể hay pháp luật của quốc gia chỉ nhằm duy trì trật tự an ninh cho xã hội và con người chứ không nhằm đưa con người đến chỗ giải thoát – giác ngộ. Còn giới luật của đạo Phật, luật của GĐPT là đóng ngõ ác đạo, mở cửa từ bi – trí tuệ, vào căn nhà giải thoát – giác ngộ của Đức Phật.
  2. Đọc luật phải giữ tâm thanh tịnh, không khí trang nghiêm để từng lời nói, từng âm thanh vang vọng trong tiềm thức, trong tư duy của chúng ta, nhận ra những sai khuyết mà phát lồ sám hối, cũng như hướng đời mình đến các điều tốt đẹp để nở được bông hoa Phật tánh.
  3. Đọc luật là một hình thức tụng giới và phát tâm giữ luật như giữ giới, soi rọi cuộc đời mình. Luật là giáp phục của đoàn sinh GĐPT.
  • Hằng ngày, sau khi thức dậy, em nhẩm đọc luật và phát tâm giữ luật hằng ngày.
  • Hằng ngày, trước khi đi ngủ, em nhẩm đọc và kiểm lại bản thân nếu có sai phạm tức thì sám hối.
  • Giữ luật như giữ gìn hơi thở và sự ăn uống để nuôi dưỡng sinh mạng, để tu tập Phật đạo.

(Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549)

Buổi lễ lên Đoàn sao mà xúc động đến vậy, được anh trưởng dắt tay vượt qua chiếc cầu tre bập bênh để trao tay chúng em vào tay Huynh trưởng trên ngành, nước mắt ai nấy đều đầm đìa luyến tiếc rời xa tuổi thơ được nâng niu chìu chuộng. Mặc dù vẫn chung cùng đơn vị, nhưng sao mà lòng vẫn cảm thấy xa xót rời Đoàn – xa bạn bè thân ái.

Rồi buổi lễ lên đường đầy hào hứng, chúng em mỗi người tay cầm một chiếc gậy – đầu gậy lủng lẳng chùm dây dù, vai mang balô lên đường, được xây dựng bằng một kịch bản trò chơi lớn “Tầm sư học đạo”. Nhận được tín hiệu Morse, theo dấu đi đường đến điềm vượt khó – chúng em dùng gậy bắt cầu vượt suối – băng rừng – bám dây dù leo núi, chúng em nhận từng bảng văn – dịch từng mật thư lắt léo để qua biết bao trạm gian nan – dẫy đầy ma vương mang nhiều nhân dáng kinh hãi, rình rập mọi ngỏ ngách, cám dỗ – quậy phá để vượt qua. Làm cho nhiều ban gái nhát gan – sợ hãi – túm tụm – ôm chầm vào nhau – la chí chỏe suốt quãng đường rừng. Cuối cùng nhận được tín hiệu Semaphore, chúng em cùng nhau quay về lại chùa – đến đích. Đích là cội cây Bồ đề – cành lá xum xuê – che phủ mát rượi, nơi đây một Huynh trưởng hóa thân Đức Phật – đang ngồi tham thiền nhập định, còn chúng em hóa thân làm 5 anh em Kiều Trần Như – ngồi vây quanh nghe Phật thuyết giảng.

Em ấn tượng vui nhất là trến đường hướng về Chùa – đến trạm. Đội chúng em nhận được mật thư: Cấp cứu người bị nạn – gãy chân. Thế là 2 bạn rời hàng – cởi áo – dùng gậy làm cán. 1 bạn ngã xuống – nằm lên cán. Bạn phụ trách y tế mở túi cứu thương – lấy bông băng – tẩm thuốc đỏ, trình tự – cẩn thận băn bó gót chân. Chúng em công kênh nạn nhân lển đường, cả khu phố bàng hoàng túa ra! Qua cổng Chùa, chúng em tìm đến trạm có H.Tr hóa trang bác sĩ, kiểm tra cấp cứu – cứu thương. Đội viên y tế tháo gỡ bông băng, làm cho mọi người hiếu kỳ thấy ra chỉ là trò chơi thực tập, ai nấy đều kinh ngạt ồ lên, đập vui lên vai chúng em, rồi hỷ hả cười giải tán !

Chiếc gậy theo em suốt những kỳ trại thời niên thiếu, mỗi kỳ trại đi qua em đều khắc ghi tên trại – ngày tháng để lưu dấu kỷ niệm. Tiếc rằng chiến tranh – sau những năm tháng loạn ly – chiếc gậy thất lạc từ lúc nào – làm cho mãi tiếc nuối không nguôi !

Đến tuổi trưởng thành, qua trại huấn luyện, em được phát nguyện làm Huynh trưởng. Buổi lễ truyền đăng thiêng liêng, làm cho chúng em ai nấy nao nao dâng trào bồi hồi cảm xúc. Chúng em mỗi người trên đôi tay một cây nến, ánh nến lung linh theo tiếng vọng từ bóng đêm truyền về – đánh thức mê vọng từ lâu mãi mê ngã ái, lương tri bừng sáng, chối từ vị kỷ hèn mọn, phát nguyện dấn thân: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”. Mỗi cây nến truyền đăng còn lại qua các kỳ trại huấn luyên – em vẫn còn lưu giữ mãi đến hôm nay, để mãi mãi khắc ghí nhớ hoài một thời – nhớ hoài những giây phút thiêng được trưởng thành – được lớn khôn thêm.

Ý nghĩa “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”:
Kinh Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội dạy:
Năm sự ô trược ác thế – dơ dáy – xấu ác thiêu đốt thế gian:

  • Thời đại biến đổi không ngừng: Kiếp trược.
  • Sự thấy biết sai lầm, tà bậy: Kiến trược.
  • Những si mê, tham đắm, thù hận: Phiền não trược.
  • Sự luân hồi sanh tử không ngừng dứt: Chúng sanh trược.
  • Đời thọ mạng ngắn ngủi, vô thường: Mạng trược.

Ngài A Nan phát nguyện: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”, thâm nhập vào ngũ trược ác thế để giáo hóa cứu độ cho chúng sinh.

“Nếu còn một chúng sinh nào chưa thành Phật. Nguyện chẳng tự mình chứng niết bàn. Dù chỉ còn một chúng sinh chưa thành Phật, Con nguyện không nhập niết bàn – không thành Phật – không được công nhận là người đã đạt được quả vị”.

Ý nghĩa truyền đăng:
Pháp truyền Vô Tận Đăng xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật sở thuyết – thời Phương Đẳng – phẩm Đệ tử (Thứ tư) nói về hành trạng Bồ tát Trì Thế:

Một thời cư sĩ Duy Ma Cật là hoá thân của Bồ Tát Tịnh Danh ở cõi Vô Cấu của Phật Bất Động Như Lai, thị hiện xuống Ta Bà làm trưởng giả cư sĩ, ngụ tại thành Tỳ Xá Ly.

Một ngày cư sĩ Duy Ma Cật thị hiện bệnh duyên, nhiều người tới thăm, Ngài tùy duyên thuyết pháp Đại thừa giáo hoá.

Đức Bổn Sư Thích Ca ngụ tại Tịnh xá Kỳ Viên, phân công các vị Đại đệ tử và Bồ Tát hướng dẫn đại chúng đến thăm bệnh Duy Ma, nhưng cả 10 Đại đệ tử Thanh Văn và 4 vị Bồ Tát không ai dám đến thăm bệnh Cư sĩ, vì trong quá trình giáo hoá, quý Ngài đã từng bị Cư sĩ Duy Ma vấn nạn về các mặt sở trường tu chứng, qua các lần Pháp thoại quý Ngài đã không trả lời được. Đến khi Đức Bổn Sư chỉ định Ngài Bồ Tát Trì Thế đến thăm bệnh Duy Ma Cật, Ngài Trì Thế cũng hồi bạch Thế Tôn không dám đến thăm bệnh, vì nhân duyên sau:

Ngày đó khi Bồ tát Trì Thế đang toạ thiền trong rừng, Thiên ma Ba Tuần giả dạng Thiên chủ Đế Thích (Vua cõi trời Đao Lợi), mang theo vô số Thiên nữ kỹ nhạc đến đảnh lễ Ngài Trì Thế. Trì Thế Bồ tát vốn là quốc sư của Đế Thích, nên y theo Pháp Phật mà khuyến tấn:

“Vua Trời Đế Thích không nên đam mê dục lạc mà hãy chú tâm vào việc thanh tịnh thân tâm – tô bồi phước đức – hoá độ chúng sanh”.

Vua Trời Đế Thích xin dâng tặng Bồ Tát Trì Thế 12 ngàn thiên nữ để phục dịch, nhưng Bồ Tát đã y theo pháp Thanh Tịnh vô nhiễm của Thích Tử Như Lai, nên không dám thọ nhận kỹ nữ để hưởng thú vui dục lạc.

Ngay khi đó, giữa không trung có tiếng của cư sĩ Duy Ma Cật khiển trách Bồ tát sao nhận lầm ma Ba Tuần là vua trời Đế Thích, đồng thời nói với ma Ba Tuần rằng:

“Trì Thế không dám nhận ma nữ nhưng ta thì nhận được, vậy ma hãy dâng tặng ma nữ cho ta thì mới đi được”.

Trước pháp lực của cư sĩ Duy Ma Cật, ma Ba Tuần không thể thoát thân đành phải hứa vâng chịu, dâng tặng 12 ngàn ma nữ cho Duy Ma Cật rồi về cung. Cư sĩ Duy Ma Cật nhận 12 ngàn ma nữ liền dạy cho họ các Pháp vui trong chánh Pháp đại thừa:

  • Vui tin Phật
  • Vui nghe Pháp
  • Vui cúng dường Tăng
  • Vui làm việc thiện
  • Vui giáo hoá chúng sanh…

Chúng ma nữ sau khi nghe Pháp, tín thọ phụng hành, được cư sĩ trả về cung ma và dạy rằng:

“Có pháp Vô Tận Đăng như ngọn đèn không bao giờ tắt, các người hãy đem chánh Pháp truyền dạy cho chúng ma tại ma cung, người này truyền người kia, ánh sáng tiếp nối mãi vô tận mà ngọn đèn đầu tiên vẫn không hao tổn. Chánh Pháp sẽ được tiếp nối mãi và ánh sáng không bao giờ dứt…”

Từ đó mãi mãi cung ma luôn luôn được thắp sáng bằng ngọn đèn chánh Pháp Vô Tận – nhân thiên đều an lạc.

Đời người có hai cuộc sống oằn nặng trên đôi vai. Một vai gánh vát đời sống vật chất:

Vật chất là một thực tại khách quan luôn luôn vận động – vô thường: Công danh – sự nghiệp – gia đình – quốc gia – xã hội.

Một vai trĩu nặng đời sống tâm linh:

Tâm linh là một khái niệm – một hiện tượng tinh thần được phát triển ý thức – tri giác – sinh học, tương tác lên đời sống thực thể. Nhờ tu – học Phật pháp tác động tìm năng – ý chí. Tri thức người Huynh trưởng Phật tử được trưởng dưỡng phát triển, ý thức được bản thân, phẩm hạnh được nâng cao, hình thành nhân cách đạo đức toàn diện, hướng tới toàn mỹ – toàn thiện – toàn chân. Ý thức được rằng: Ngoài tích cực tu học để tự thăng tiến – hoàn thiện bản thân, mà còn có trách nhiệm thiêng liêng cao cả mà tổ chức tin tưởng trao phó, đó là: “truyền đăng – tục diệm”, trao truyền – hướng dẫn đàn em thân yêu.

Tâm linh và vật chất phải được cân bằng trên đôi vai mỗi nhân giả, nếu bên này mà trĩu nặng còn bênh kia mà nhẹ tênh, thì đời sống trở nên dị tật, bước đi khập khiểng – mất thăng bằng – dễ dàng té quỵ giữa đời thường. Người Huynh trưởng có tri thức, có tu – có học, biết ý thức cuộc sống, biết làm chủ bản thân, vững vàng trong cuộc sống không dễ dàng để đôi vai bị xô lệch mất bình thường.

Cuộc đời em gắn liền với màu áo lam hiền hòa thân thương, được tắm mình trong suối nguồn cam lồ ngọt ngào mát rượi. Hằng đêm theo chân Mẹ lên chùa – cùng Mẹ ê a hòa vào những lời kinh trầm hùng trong những đêm tịnh độ. Những buổi cuối tuần – trong màu áo lam lên chùa nhập Đoàn lễ Phật – sinh hoạt. Và cứ mãi miết như thế, cuốn hút em lớn dần theo năm tháng dưới mái chùa làng yên ả, trong tiếng mõ nhịp nhàng cầu kinh – hòa quyện tiếng chuông ngân vang vọng vào thu không.

Tri thức vốn có hôm nay, cứ ngỡ rằng giỏi giắn – tài ba hơn người. Đâu có ngờ rằng, ngoài công đức sinh thành như trời biển bao la, sự nuôi dưỡng gian lao – tận tình dạy bảo của Mẹ – Cha. Ngoài những nỗ lực vật vã dùi mài kinh sử – thu nhặt được từ sách vỡ – Thầy Cô – bạn bè theo năm tháng mài đũng quần trên ghế trường đời – cộng đồng xã hội, chúng em đã tinh tấn – tích cực tu học. Nhờ công đức giáo dưỡng của quý Anh – Chị đi trước hướng dẫn, nâng niu dìu dắt từng bước chân đi, chăm chút tài bồi – truyền tải tri thức – vun xới – gọt tỉa – uốn nắn thân cành – làm mới, để cho chúng em mỗi ngày thêm được lớn khôn.

Biết bao năm tháng thanh tĩnh dưới mái chùa thân yêu chở che hồn dân tộc, trãi qua biết bao bậc học.

Tính từ thuở ngành Đồng Oanh vũ: Mở mắt – Cánh mềm – Chân cứng – Tung bay.

Đến khi được lên đoàn, ngành Thiếu: Hướng thiện – Sơ thiện – Trung thiện – 2 năm Chánh thiện.

Bước lên ngành Thanh: 2 năm bậc Hòa – 2 năm bậc Trực.

Để rồi được bước lên cao hơn nữa, ngành Huynh trưởng: Bậc Kiên – 2 năm bậc Trì – 3 năm bậc Định – 5 năm bậc Lực.

Rồi qua các trại huấn luyện: Tuyết Sơn, Anôma Niliên – Lộc Uyển – A Dục – Huyền Trang – Vạn Hạnh và Phú Lâu Na.

Cứ mỗi lần thi kết khóa hoàn tất bậc học vào dịp Lễ Phật Thành Đạo. Trong buổi lễ vượt bậc – vượt trại – thọ cấp, chúng em được quý anh – chị trao chứng chỉ – quyết định, gắn lên vai áo phù hiệu bậc học đã qua – cấp đang thọ, làm cho lòng chúng em cảm thấy nao nao, thấy mình được thêm tuổi đạo – được trưởng thành lớn khôn hơn, để rồi nao nức chờ đợi ngày khai khóa bậc học mới vào dịp Lễ Phật Xuất Gia.

Tổ chức trao cấp, là trao một sứ mệnh thiêng liêng trọng đại vào đôi tay vững chãi của Huynh trưởng. Người Huynh trưởng tài năng không dễ dàng cúi mặt – khuất phục trước cam go, mà với nguyện lực to lớn, sẵn sàng gánh vát gian nan để thành toàn trọng trách.

Thiết nghĩ, người lãnh đạo phải mang tâm trạng của một người đi tìm hướng sống, tìm cái hay – cái đẹp, cái chân thiện mỹ cho cuộc đời. Phải thao thức với những khám phá mới lạ một cách nhiệt thành. Không nên có tâm trạng của một lữ hành đi qua rừng trầm hương, mà không thưởng thức được mùi hương. Tắm mình trong dòng ánh sáng phật pháp, mà không nhận thức được chân đế. Hoặc bọc trong mình hạt minh châu, mà không biết là châu ngọc. Không thiết tha trân quí, không thẩm thấu được luồng sinh khí mới mẽ, để mang lại một kết quả tốt đẹp hơn.

Chúng ta sẽ rất thất vọng, nếu là một nhà lãnh đạo, mà không có một nhiệt tâm quên mình vì tổ chức. Không có một kế hoạch, một hướng nhìn sâu sắc. Không vạch ra một phương hướng mới mẽ để hành đạo, để khế cơ phù hợp xác đáng với tình hình. Thấy trầm lắng mà cứ thỏng tay, thấy dậm chân mà cứ chùn bước. Tối ngày chỉ biết loay hoay, đoanh vây trong tháp vàng, với những hương đăng nghi ngút, giữ mãi những hình thái sinh hoạt, không còn đáp ứng phù hợp, với những nhu cầu cấp thiết mới, tức là làm một việc làm vụng dại – ấu trĩ. Nếu cố chấp bảo thủ mãi những hình thức sinh hoạt lỗi thời, tức là vô tình đẩy lùi xã hội, và làm cho tổ chức GĐPTVN thoái hóa, khô héo dần trong xác cũ.

Đến hẹn lại lên, hằng năm tích cực tham gia các cuộc: Hội thảo – hội ngộ quanh đèn – các kỳ trại lễ – trại truyền thống – bồi dưỡng – chuyên năng – dã ngoại – giao lưu… Và cứ mãi miết như thế cuốn hút tuổi hoa niên. Bên ánh lửa trại lưu luyến còn sót lại – hay dưới lều trăng lộng gió, chúng em trao cho nhau từng cuốn lưu bút tình lam – ghị lại cho nhau biết bao cảm xúc thân thương, để rồi sau mỗi kỳ trại:

“Tay cách xa nhưng tim không xa
Gan thép ta chia tay đừng buồn !…”

Để rồi mỗi lần giở lại từng trang lưu bút “Vui tươi ta biết trong lòng nhớ lòng !…” Dưới mái lều chan hòa ánh trăng, chúng em lại gối tay nhau “thức trọn đêm nay…” để mà tâm sự – trao đổi kiến thức Phật pháp, khuyến khích nhau tinh tấn sinh hoạt – tâm huyết hy hiến phụng sự tổ chức, sách tấn nhau Tâm Bồ Đề kiên cố – dũng tiến trên đường đạo. Hứa hẹn với nhau cố gắng gìn lòng son sắc, gắn bó – giữ vững niềm tin tổ chức GĐPTVN, hẹn gặp lại nhau trong những kỳ trại giao lưu kế tiếp. Tiếc rằng cũng vì chiến tranh, sau những lần di tản, những cuốn lưu bút ghi lại biết bao dấu yêu ngày nào đã thất lạc đi theo năm tháng.

Những giai đoạn trước đây, hình ảnh – mầu áo Gia Đình Phật Tử tự do sinh hoạt bất cứ ở đâu – tất cả mọi nơi trên chính quê hương mình, từ mái chùa thanh tĩnh thân yêu, trường học văn hoa, công viên nên thơ, khu du lịch thơ mộng, khu dân cư nhộn nhịp nô nức hay núi – rừng yên ả u tịch.

Em đến với Gia Đình Phật Tử, được tu học – sinh hoạt 4 bộ môn:

– Phật Pháp: Mục đích của Đức Phật vào đời:

“Khai thị chúng sinh – ngộ nhập Phật Tri Kiến”.

Phật Pháp là chân lý diệu hữu như thật, nhận chân thực thể “bản lai diện mục” hướng đến giác ngộ. Phật Pháp là một hệ thống triết lý sống phổ quát, trên nền tảng trí tuệ – từ bi, thực tập hướng đến đời sống đạo đức – chân hạnh phúc – thoát khổ.

“Phá vi trần xuất kinh quyển”-‘Kinh Hoa Nghiêm’

Thể tính của Kinh ‘Phật Pháp’ rộng lớn cả tam thiên đại thiên thế giới, vo tròn nhét trong hạt bụi nhỏ. Người có tuệ giác nhận chân thể tánh, đập vỡ hạt bụi ôm trọn quyển Kinh. Thế gian mãi mê thân phận lau sậy hèn mọn, hạt cát giữa sa mạc mênh mông, một giọt nước giữa trùng khơi dậy sóng, hời hợt hót suông – khởi niệm phiền não tam độc khổ đau – mãi miết trầm luân, chỉ là “Gã Cùng Tử hạt châu trong bâu áo” khó bao giờ mở mắt tỉnh thức, đập vỡ vô minh – ngộ nhập tri kiến Phật.

– Hoạt động thanh niên GĐPT, nhằm mục đích rèn luyện thân – tâm, giáo dục kiến thức. Ý thức điều chỉnh – hoàn chỉnh nhân cánh – phẩm hạnh. Xây dựng đức tính kiên nhẫn – tự chủ tự lập – không vị kỷ tiêu cực – giao tiếp cởi mở vị tha, cộng tác hòa hợp. Đầy đủ kỹ năng vào đời, thích ứng – an toàn – lành mạnh trong cuộc sống, xử lý tình huống thực tiễn, kiện định lập trường. Có khả năng làm chủ bản thân, biết kiểm soát – thay đổi hành vi, biết giải quyết những những cơn lốc bốc đồng – mâu thuẩn va chạm xung đột những khó khăn thách thức trong đời thường. Có sức khỏe – tháo vát – có bộ óc nhạy bén, phát huy hiệu năng sáng tạo, ứng xử năng động, sáng suốt – biết thiết lập đề án – vạch kế hoạch – đặt mục tiêu, biết tổ chức – điều hành – lãnh đạo.

– Văn nghệ: Văn hóa – nghệ thuật là một mô thức sinh hoạt tinh thần – biểu hiện cảm xúc. Văn hóa – nghệ thuật qua lăng kính GĐPT phản ánh hiện thực Phật hóa – bắt nguồn từ tinh thần từ bi – giác ngộ – giải thoát, là phương tiện giáo dục truyền tải giáo lý tác động – chuyển hóa mạnh mẽ lên quan niệm – môi trường nhịp sống sống xã hội. Văn hóa – văn nghệ GĐPT xây dựng tôn vinh nhân bản, chọn con người làm đối trọng định hướng vươn tới giá trị đạo đức chuẩn mực – Phật hóa xã hội toàn diện.

– Hoạt động xã hội: Mục đích GĐPT:

“Đào luyện thanh thiếu đồng niên thành Phật Tử chân chánh.
“Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo”.

Với tinh thần giáo dục khai phóng – huân tu thiện hạnh – nuôi dưỡng hạt giống từ bi, GĐPT hòa nhập cộng đồng, phục vụ tha nhân, phụng sự xã hội, làm nhiêu ích nhân loại, thiện hóa xã hội.

Bốn bộ môn sinh hoạt – tu học của GĐPT là những hóa thành diệu dụng, có Học – có Tu, hướng đến cứu cánh giác ngộ – giải thoát toàn diện.

Ôi thân yêu biết bao tình lam ! Cái tình cảm thiêng liêng – ruột rà chung cùng dòng máu lam hiền hòa, mãi mãi thắm thiết khắc ghi khó bao giờ phai nhạt. Trên thế giới, chưa có một tổ chức nào có tinh thần dân chủ – bình đẳng – hòa hợp như Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Ở GĐPT có mối quan hệ đồng hạng, tình cảm anh – chị – em thiêng liêng thắm thiết tình lam. Ở đây không có mối quan hệ thầy – trò, ông – bà, cô – dì, chú – bác, mà chỉ có anh – có chị – có em, ‘anh – chị là Huynh trưởng kiêm Gia trưởng cũng vậy, bởi vì nguyên bản anh – chị là Huynh trưởng’. Dù em là tuổi thơ, tuổi đời mới lên bảy – lên tám, dù anh – dù chị có mái tóc bạc phơ trên bảy – tám mươi tuổi… thì vẫn là anh – là chị – là em, tay trong tay:

“Nào về đây ta họp đoàn cùng nhau …
Anh với em ta về sống vui trọn ngày …”

“Cùng nhau múa chung quanh vòng,
Vui cùng vui múa vui …”.

Để rồi mỗi lần vào dịp Phật Đản – Vu Lan – Tết Nguyên Đán, chúng em tổ chức thành đoàn, đến mỗi tư gia thăm hỏi thân thiết chúc mừng quý Anh Chị trưởng bối cao niên – thân thiết chúc mừng Huynh trưởng Đoàn – bạn bè đồng sự, làm rộn rã cả góc phố. Có ai đó trong chúng em, mỗi gia đình riêng, có cuộc vui, hoặc gặp hoàn cảnh khốn khó – ốm đau bệnh tật, hoặc mãi mãi nằm xuống. Dù có bận bịu – tất bật lo toan vì cuộc mưu sinh, chúng em đều gát lại một bên, không ai bảo ai, nhận được tin hiệu là chúng em nôn nã – vội vã đến với nhau, chung lòng thương yêu – tận tụy lo toan cho nhau.

Dù anh – dù chị – dù em, vì cuộc mưu sinh – nhu cầu công tác hay du học phương xa. Dòng máu lam trong mỗi anh – chị – em vẫn mãi mãi hiền hòa tuông trào trong huyết quản, mãi mãi hoài niệm nhớ về ngôi chùa xưa, nơi có mái ấm Gia Dình Phật Tử, nơi đã trưởng dưỡng đạo tâm cho chúng mình mãi mãi lớn khôn. Rồi một ngày nào đó, rồi anh – rồi chị – rồi em bất chợt trở về, gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, vội vã ôm choàng lấy nhau, trút cho nhau bầu tâm sự qua bao tháng năm dài nhung nhớ. Dù cho có anh – có chị – có em đến với GĐPT sau này, vẫn không cảm thấy xa lạ, anh chị em tình lam thắm thiết trăm trứng nở hoa, cùng nhau nắm tay – cùng hát:

“Đây gia đình cùng nhau chung thân ái !…”

Tôn kính niệm ân công đức Gia đình Phật Tử Việt Nam, một tổ chức giáo dục đạo đức tâm linh hiện đại, đào tạo nên những con người tri thức – tuệ giác, có đời sống văn hóa tốt đẹp thiết thực, được cộng đồng – xã hội nhiệt liệt chấp nhận, dang rộng đôi tay hoan nghênh – tận tình chào đón: Khai phóng – nhân bản – vị tha – giác ngộ – giải thoát. Đã đào tạo cống hiến cho đạo pháp biết bao Phật tử thuần thành – chân chánh, trao lại cho xã hội biết bao công dân tốt – đạo đức – hiền hòa – vị tha – gương mẫu. Dâng hiến biết bao hiền tài ắp đầy nhiệt huyết cho dân tộc – đất nước – Đạo pháp. Tôn kính niệm ân công đức tiền nhân – Huynh trưởng đi trước, những anh – chị có đức hạnh viên dung – có trí tuệ tỏa sáng – nhận chân thực tại như thật – phá vỡ tà kiến – nhiếp phục hàng ma, lợi lạc tiên giác – hậu giác, là long tượng – thạch trụ, là nơi nương tựa – là niềm tin vững chãi cho hàng hậu học, là uống nước nhớ nguồn, là tri ân tôn kính Phật Pháp.

Cương vị Huynh trưởng cao quý:

  • Là một nhà giáo mô phạm, có thân – khẩu – ý giáo gương mẫu.
  • Là một kỹ sư – chuyên gia bác học nghiên cứu tâm lý – sản xuất ra sản phẩm tâm hồn.
    – Là một chiến sĩ xung kích trên mặt trận tâm linh.
    – Là một thiền sinh với một công án to lớn – đang đối mặt trước hai bờ sinh – diệt.

Huynh trưởng, đây là trách nhiệm thiêng liêng mà tổ chức tin tưởng trao phó nhiệm vụ giáo dục, vì đàn em thân yêu mà:

“kế vãng khai lai – truyền đăng tục diệm”.

Là chiếc cầu kết nối – trao đuốc – thêm lửa – mở đường – truyền trao tri thức cho đàn em – hàng hậu học nối bước đi sau.

Thế gian luôn luôn bệnh hoạn, Tham – Sân – Si, Tam Độc tìm ẩn thâm sâu trong mỗi con người trần tục, tạo nên biết bao sóng gió đau thương cho nhân loại:

Tham: Lòng tham bất tận kích thích tham muốn chiếm đoạt: Giàu sang như hạt sương đọng trên nhành hoa buổi ban mai. Tiền tài như phấn thổ – vật chất tồn tại khách quan, dễ dàng nhận chìm lương tri, dẫm đạp nhân nghĩa. Người mà nô lệ đồng tiền “Tài”, xem người khốn khó nô lệ hèn hạ.

Lịch sử đã cho thấy, “Sắc” đẹp đã nhận chìm biết bao anh hùng cái thế, làm sụp đổ cả một vương triều. Tình ái là sợi dây xích thằng ràng buộc, làm tái diễn luân hồi khổ đau mãi miết.

“Con là nợ – vợ ‘chồng’ là oan gia – cửa nhà là nghiệp báo”
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.”
‘Truyện Kiều’.

Công “Danh” vinh hiển như bọt nước đầu gành, danh lợi vinh hoa như chiếc hài xinh xắn nâng bước chân đi, một mai đường đời mòn gót, chỉ còn trơ lại chiếc hài rách tươm xơ xác, thế thái – nhân tình ngoảnh mặt làm ngơ, chỉ còn trơ trụi người lữ khách độc hành gỏ bước đường khuya hun hút.

Nhận thức đúng về công danh chân chính là biết sống có lý tưởng, có đam mê, biết giữ lòng tự trọng, luôn luôn gột rửa tâm hồn, nỗ lực phấn đấu, cống hiến tài năng, có đời sống đức độ, có thái độ cư xử hòa nhã, biết lắng nghe – cảm thông, sẻ chia với mọi người bằng tài đức của chính mình.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” – ‘Nguyễn Công Trứ’.

Thế hệ Huynh trưởng trẻ hôm nay nhận thức bổn phận – trách nhiệm – có ý chí – nghị lực sẵn sàng đương đầu với khó khăn, vượt qua thử thách dòng đời, cố gắng theo đuổi ước mơ – hoài bão – lý tưởng đến cùng. Với tự tin – bản lĩnh – bầu nhiệt huyết sẵn có, chắc chắn tuổi trẻ làm nên kỳ tích – sang trang lịch sử – tạo nên bước ngoặc lớn – xây dựng thành công – hãnh tiến vinh quang.

Lương “Thực” là món thuốc để chữa cái bệnh nơi thân, không đành nô lệ miếng ăn mà phải ngửa tay xin xỏ, đánh mất nhân phẩm.

“Ăn coi nồi, ngồi coi hướng”
“Miếng ăn là miếng tồi tàn,
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”
‘ca dao – tục ngữ’.

Phần lớn người ta xem trọng những giá trị vật chất, những tác động nhất thời mà nó đem lại, quên đi tính chất thấp hèn, chỉ tạo thỏa mãn giai đoạn. Vật chất là đầu mối khơi lên biết bao tranh chấp, giành giật hơn thua trong xã hội, vì thế mà thế thái nhân tình “mất đi một miếng lộn gan lên đầu”.

Một giấc ngủ sinh học tự nhiên – đúng lúc, sẽ giúp đầu óc tỉnh táo – thân thể thư giản sảng khoái, tái tạo lại nguồn năng lượng đã bị hao hụt trong ngày – tái sinh tràn đầy sức sống . Nhưng dung dưỡng mê ngủ “Thùy”, dẫn đến mụ mẫm, uổng phí thời gian vàng ngọc.

Sân: Bản chất sân si – nóng nảy làm nảy sinh đố kỵ – thù ghét – căm hận – giận dữ, không tự chủ – không kềm chế được ngã ái bản thân, dễ dàng mắc phải sai lầm, đào thêm hố ngăn cách – nhận chìm tình cảm thiêng liêng, không còn tỉnh táo kiểm soát hành vi – nhận biết được đạo lý – sự việc. Sân hận tạo nên nhiều thiệt thòi, làm cho mọi người chê trách – khó gần – xa lánh, làm ảnh hưởng đến sức khỏe – đến hệ tim mạch, nguy hiểm hơn là dẫn đến tai biến mạch máu não.

Kinh Hoa Nghiêm có dạy:

“Một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng mở ra.”

Và:

“Một đốm lửa sân, có thể đốt cháy muôn ngàn cánh rừng công đức.”

Đức Phật khuyến nhủ:

“Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não không đến”.

Si: Thiếu ý thức, để cho mù quáng – mê muội dẫn dắt sai lạc – làm lu mờ lý trí – tri kiến, không nhận thức đúng sai – ảo tưởng không thực tế.

Tôn giáo có còn đủ tư cách độc tôn để làm cái chức năng thiêng liêng của mình là lãnh đạo tinh thần – giáo dục đạo đức tâm linh cho nhân loại được nữa hay không ?

Hầu hết các Tôn giáo đang ráo riết tranh giành ảnh hưởng trên toàn thế giới, đang ra sức nhả ra biết bao độc tố mê hoặc, nhiều sắc màu quyến rũ, quy tụ tín hữu cho đông, mà không cần thiết phải giữ nguyên bản sắc ban đầu, không cần biết mục đích phải đi về đâu và nguyện vọng ý thức thâm sâu từ mỗi con người !

Sự cuồng tín của tôn giáo hữu thần, mang đến một cái nhìn thui chột – sai lầm – lệch lạc, đẫy con người què quặt – khập khiễng vào thời hoang sơ, đầy dẫy bóng tối dọa dẫm của thế giới Thần linh vô hình ảo tưởng, tách rời nhân bản, nhận chìm sinh linh vào chốn vô minh đen tối, chỉ còn biết có lễ bái – cầu đảo – cúng kính – van xin thần quyền, phó mặc đời mình cho năng lực vô hình – ngoại giới điều khiển.

“Người ta đến với Đạo Phật bằng sự tự nguyện – tự giác. Qua nghiên cứu và thực hành để hoàn chỉnh nhân cách chính mình, chứ không phải đến để hoàn thành nhân cách của một vị Giáo chủ như ở các Tôn giáo duy tâm Thần quyền khác, để rồi tự vong ngã – vong thân – cúi đầu nô lệ thần phục những kẻ nhân danh…”

Những kẻ lãnh đạo Tôn giáo quá khích – hiếu chiến, muốn bành trướng thế lực của đạo mình, mà đang tâm mở ra các cuộc bạo hành Thánh chiến – Thập tự chinh, khủng bố độc ác, lùa con người vào chỗ chết nếu không thần phục theo họ. Họ dùng sức mạnh của gươm đao – súng đạn quân sự, sức mạnh chính trị của kẻ thống trị và dùng cả sức mạnh kinh tế – tiền bạc (đã cướp giật được từ các cuộc xâm lăng) để dụ dỗ – mua chuộc – o ép – bắt buộc theo đạo của họ. Họ dùng cả hình thức đê tiện – hèn hạ như mua bán – gán ghép – gài thế – bắt bí cả vấn đề sinh lý. Lợi dụng sự ham muốn – đòi hỏi – khao khát tình dục của các cặp hôn nhân lấy vợ hoặc lấy chồng ngoại đạo. Họ thúc ép bắt buộc học giáo lý – rửa tội – cải đạo theo đạo của họ rồi mới cho kết hôn.

Có Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT có tu – có học – có chánh kiến – tỉnh thức. Tại sao không đủ tỉnh táo để thức tỉnh – giác ngộ người bạn đời. Mà ngược lại, dễ dàng vô minh – dễ dàng để bị liệt vị một cách thảm hại. Nhẹ dạ cả tin, dễ dàng bị lôi cuốn mê hoặc vào quái đồ ngoại đạo, đánh mất Tâm Bồ Đề đã được trưởng dưỡng kiên cố.

Hơn 25 thế kỷ trôi qua, lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao biến đổi bể dâu. Nhiều Tôn giáo xuất hiện – tăng trưởng – bành trướng – phân hóa rồi tự hủy diệt. Đạo Lão – Đạo Khổng đã trở thành lạc hậu. Các Thần linh đã bị lật đổ bởi Thượng Đế, rồi cũng chính Thượng Đế cũng bị tuyên bố là đã chết từ lâu rồi.

Tham – Sân – Si đốt cháy làm thiêu rụi tình người, làm cho vết thương đời rách tươm rỉ máu, làm cho lòng người hoang mang, niềm tin chợt mất. Tam độc, đây là những di căn trầm kha làm lây nhiễm suy yếu tạo nên sóng gió, nhận chìm sức sống nhân sinh.

Huynh trưởng có tu – có học – có hàm dưỡng, được trưởng thành bởi năng lượng từ bi đẹp đẽ. Luôn luôn tuệ giác – tỉnh táo, không hề khởi niệm vô minh, mê vọng ái nhiễm dẫn dắt làm cho sa chân lạc bước, làm mất khiểm soát trở thành nạn nhân để cho ngoại vật điều khiển – dẫn dắt chi phối. Với tấm lòng vị tha – nhân ái – cởi mở yêu thương bát ngát, không vì tuổi cao, sức khỏe yếu kém, sinh kế tục đế đời thường đa đoan làm khủng hoảng, đánh mất bình tĩnh, thể hiện quyền uy, lớn tiếng lấn lướt, làm mất lòng tin ảnh hưởng đến đạo đức – đến điều hành sinh hoạt.

Huynh trưởng là tấm gương sáng mà đàn em đang soi rọi vào, hình ảnh là thế giới ngữ, những hành động của quý anh – chị hôm nay là bài học không lời để cho các em nối bước, tái hiện lại trên mỗi bước đi sau này.

Nhờ gần gủi quý anh chị tri thức, được thương yêu dìu dắc sinh hoạt hướng đến đạo đức toàn thiện. chọn văn hóa Lục Hòa một hệ thống chủ nghĩa ý thức làm nền tảng sống – duy trì mạng mạch tổ chức GĐPTVN.

Người ta thường lầm nhận rằng “nhân sinh là không hư” không có giá trị đích thực. Ngoài thỏa mãn nhu cầu vật chất công danh – ăn uống – nhà ở – tiện nghi – trai gái… là đủ. Họ phó thác tinh thần vào tìm tòi hưởng thụ, do đó mâu thuẩn cạnh tranh sinh tồn, lấn lướt – dẫm đạp lên nhau, hơn thua tranh giành vì cuộc mưu sinh.

Con người được sinh ra đều trần trụi như nhau, đều bình đẳng trên mọi sự sống. Không ai giàu nghèo – quyền thế hơn ai. Không ai có quyền tự cho phép mình có cái quyền ngự trị lên sự sống kẻ khác, lầm nhận mình là trung tâm vũ trụ.

Con người mãi trôi lăn theo dòng định mệnh, mỗi sinh linh thọ nhận mỗi dòng sinh mệnh khác nhau, được thể hiện qua “Nghiệp”.

Nghiệp là hiện Quả của Nhân đã tạo nên từ trước đó. Nếu Nhân lành thì phúc khí được tốt hơn, nhưng nếu Nhân mà xấu ác, thì kết Quả phải là đắng cay khó tránh khỏi.

Mỗi người đều có sự sống tự do – bình đẳng, cùng nhau dừng chân đồng trú trên hành tinh này, do đó phải có đời sống đoàn kết – hòa hợp, biết chia sẻ cho nhau nơi chốn an trú yên bình, chung tay đối phó biết bao hiểm họa – chướng duyên – nghịch cảnh đời thường.

Huynh trưởng GĐPT những người tri thức, hầu như tinh hoa của trời đất đều quy tụ ở đây. Nhờ tu học tinh thần “Thân Hòa Cộng Trụ”. Các anh – các chị có phong cách sống hòa hợp – thân kính. Luôn luôn vì tình lam thân yêu – chung sống chan hòa tương trợ trong suốt thời gian tu học, giúp đỡ nhau trong những kỳ trại giao lưu. Tỉnh thức nhìn lại chính mình. tự vấn với lòng, nếu không có đàn em thân yêu thì TÔI có được vinh dự đứng trước Đàn – Đội – Chúng – Đoàn – Đơn vị ? nếu không có đàn em thì TÔI có còn là Huynh trưởng ? !

Ngôn ngữ là chìa khóa mở cửa tâm hồn – đi vào ngỏ lòng nhau. Nếu chìa khóa mà thô kệch gỉ sét chỉ làm thêm khúc mắc. Lời nói có tố chất êm ái truyền cảm hứng, dễ làm cho lòng người xua tan âu lo buồn nãn, làm cho người ta thêm phấn chấn – vươn lên – an lạc – hạnh phúc. Lời nói có chất liệu mềm dẻo, gắn kết tình người lại với nhau, cảm thông hòa nhịp trong cùng dòng sống.

Nếu không có tha nhân, khó hình thành nên bản ngã. Sự sống tồn tại hôm nay từ vật chất đến tinh thần, luôn luôn nương tựa – nhờ vã vào sự ban phát của đồng loại chung quanh.

Nhờ tu học tinh thần “Khẩu Hòa Vô Tránh”. lời nói lúc nào cũng hòa ái nhẹ nhàng dễ thương – dễ cảm mến. Luôn luôn tôn trọng – tương kính nhau, không tranh cãi, giữ gìn hòa khí – khuyến khích – khuyên bảo – sách tấn nhau, tế nhị – lịch sự – có văn hóa trong giao thiệp – sinh hoạt – hội họp.

Ý thức là một vấn đề khúc mắc – nan giải. Ý thức được xây dựng trên mỗi nhận thức cá biệt. Có những dòng ý thức hệ áp đặt, tạo nên sóng gió – gieo rắc nỗi kinh hoàng – bất an, tạo nên thống khổ cho nhân loại.

Cùng trên một dòng sống, nhưng qua mỗi khúc quành mang mỗi địa hình khác nhau. Dù dòng nước có đi qua nhiều ngỏ ngách, mang nhiều dáng hình ngoằn ngoèo hay thẳng tắp – yên ả hay cuồn cuộn, nhưng bản chất của nước vẫn là hiền hòa – mát dịu. Hãy để cho mỗi dòng ý thức được hòa nhập vào biển cả mênh mông, dù cho có cố tình tạo nên nhiều mùi vị khác biệt, nhưng cuối cùng muối vẫn là một vị mặn bất biến.

Nhờ tu học tinh thần: “Ý Hòa Đồng Duyệt” lúc nào cũng biết lắng nghe – ái kính, tôn trọng tư tưởng – ý kiến, cùng nhau bàn bạc tìm ra chân lý chung nhất, hoan hỷ chan hòa chấp nhận.

Tất cả mọi người đều bình đẳng trong cuộc sống, cùng có dòng máu đỏ, giọt nước mắt cùng mặn. Không một ai có quyền lạm dụng quyền hạn – sức mạnh… xâm phạm lên tự do cá nhân hay tập thể. Không tự áp đặt tạo nên những luật lệ hà khắc để trồng lên đầu dân đen, nhằm mục đích phục vụ cho giai cấp thống trị, xem giai cấp khác là thấp hèn – nô lệ – bị trị. Hoặc cho rằng mình có đủ quyền lực trong tay, lúc nào cũng đeo nhiều loại mặt nạ khác nhau, để khỏi phải xuất hiện dưới bộ mặt hèn hạ – gian trá, để có thể dễ dàng chụp mũ, hống hách chèn ép – trù dập – phá rối…

Có những giáo điều được đặt ra để ràng buộc con người chỉ biết cúi đầu vâng phục một cách mù quáng, đánh mất tự chủ – nhân bản, phó thác đời mình cho thần quyền ngoại giới – hư vô không tưởng.

Phải nhanh chóng xóa bỏ những luật lệ vô hồn – khe khắt đánh mất tự do dân chủ, tao nên mâu thuẩn bất công, ngăn cách tình người – chia rẻ trình tự dân tộc.

Nhờ tu học tinh thần “Giới Hòa Đồng Tu” mà tinh thần tự giác nâng cao, tuân thủ – nghiêm túc thọ trì – chấp hành giới luật – nội lệ, chung sống hòa hợp, luôn luôn đoàn kết – không bao giờ bất hòa – tư ý chia rẽ. Tuân thủ – chấp hành – nghiêm trì giới luật – nội quy – quy chế – nội lệ để ngăn ngừa xấu ác, thì hạnh phúc phát sinh – tự do tự tại.

Bởi do kiến chấp mà tự ngã nâng lên, dẫn đến cái thấy bất nhất. Có người “Thân kiến”, nhìn thấy vật chất là không hư hoặc tồn tại vĩnh viễn. Cùng có cái thấy mà người ta hời hợt chỉ nhìn phớt qua bên ngoài hoặc chỉ nhìn phiến diện “Biên Kiến” một bên. Hoặc mụ mẫm – vô minh nhìn thấy khác đi, mang màu sắc “Tà Kiến” – thần quyền dẫn hướng sai lạc. Có người cho rằng chỉ có cái thấy “Kiến Thủ” của riêng mình là đúng, còn cái thấy của người khác là sai “Người mù rờ voi…”.
“Chánh Kiến” là cái thấy chân chánh – rõ ràng, thấy biết đúng đắn nhân bản toàn triệt. Phải giúp cho mọi người hạn chế bất đồng – dị biệt, làm khủng hoảng tâm thức, cùng hướng về cái thấy chung nhất.
Nhờ tu học tinh thần “Kiến Hòa Đồng Giải”, trao đổi kiến thức, cảm hóa – hòa giải những ý kiến bất đồng, cùng nhau an nhẫn tìm ra kiến giải, hoan hỷ thống nhất, cùng nhau đồng bộ phát triển.

Nhân sinh trên hành trình tìm đến giác ngộ để giải thoát, chúng ta đang tạm dừng chân trên trạm viễn hành, để rồi còn phải tiếp tục khởi hành đi tới. “Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy” chỉ làm vướng bận thêm bước chân người lữ khách, đến lúc cần thiết là giũ áo ra đi. Những phước phận có được chia sẻ đồng đều cho bạn đồng hành có đủ tư lương để cùng dấn thân trên hành trình sống.

Nhờ tu học tinh thần “Lợi Hòa Đồng Quân”, có đời sống chan hòa – đồng sự bình đẳng, chia sẻ quyền hạn – phận sự – phạm hạnh đồng đều, sẵn sàng nhận lãnh phật sự – tinh cần hoàn thành nhiệm vụ giao phó tốt nhất. Không hề thể hiện hành vi thế gian gia trưởng – tự tôn, luôn luôn tự trọng – tôn trọng nhân chủ – tôn trọng đàn em, người nào việc nấy – không dẫm chân – lấn lướt hơn thua.

Có câu hỏi: “Nhân tài, người là ai, đang ở đâu ?”

Nhân tài là người có thành tích để đời, hiễn hách thực tiễn – đã thành danh. Nhưng cũng có những nhân tài chán muồi thế sự – xem thường công danh – rũ áo nhàn cư. Ngọa Long – Phượng Sồ đã một thời ẩn cư nơi hốc núi…

Nhân tài không phải bỗng nhiên mà có, hô lên là hiện diện. Muốn có tài danh, mỗi nhân giả phải được rèn luyện kinh qua thử thách gian nan, nỗ lực tu học, miệt mài hàm dưỡng mới đủ năng lượng hoàn thiện. Không chỉ với cái học nửa vời, bỏ trại – bỏ bậc – bỏ tu – bỏ học mà hoàn chỉnh được nhân cách Huynh trưởng. Với cái kiến thức nửa vời, cái tu hờ hững – lệch lạc, thì kết quả hành hoạt chỉ có là bản năng – cảm tính. Nếu làm việc chỉ với cảm tính – bất nhất – không có chương trình – kế hoạch thì hiệu năng chẳng đạt – mà góp phần làm suy yếu – phá rối mà thôi.

Thế gian có câu:

“Nhiệt tình + ngu dốt = phá hoại”.

Thành công phật sự – lịch sử được làm nên, là kết quả đóng góp của cả tập thể – tổ chức to lớn. Dù TÔI có tài ba, cá nhân khó làm nên được, bởi vì chưa phải là hiện thân của Bồ tát diệu thủ nghìn mắt nghìn tay. Sự thị hiện nghìn mắt nghìn tay, là người Huynh trưởng tri thức quán chúng, là người dám hy sinh – làm việc miệt mài tinh cần – có kế hoạch – hiểu biết thấu đáo – tận tường sự việc – tiên liệu thành bại, thiết tha vì đàn em – vì tổ chức mà phụng sự. Người biết tự gát mình qua một bên – biết lắng nghe – biết vận dụng tài năng thu hút – tập hợp quần chúng – hợp lực – chung sức – lục hòa cọng trụ thành toàn phật sự.

Triết gia Hy Lạp Diogène, ban đêm ông ngủ trong một cái thùng, ban ngày ông thắp đuốc lang thang đi khắp ngả phố. Có người hỏi, ông trả lời:

– “Ta đốt đuốc đi tìm người hiền !”

Với ngã ái tham vọng với cao:

“Đời đục cả một mình ta trong
Người đời say cả một minh ta tỉnh”.

Với tâm lý ký gửi – sống nhờ tạm bợ – được chăng hay chớ, hụt hẫng – thở dài thổn thức, phó mặc bỏ đời mà đi – lang thang buông trôi dòng chảy vào ngỏ cụt – không lối thoát, thì đời sống vô vị – lãng phí biết bao!

Chả lẽ như gả lái đò:

“Đời say cả! Sao không ăn cả bã, uống cả hèm, cho say luôn một thể?

“Đời đục cả! Sao không quậy thêm bùn, vỗ thêm sóng, cho đục luôn một thể? Tội chi mà phải bỏ đời mà đi ?”

Thì diễn biến bi hài cuộc đời trôi nổi về đâu ?!

Người hiền là người biết sống, sống xứng đáng – sống có ý nghĩa giữa lòng đời, phải như đóa sen thơm được vươn lên từ bùn – ngát hương dấn thân – lan tỏa thể nhập vào đời. Với tinh thần xả kỷ – từ bi, đem vui – giải khổ. Từ thâm sâu ký ức một thời vàng son ùa về – một thời mà tuổi trẻ lên ngôi – là trụ cột vững vàng xây dựng – nắm vững – duy trì – mở rộng – phát triển tổ chức. Người Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử tâm huyết trải lòng vị tha, dù cuộc đời còn lắm phong ba – giông tố nghìn trùng – sóng dựng mù khơi, với hạnh nguyện bi hùng, nguyện làm chiếc thuyền giữa dòng đời gian nan để mà thế độ.

Văn hóa – đạo đức xã hội bệnh tật khập khiểng – thoái hóa dần đến tụt hậu rụi tàn, Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín bị coi là lỗi thời, nhường chỗ cho những mưu mô toan tính – tranh giành quyền lực – địa vị – lợi dưỡng. Năm hạnh: Tinh tấn – Hỷ xã – Thanh tịnh – Trí tuệ – Từ bi đang bị xem nhẹ, thiếu năng dưỡng – chuyên tu – hành hoạt.

Định mệnh nào đã đẩy đưa – con thuyền GĐPT sao cứ mãi chong chênh nghiệt ngã – chưa được yên ả – thong dong hãnh tiến ra khơi. Huynh trưởng thì thiếu nhiệt tình cống hiến – Đoàn sinh thì còn yếu kém thiếu niềm tin – sinh hoạt chưa đều. Đơn vị GĐPT còn có cái gì đó còn lỏng lẻo – chưa được vững vàng – phát triển !

Người Huynh trưởng GĐPT có nhiệt huyết – tĩnh tại – sáng suốt, biết ngồi lại với nhau – biết phân tích sự việc cụ thể – biết xây dựng kế hoạch chiến lược bền bỉ lâu dài – biết xác định hướng đi, mà phải đi thật vững vàng trên chính đội chân của mình từng bước đi thật hùng tráng – vững chãi, đem lại đỉnh cao giá trị văn hóa GĐPT tĩnh tại thời đại thiết thực.

Lý tưởng Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử:

● Phụng sự Đạo pháp.
● Phụng sự Dân tộc.
● Phụng sự con người.

Với cái nhìn áp đặt thiển cận phong kiến – phi nhân bản của người xưa:
“Quân xử thần tử – thần bất tử bất trung, Phụ xử tử vong – tử bất vong bất hiếu”

“Chồng chúa – vợ tôi” – “Phu xướng – phụ tùy”
“Cha mẹ đặt đâu – con ngồi đó”

Nó đã lạc hậu – không còn thực tế nữa.

Phật giáo có một nền giáo dục Nhân Bản giá trị thiết thực:

Nhân: người

Bản: gốc.

Nhân bản là đức tính tự chủ. Con người có thể làm chủ chính mình và tự quyết định vận mệnh của mình, không bị chi phối bởi một khuynh hướng – năng lực phi nhân ngoại giới.

Thẩm thấu tinh thần Nhân bản, tiếp cận khoa học hiện đại, tầm mắt của Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT hiện nay đã được sáng suốt – mở rộng kiến thức, hiểu biết thế nào là tự do – nhân chủ – tự tại, không còn bị kiềm tỏa, mà có cái nhìn tự chủ – bao quát phóng thoáng hơn, có đời sống chánh hạnh “Bát chánh đạo”, không chấp nhận nô lệ – áp bức – bất công. Vô úy đập vỡ vô minh, đoạn tận ngã ái – phiền não, khát vọng vươn cao, mạnh dạn khai thị – nhìn thẳng vào như thật duyên sinh để chuyển hóa. Đỉnh điểm của Phật giáo là chân hạnh phúc, chọn con người làm đối trọng để giáo dục, là hải đăng tự thân, giác ngộ – nhận chân thực tại như thật, hướng đến giá trị toàn thiện – an lạc hạnh phúc đích thực cho bản thân và tha nhân.

Người Huynh Trưởng GĐPT có trách nhiệm thiêng liêng – cao quý, sẵn sàng hy hiến phụng sự – bảo vệ đạo pháp – dân tộc – con người, để thành toàn đạo nghiệp, bởi vì.

Đạo Phật có một hệ thống giáo lý tỉnh thức – giác ngộ, nhận chân cuộc đời như thật, mang tính nhân bản – chọn con người làm cứu cánh, không tin vào viễn kiến mơ hồ xa vời. Tuệ giác kiến giải vô minh – vươn đến giác ngộ để giải thoát toàn diện. Phật pháp là một phương cách sống tỉnh thức – tích cực – toàn thiện. Ứng dụng giáo lý Phật Dà để giác ngộ nhân loại, giải trừ phiền não đem lại thanh tịnh an lạc cho con người – cộng đồng – xã hội. Ứng dụng tinh thần nhân bản, vô úy giải phóng áp bức – bất công, hủ hóa – lạc hậu, xây dựng công bằng – bình đẳng, hoàn chỉnh nền văn hóa – đạo đức Phật giáo – GĐPT toàn diện.

Trãi qua biết bao dặm dài đoạn trường, một thực tại mà cái giá phải trả lại cho công cuộc an nhẫn duy trì mạng mạch “Duy tuệ thị nghiệp”, miệt mài tìm kiếm công lý rồi phải vượt qua. Ở cuối con đường, ngưỡng cửa của chân lý phải được mở ra tỏa sáng hiện thực.

Tìm lực của GĐPTVN trong lúc này không suy yếu. Cứ mỗi lần có cuộc phong ba, đứng trước nghịch cảnh thử thách, đối đầu với nghiệt ngã trái ngang, thì GĐPTVN lại càng đoàn kết chặc chẽ, vững vàng thêm hơn. Như đứa con ngoan hiền, GĐPTVN vẫn luôn luôn trung kiên, và sẵn sàng hy sinh vì đạo pháp, vì dân tộc vinh quang

Đứng trước tình hình nghiệt ngã, diễn biến phức tạp dẫy đầy thử thách cam go. Nhưng con đường chính nghĩa của chúng ta đang đi – của GĐPTVN truyền thống. Trong giai đoạn thử thách đầy cam go nghiệt ngã cao độ này, không biết sẽ diễn biến đến đâu, hay chuyển bước qua khúc quanh lịch sử như thế nào. Mỗi người Huynh trưởng – Đoàn viên GĐPTVN cần phải cẩn trọng – tỉnh táo – tuệ giác, sẵn sàng gánh vát gian nan đi lên bằng nguyện lực vô úy kiên cố – ngũ trược ác thế thệ tiên nhập – Phát đại nguyện – tu hạnh Duy Ma Cật để chờ đợi và sẵn sàng cho một bước tiến mới …

Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có … , có cuộ̣c sống tục đế – đi lên bằng con đường đạo hạnh đại bi Bồ tát, thể nḥập trí tuệ siêu việt – tính không – bất nhị ̣̣- ly ngôn thuyết, không giải bày bằng ngôn ngữ phiền não – kiến chấp đạ̣o đoạn, mà bằng tri kiến im lặng – một lập trường phương tiệ̣n thiện xảo. Im lặng ở đây không phải là không hiểu, không diễn đạt được, mà là diễn bày một ngôn ngữ tuyệt đỉnh – một sự im lặng sấm sét bất khả tư nghị – mặc như tôi.

Qua kinh Duy Ma Cật, cho chúng ta thấy cư sĩ và tăng sĩ đều có chung một mục đích đại nguyện như nhau, cùng đi lên trên con đường trọng yếu là tiến đến giác ngộ – giải thoát hoàn toàn.

“Thoát khỏi thế gian không phải là xuống tóc, là dồn hết sức lực để phá tan sự đam mê của mọi chúng sinh. Không phải một mình tuân theo giới luật, nhưng chối bỏ sự đức độ trong thanh tịnh an lành. Không phải là thiền định trong sự yên lặng của rừng thẳm, nhưng ở lại trong cơn xoáy lốc của luân hổi, và dùng trí tuệ cùng những phương tiện thiện xảo để độ chúng sinh tràn đầy phật pháp” Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – Vimalakirtinirdesa .

Tiếng gõ đồng hồ Tích – Tắc, Tích – Tắc mãi miết vang lên, cứ ngỡ rằng bất tận đến vô cùng. Nhưng thực tế, tính vô thường hiển hiện, sinh – diệt đang diễn ra từng sát na, có – không, còn – mất, được – thua, cụ thể – rõ ràng – như thật. Đó là quy luật, không tránh cải hay thay đổi được.

Đời sống con người mãi miết bập bềnh tuông theo dòng chảy. Trên mỗi dòng chảy cuộc đời không yên ắng tĩnh lặng như mặt hồ thu êm ả, mà cuồn cuộn – dậy sóng – chảy xiết, có quá nhiều khúc quành điên đảo và cũng còn có quá nhiều vũng xoáy não loạn làm cho đời sống bất an.

Cuộc đời không phải là nhung lụa ấm êm – bằng phẳng, trãi thảm – tung hô mời gọi nhân giả vào đời, mà ở cuối mỗi con đường, dẫy đầy nghiệt ngã, đang chờ đón thách thức từng bước chân khach lữ hành. Trên hành trình đi tìm lẽ sống, tha nhân cảm thấy lẻ loi – lạc loài – bất lực, mệt nhoài trước những trò chơi phóng tưởng của tạo hóa.

Con người được thăng hoa – hạnh phúc, hay khổ đau do hưởng nhờ vào NGHIỆP.

Nghiệp là kết quả tạo tác, là tài sản tích cóp – tạo nên trong hiện kiếp.
Nghiệp có: Nghiệp tốt – nghiệp xấu.

Nghiệp có tốt thì đời sống đẹp đẽ dễ chịu hơn. Nghiệp mà xấu thì đời sống dẫy đầy đau khổ nghìn trùng bủa quanh.

Nghiệp ! đeo đuổi đến suốt cả luân hồi.
Luân hồi là tái hiện lại sự sống của kiếp trước.

Muốn dứt nghiệp, giải thoát luân hồi, vượt ra vòng não loạn điên đảo, là mỗi tự thân chấm dứt tam nghiệp: Thân – Khẩu – Ý

  • Thân, không hành động xấu – ác.
  • Khấu, không nói những lời xấu – ác.
  • Ý, không có những suy tưởng, mưu kế xấu – ác.

Có – không – còn – mất chỉ là một sự thay đổi hành dạng – trạng thái, từ cái này hình thành một cái khác, thực chất nó không biến mất đi đâu cả.

Đạo Phật là đạo nhân bản, con người có đủ năng lực để tự giải quyết lấy thân phận – đời sống của chính mình. Một việc xấu xảy ra, hay một việc tốt đưa đến, là do tự thân tạo nên từ trước đó. Đạo Phật không thừa nhận thuyết định mệnh, bởi vì không có bàn tay của Thượng đế vô tưởng nào áp đặt lên đời sống nhân sinh.

Con người luôn luôn cúi đầu trước áp lực nặng nề được gọi là “Nghiệp”. Nghiệp có ra do khởi niệm vô minh. Cái hạt giống đầu tiên đã nông nỗi vội vàng gieo vào lòng đời, gặp phải gió duyên tác động tạo nên dòng sống khổ.

Nhân – Duyên – Quả đây là quy luật biện chứng tất thảy, một quy trình khép kín hình thành muôn sự muôn vật. Và cũng từ Nhân – Duyên – Quả tác động lên nhau dẫn đến vong ngã, làm biến dạng – mất đi một vật thể. Sự mất đi của một sự vật, không phải là mất hẳn, hoặc vắng bặt bóng dáng của nó trong không – thời gian, mà nó được thay đổi – biến dạng từ một trạng thái này sang một dạng trạng thái khác.

Sinh – Trụ – Di – Diệt” hay “Thành – Trụ – Hoại – Không” là một trình tự được gắn liền song song với hoạt động nhân quả biện chứng.

“Cái này có thì cái kia có – cái này sinh thì cái kia sinh – cái này diệt thì cái kia diệt – sinh diệt tương tục không gián đoạn.”

Người xưa nói: Cái chớp cánh của một con bướm tại cửa ngọ môn Tử Cấm Thành – Bắc Kinh, có khả năng làm xao động cả Kim Tự Tháp – Ai Cập. Một cái vẫy đuôi bé nhỏ của một con cá cũng làm xung động cả một đại dương mênh mông. Một phúc khí dù nhỏ bé của một cá nhân cũng làm ảnh hưởng cả một tập thể to lớn – một vũ trụ bao la và ngược lại. Vũ trụ cũng dư thừa khả năng tác động lên đời sống sinh thể. Cũng như thế, một cá nhân xấu cũng làm ảnh hưởng đến đời sống dân sinh cộng đồng – xã hội. Mỗi gia đình – thôn xóm đều có đời sống thiện lành, thì quốc gia thanh bình. Từ giới lãnh đạo cho đến nhân dân đều có cuộc sống Chân – Thiện – Mỹ, thì đất nước thịnh trị – mưa hòa gió thuận, thiên tai – dịch bệnh không còn, biến cố không hề xảy ra.

“Nhất nhơn tác phước – thiên nhơn hưởng.
“Độc thọ hoa khai vạn thọ hương”

‘Một người làm phước – ngàn người được hưởng.
‘Một cây trổ hoa, ngàn người được thơm lây’.

“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
“Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”.

‘Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi.’

“Chư ác mạc tác,
“Chúng thiện phụng hành,
“Tự tịnh kỳ ý,
“Thị chư Phật giáo.”

‘Đừng làm các điều ác,
‘Các điều thiện nguyện làm,
‘Tự thanh tịnh ý mình,
‘Ấy lời chư Phật dạy.’

“Đã mang tiếng ở trong trời đất
“Phải có danh gì với núi sông”
– Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ –

Sĩ phu với tâm thế – cốt cách trượng phu, trải qua dòng đời nghiệt ngã vì cuộc mưu sinh, gầy dựng gia nghiệp – đạo nghiệp, có chí nguyện vị tha, vì tha nhân mà hi hiến phụng sự. Dẫu biết rằng, với thân thể còm cõi còn lại – một ít hơi tàn ngắn ngủi, vẫn miệt mài vun xới mảnh đất vườn tâm, làm kiếp con tằm cần mẫn thắt ruột nhả tơ, trao lại cho đời gia bảo quý giá trác tuyệt, lưu lại cùng trời đất sử xanh muôn thuở.

Mạnh dạn nhìn thẳng vào như thật duyên sinh: Sinh – Lão – Bệnh – Tử, đây là dòng chảy tư tưởng đại thứ – là quy luật các pháp vô thường bất biến, ai ai rồi cũng nếm trải qua giấc mộng:

“Nhất thiết hữu vi pháp,
“Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
“Như lộ diệc như điện,
“Ưng tác như thị quán.”

‘Tất cả pháp hữu vi,
‘Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
‘Như sương, như chớp loé,
‘Hãy quán chiếu như thế.’
– Kinh Kim Cang –

Khi còn hơi thở là đời sống kéo dài. Những giây phút ít ỏi còn lại, phải sống sao cho xứng đáng – có ý nghĩa. Đến lúc tử thần gõ cửa, với dấu chấm hết tròn trịa, thì không hổ thẹn với lương tâm, thảnh thơi – nhẹ nhàng – an lạc – như “cánh nhạn quá từng không” – tự tại cất cánh ra đi như trút bỏ chiếc áo rách. Bởi vì từ khi vào đời, với hai bàn tay trắng, thì đâu có gì để mà vướng bận – nuối tiếc !

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
“Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”
– Thiền sư Vạn Hạnh –

Thân như bóng chớp chiều tà
‘Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
‘Sá chi suy thịnh việc đời
‘Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.’
– HT.Mật Thể dịch –

Viêt xong:
Lam Nhã Thảo Am
PL: 2566 – cuối Đông – Nhâm Dần – 2022.




PHẬT GIÁO VIÊT NAM – DÂN TỘC VIỆT NAM

DÂN TỘC VIỆT NAM

Cái hào quang chiến thắng đế quốc Pháp– chiến thắng đế quốc Mỹ – chiến thắng VNCN, là một men say đã làm ngất ngưởng choáng ngợp cộng sản Việt Nam, CSVN đã nghĩ rằng, đây là sức mạnh vốn có của đảng, khi hấp thụ được tinh hoa vong bản Marx – Lenin, người CSVN có đủ sức mạnh để độc quyền quyết định chiến thắng thống trị tất cả.

Với tham vọng bá chủ thống lĩnh, CSVN muốn tất cả phải tuân phục dưới gót dày xâm thực. Tôn giáo với chân lý nhân bản – tư do – tự chủ, là một chướng ngại vật làm cản trở tham vọng bá quyền, có khi còn có nguy cơ làm lung lay suy yếu quyền lực, dẫn đến làm mất đi cả một chế độ. Thế là CSVN ráo riết tập trung sức mạnh – trí tuệ, nghiên cứu hòng tìm ra mọi giải pháp hửu hiệu đánh phá – triệt tiêu tôn giáo, nhưng chủ yếu là Phật giáo VN.

Nhìn chung tín đồ Phật giáo rất nhiều – rất đông, đa số mọi người công dân đều có tín ngưỡng Phật giáo. Nhưng thật sự thời nay, không còn có bậc cao tăng chân chính lãnh đạo, cho nên co cụm èo uột mềm yếu tinh thần độc lập – tự do – tự chủ, không có sự đoàn kết – nhất quán, hầu hết đều là những tăng sai thường tình, có tư tưởng tiêu cực cát cứ riêng tư, có tham vọng nhục dục thâu tóm, qui tụ bành trướng theo hệ phái tông môn – tự viện, mà không cần thiết là phải nhất thống. Nắm được nhược điểm, từ kẻ hở to lớn này, CSVN mạnh dan thẳng tay đánh thẳng vào Phật giáo. Quan trọng nhất là đã gài thế bắt bí xỏ mũi, nắm được nhược điểm hèn tiện của tầng lớp hình đồng lãnh đạo giáo hội, giới chức sắc này chỉ còn có loay hoay co rúc trong tháp ngà, đoanh vây bởi hương dăng, không còn đủ sức đề kháng để mà cựa quạy, mọi sự điều răm rắp khom lưng tuân phục, chịu sự điều khiển sắp xếp của nhà nước, sai đâu đánh đó, ngậm bồ hòn nhắm mắt mà đánh. Vì sự hù dọa đê hèn, lo sợ bị mất đi nguồn tư lợi, hèn hạ vô tâm đuổi ra khỏi chùa ngay cả những đạo lữ – tử đệ trung kiên hy sinh bảo vệ chánh pháp. Một điều quan trọng hơn nữa, nhằm mục đích củng cố quyền lực danh tước hư vọng, nên đã muối mặt lừa thầy phản bạn, tham mưu sai sự thật với thế lực vô minh, những nhà cầm quyền dài tay làm việc quản lý về mặc tôn giáo, mà mù mờ không hiểu gì về cái thâm diệu của tôn giáo, nếu có được học – có được đào tạo, cũng chỉ nông cạn gậm nhấm được cái vỏ cứng nhắc sơ siễn bên ngoài, để rồi vô minh chụp mũ không thương tiếc những ai không phục tùng – không cùng phe phái.

Trước sự mê hoặc phỉnh dụ – tín điều của tôn giáo, da số tín đồ hôm nay cuồng tín trước muồi hương đăng, mù quáng trước những bày vẽ pha trộn sắc tướng lòe loẹt của tín ngưỡng dân gian, mê hoặc tuân phục bởi những hứa hẹn cho một an lành ở thế giới huyền hoặc bên kia. Nhà nước đã rút ra được những kinh nghiệm từ bài học quí báu này, đã đầu tư thật kỹ càng, huấn luyện đào tạo – nhuộm đỏ những thừa sai – dựng lên nhiều tổ chức – người ngợm hình đồng kịch kởm na ná, ẩn núp dưới màu sắc tôn giáo quốc đoanh, để thu hút những người nhẹ dạ cuồng tín cả tin, hòng lấy đó đánh vào hệ thống chính thống Phật giáo. Với phong cách tha hóa tồi tệ như hiện nay, đã đánh mất trọn vẹn niềm tin nơi quần chúng, có phải đã đến lúc, người xuất gia không còn đủ tư cách là trưởng tử Như Lai, đủ tư cách lãnh đạo Phật giáo VN được nữa?

Phật giáo VN là sức sống đạo đức tâm linh – là linh hồn của dân tộc Việt. Đánh phá Phật giáo VN là có âm mưu ruồng bỏ phá hủy đi nền đạo đức vốn sống của dân tộc. Sự phá sản băng hoại đổ nát cực kỳ trầm trọng thê thảm về mặt đạo đức tràn lan hiện nay, chịu ảnh hưởng bởi sự cuồng vọng thiếu tôn trọng của nhà cầm quyền về nền giáo dục của cao quí của Phật giáo VN. Với một viễn cảnh càng lúc càng xuống dốc tha hóa tàn tệ – nhiều bất đồng phức tạp bột phát bùng nổ càng lúc càng diễn ra gay gắt, tương lai đất nước này rồi sẽ đi về đâu, đây có phải là hệ lụy của nhân quả báo ứng khó tránh cải được?

Tinh thần văn hóa Phật giáo đã đóng một vai trò quan trọng thiết yếu, là dấu ấn in đậm sâu sắc, đã xác lập được vị thế Phật giáo trong lòng dân tốc Việt Nam. Cố tình dã tâm đánh phá Phật giáo – làm suy yếu Phật giáo, tức là đánh phá dân tộc Việt Nam – làm suy yếu đất nước Việt Nam. Đây là kế sách sai lầm của một tham vọng đen tối trầm trọng, cần phải được nhanh chóng chấn chỉnh sửa sai, thuận thảo với lòng dân. Với kế sách diễn biến hòa bình, phải đánh phá triệt tiêu làm suy yếu, phải quản lý chặt chẽ, nắm cho được những tổ chức ngoài đảng, đưa vào hệ thống chính trị, nhằm mục đích phục vụ nâng cao quyền lực giai cấp thống trị.

Kể từ sau năm 1975, trãi qua những năm dài gay gắt, thay vì vận dụng đạo dụ số 10 của thời độc tài Ngô Dình Diệm, kéo lê máy chém tập trung bạo lực đánh phá Phật giáo diễn ra trên phạm vi khắp cả nước, điều cần được chú ý tiên quyết, là yếu tố quan trọng, cấp thời quay về thuận theo xu thế ý nước lòng dân, khuyến khích phát triển, đây là việc làm tất yếu khôn ngoan để tạo nên sức mạnh toàn dân, nâng cao hiệu quả tất thảy, thì còn có gì khó khăn mà nhân dân không đồng tình chung lo cộng hưởng.

Theo dòng thời gian, diễn biến bởi quy luật vô thường nghiệt ngã, khối Đông Âu – Cộng hòa Liên bang Xô Viết sụp đổ ê chề, công cuộc đấu tranh giai cấp hữu sản – vô sản không còn đủ lực mê hoặc hấp dẫn, không còn ai mù mờ khờ khạo, dám lộng ngôn lên tiếng hô hào bách chiến bách thắng muôn năm.

Đã đến lúc Phật giáo VN, có lẽ hơn ai hết, không khoanh tay bảo thủ tiêu cực, phải ý thức tự chủ vô úy, mạnh dạn đòi lại giáo quyền, lấy lại vị thế quốc sư (thầy của vua) vốn có tự lâu đời, nói lên tiếng nói trung thực, đòi lại cái vốn quí văn hóa đã được truyền tải in sâu vào lòng dân tộc của 2000 năm lịch sử Phật giáo VN.

Đạo Phật là một con thuyền tế độ, lội ngược dòng đời cứu vớt nhân sinh. Phải nhanh chóng vượt thoát đi lên bằng nguyện lực bất thối vô cầu, chịu trách nhiệm trước tiền đồ lịch sử, sẵn sàng gánh vát sứ mệnh, không ươn hèn – dựa thế – vọng ngoại, bám víu vào cái thế gian hữu hạn giã tạm, dễ dàng thay đổi. Nếu xuôi dòng thuận theo, chẳng lẽ cái Đạo Phật kỳ vĩ bất diệt, cũng phải mất theo cái bóng dáng giã tạo đoạn diệt thường tình ./-

Lam Nhã Thảo Am, 17052012




Phát Khởi Bồ Đề Tâm – 2

Từ thuở sinh ra, tuổi thơ ấm êm trong vòng tay che chở ấp ủ của người cha, được no đủ bên bầu sửa mẹ ngọt ngào. Bước vào tuổi hoa niên, mở mắt nhìn đời, muốn được lớn khôn, nổ lực học ăn, học nói, học gói, học làm. Đến tuổi trưởng thành, bản ngã được hình thành, muốn đem trí óc đo đời, đam mê danh vọng, vinh hoa, ham muốn nâng cao vị thế, càng vươn cao, càng cảm thấy vẫn còn nhiều thiếu thốn, khó lấp đầy tham vọng. Những cuộc đấu tranh nghiệt ngã diễn ra, dày xéo, dẫm đạp lên nhau, mạnh được yếu thua, oán khí ngất trời, đau khổ tràn lan thảm thiết

“Tam giới bất an, do như hỏa trạch” (Kinh Pháp Hoa)

Nhìn lại lịch sử mang nhiều dấu tích tang thương, từ biệt nghiệp dẫn đến một cộng nghiệp khó thoát, nhân sinh mãi miết chìm nghĩm trong ngôi nhà lửa, hừng hực thiêu đốt đêm ngày. Lửa phiền não luôn luôn đoanh vây nghìn trùng sóng khổ, từ nỗi khổ này dẫm chồng lên vô vàn nỗi thống khổ khác “Khổ, khổ”. Vì mê vọng danh vọng quyền lực, sẵn sàng hơn thua vu khống xuyên tạc, bẻ cong chân lý, triệt hạ, dẫm đạp lên ân tình nhân nghĩa, lấn lướt hiền tài, không muốn có ai vượt trội hơn mình.

Mỗi khổ đau đều nẩy mầm từ sâu thẳm của vô minh tham vọng. Chấm dứt ham muốn vọng tưởng, tâm tư như chợt rung cảm hòa nhịp yêu thương với vạn lòng thanh thoát. Tham, sân, si là cơn lốc, thổi bùng lên ngọn lửa tam độc. Vân dụng tam học: giới, định, huệ như dòng nước cam lồ mát dịu, tưới tẩm, làm tắt ngắm tam độc tham, sân, si.

Tam học:
– Giới: Nhờ giữ giới tránh được các nghiệp ác.
– Định: Là sự chú tâm, tỉnh giác trong mọi hành động.
– Huệ: Tâm Bát nhã được phát triển, ngộ được sự thật cao nhất

Đạo Phật là đạo của trí tuệ và tình thương. Cái nhìn tuệ giác của đạo Phật, đã khai thị vô minh, làm mở mắt tri kiến, thắp sáng cho đời nguồn giác ngộ vô biên, làm tỉnh thức, nhận chận được cuộc sống vị tha thực tại. Năng lực của từ bi, như ánh trăng tỏa sáng đêm đen, tưới tẩm từng hạt sương long lanh, làm thấm đẫm mát rượi lên muôn ngàn hoa lá, dâng hiến làm tươi đẹp cho đời biết bao hương sắc trinh nguyên, hướng đến một phẩm cách vị tha toàn thiện ./-




PHÁP HÔI THÙ ÂN

PHÓNG SỰ PHÁP HÔI THÙ ÂN

Gia Đình Phật Tử Việt Nam ra đời từ chiếc nôi uyên nguyên nhiệm mầu của Đạo Phật, của nền văn hóa đạo lý dân tộc. Được thừa hưởng – kế thừa gia tài chân truyền của Chư Phật, của Thầy Tổ chân sư, của các bậc tiền nhân sáng lập – truyền trao. Gần một thế kỷ tồn tại và vững vàng, luôn luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, hứng chịu biết bao cơn sóng dữ do các thế lực chính trị bạo hành. Trãi qua biết bao thịnh suy, từng giai kỳ thể chế lịch sử, GĐPTVN vẫn luôn luôn trung trinh bất biến, nêu cao ngọn cờ hòa bình nền xanh hoa sen trắng tụng lượn trên nền trời Đại Việt và lan tỏa khắp năm châu bốn biển. Là cánh tay hậu duệ đắc lực, bảo vệ – gìn giữ – xiển dương vẹn toàn chánh pháp, làm nên công cuộc chấn hưng bảo tồn Phật giáo VN, giữ gìn nền nếp gia phong – văn hóa – đạo lý dân tộc.

Trước nỗi bất an thương đau của toàn nhân loại, đang chìm ngập trong ngôi nhà lửa hừng hực, ngầy ngụa trước những tham vọng vô minh, xô đẩy nhau vào hầm lửa tự hủy diệt. Toàn thể lam viên từ Quốc nội đến Hải ngoại, tâm thành – hân hoan – nô nức hướng về Pháp Hội Thù Ân, như hướng về thánh địa thiêng liêng, nơi diễn ra một sự kiện trọng đại chưa từng có trong lịch sử áo lam. Toàn nhân loại kỳ vọng từ đây một kỳ tích lịch sử được sang trang, ánh sáng thanh bình rợp mát năm châu, toàn cầu được sạch trong an lạc. Đạo Phật là Đạo Hiếu, với tinh thần “Thượng báo tứ trọng ân – Hạ tế tam đồ khổ”, Toàn thể lam viên GĐPTVN, trên thì chu toàn hiếu đạo đền đáp tứ trọng ân, dưới thì nổ lực tấn tu trau dồi phẩm hạnh, thành toàn đạo nghiệp giáo dục thế hệ mai sau.

Đạo lý dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa, đã tiếp thu tinh hoa Phật giáo, để xây dựng nền luân lý truyền thống dân tộc, được nuôi dưỡng thấm đẫm bằng chất liệu ngọt ngào, ắp đầy ca dao – tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn – ăn quả nhớ người trồng cây”. Biết bao thế hệ con cháu Lạc Hồng tiếp nối truyền thống cha ông, bảo vệ đạo đức tri ân và báo ân cao quí.

Kỷ niệm 50 năm áo lam GĐPT Việt Nam thống nhất trên toàn quốc (1964 – 2014), kỷ niệm 10 năm Ban Hướng Dẫn GĐPT Việt Nam Trên Thế Giới tựu thành (2004 – 2014). BHD GĐPT Việt Nam Trên Thế Giới phát tâm lập nguyện kết nối áo lam trên toàn Thế giới cùng thiện hữu tri thức gần xa, kiến lập PHÁP HỘI THÙ ÂN, truy tiến báo ân, kỳ cầu siêu độ, hồi hướng công đức lành nguyện cầu pháp giới chúng sanh đồng triêm lợi lạc. Pháp Hội được công khai diễn ra tại chùa Pháp Vân, số 16, đường Lê Thúc Hoạch, phường Phú Thọ, quận Tân Phú, thành phố Sài Gòn. Thời gian: 20 – 21 – 22 – 23 – 24 – 25/08/2014.

Pháp Hội được kiến lập gồm có các nội dung:

  • Đại Trai Đàn Chẩn Tế – Giải Oan Bạt Độ nguyện cầu âm siêu dương thái.
  • Tưởng niệm hiệp kỵ Chư vị Ân Sư – Sáng Lập Viên – Bảo Trợ – Gia Trưởng – Huynh Trưởng – Đoàn Sinh GĐPT Việt Nam trên Thế Giới.
  • Hoa Đăng cúng dường, phóng sanh đăng nguyện cầu đạo pháp trường tồn, dân tộc và thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc.
  • Kiến lập Giới đàn Thiện Hoa truyền thọ Tại Gia Bồ Tát Giới và Thập Thiện Giới.
  • Trai tăng cúng dường.
  • Dâng quà Lễ tiến cúng Chư tôn linh Thánh tử đạo tại các địa phương.
  • Phát quà chia sẻ cho Huynh trưởng – Đoàn sinh và nhân dân khó khăn, bệnh tật.

Về dự chứng minh Pháp Hội gồm có:

  • Chư Tôn Đức Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh GĐPT Việt Nam.
  • Chư Tôn Đức Ban Thường Trực – Thành Viên Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh GĐPT Việt Nam.
  • Chư Tôn Đức Tăng, Chư Tôn Đức Ni xuất thân từ GĐPT.
  • Chư Tôn Đức là môn đồ pháp quyến của Chư tôn đức Sáng lập viên và Ân Sư Cố vấn của GĐPTVN.
  • Chư Tôn Đức Hội đồng Kinh Sư cử hành pháp sự khoa nghi.
    Tham dự Pháp Hội gồm có các thành phần:
  • Ban Hướng Dẫn GĐPT Việt Nam Trên Thế Giới.
  • Ban Hướng Dẫn GĐPT Việt Nam (Quốc Nội).
  • Đại Diện BHD GĐPT VN tại Hải Ngoại.
  • Phái đoàn BHD GĐPT các Tỉnh – Thị trên toàn quốc.
  • Đại Diện BHD các Châu Lục, Quốc Gia.
  • Quý Gia đình thân quyến của Chư Thánh Tử Đạo, Chư Chân Linh, Chư Hương Linh Sáng lập viên, Bảo trợ, Gia Trưởng, Huynh trưởng, Đoàn sinh.
  • Quý Ban Bảo Trợ, Thiện Hữu Tri Thức, Quý Ân Nhân Mạnh thường quân, Quý Cựu Huynh Trưởng trong và ngoài nước.
  • Quý Gia trưởng, Huynh trưởng, Đoàn sinh GĐPT Việt Nam trên toàn Thế giới.

Chư Tôn Thiền Đức là những bậc chân sư thạc đức phạm hạnh, dù tuổi cao sức yếu, phật sự đa đoan, nhận lời mời bái thỉnh của chúng con, quí ngài đã huệ cố, di giá chấn tích đăng lâm chứng minh Pháp Hội, toàn thể lam viên chúng con cảm kích vô cùng. Sự hiện diện quí báu của quí ngài, làm cho tâm bồ đề chúng con thập phần kiên cố, tin tưởng mãnh liệt vào chánh pháp Như Lai. Chúng con là những đóa hoa lan bé nhỏ, nhờ thấm đẫm những giọt sương mai mà tươi thắm cuộc đời. Chư Tôn Thiền Đức mở lòng vị tha, thả xuống dòng đời chiếc thuyền tế độ, nếu không nương nhờ vào pháp lạc từ bi tưới tẩm, thì những đóa hoa Ưu Đàm khó một lần xuất hiên. Chúng con thành kính gieo năm vóc, thành tâm đảnh lễ bái tạ thâm ân.

Toàn thể lam viên trên toàn thế giới vô cùng biết ân sâu sắc sự quang tâm huệ cố tận tình của Hòa Thượng Phước Trí – Chư Tăng và Đạo Hữu chùa Pháp Vân. Hòa Thượng đã vì đàn con thân yêu, mà không nề hà tuổi cao sức yếu, hứng chịu gian khó, tận tình chiếu cố lo toan, giúp cho Pháp Hội được thành công viên mãn. Chư Tăng và Phật tử bổn tự, các ngài đã dốc lòng chiếu cố, bận bịu lo toan trong ngoài, để cho chúng con đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, nơi ăn chốn ngủ no đủ – mát mẽ – ấm êm. Trong suốt thời gian diễn ra Pháp Hội, với số lượng rất lớn Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPTVN, đã làm xao động, ảnh hưởng rất nhiều đến nền nếp thanh tu, chúng con thành kính đảnh lễ sám hối trên Chư Tôn Đức từ bi hỷ xã.

Ban Hướng Dẫn Gia Định, mà cụ thể rõ nét nhất là đơn vị GĐPT Đức Tuệ và các đơn vị GĐPT trực thuộc, đã sát cánh cùng Ban Tổ Chức Pháp Hội Thù Ân lo toan phật sự. BTC đã thấy được sự hy sinh nhiệt tình rất lớn, các ACE nhọc nhằn lao khó rất nhiều, tích cực góp phần đắc lực cho sự thành công Pháp Hội. BTC và toàn thể lam viên tham dự Pháp Hội, vô cùng biết ơn sự lãnh đạo điều hành tài tình của BHD Gia Định và sự hy sinh to lớn của ACE GĐPT Gia Định.

Dưới sự điều hành nhạy bén của các anh trưởng – phó ban, Ban Trật Tự đã thành toàn trách nhiệm một cách xuất sắc. Ban Tổ Chức đã thấy được nhiệt tâm lo toan từ mỗi thành viên, các anh đã thức khuya dậy sớm chu toàn nhiệm vụ, giữ vững từng khu vực phân công, bảo vệ an toàn Pháp Hội, góp phần làm cho Pháp Hội Thù Ân được diễn ra thập phần viên mãn.

Khối Truyền Thông là bộ mặt sinh dộng – là tiếng nói của Pháp Hội Thù Ân. Lần này, đội ngũ phóng viên được tăng cường, có năng lực. Được phân công – điều hành tổ chức một cách chặt chẽ, làm việc cật lực, bộ máy chạy đều, mỗi người mỗi việc không dẫm chân nhau. Tuy còn thiếu nhiều cây viết chủ lực, nhưng ACE đã nổ lực hết mình, thực hiện có hiệu quả, nhiều bản tin – hình ảnh được cập nhật kịp thời, nhiều cuộc phỏng vấn trực tiếp được thực hiện súc tích. Tuy có bị phá sóng, nhưng các Huynh trưởng kỷ thuật viên – chuyên viên cầm máy thu hình – truyền hình trực tiếp vẫn cố gắng truyền tải đầy đủ các sinh hoạt, các khóa lễ đều đặn lên mạng toàn cầu. Bộ phận phát hành hình lưu niệm, thỏa đáng kịp thời các yêu cầu của lam viên bốn phương. Những kết quả hôm nay, không phải dễ dàng mà có được, Ban Tổ Chức đã thấy được, có anh đã quên cả buổi ăn trưa, bỏ đi cả giấc ngủ đêm, để trần mình vật lộn từng thước phim, chỉnh sửa từng bức ảnh, viết từng bản tin hoàn chỉnh, lao nhọc đến vô cùng.

Vận hội khai mở, lính khí hồn thiêng sông núi hội tụ, trăm hoa đua nở, hương chiên đàn thơm ngát lan xa, đêm hoa đăng rực rỡ đèn hoa, lung linh ánh trí tuệ rạng ngời, đồng cảm với vạn lòng thiên cổ. Dị khẩu đồng âm nhất tâm như một, hồng danh Quán Thế Âm bi hùng vang lên bất tận, từng giọt nước nhành dương tưới mát nhân gian, làm cho những tâm niệm sân si được lắng xuống, biết hồi đầu hướng thiện, trãi lòng thương yêu, cho nếp sống thanh bình được lan tỏa khắp nơi nơi, cho hoa cỏ tốt tươi, hương vị ngọt ngào, tình yêu đầm đà quê hương dân tộc. Lễ hội hoa đăng nhân văn được tôn vinh, ánh nến lung linh trên từng bước đăng trình thảnh thơi, gát bỏ sau lưng cơn gió chướng, đón nhận làn gió thanh lành từ phía trước, đồng tâm hiệp ý truyền trao cho nhau niềm tin chân lý, đồng hành vượt qua gian khó, chúc phúc thiêng liêng đến với bạn bè năm châu trọn đầy an lạc.

Giới luật của Phật giáo là những chế định nguyên tắc sống, là hệ thống phát triển đạo đức xã hội, đảm trách điều chỉnh những hành vi phóng dật, làm hài hòa cân đối mối quan hệ – sinh hoạt – tập quán xã hội. Tu học thực tập là nếp sống thực nghiệm siêu việt của người Huynh trưởng GĐPTVN. Nữa khuya, tại Pháp Hội Thù Ân, đại giới đàn Thiện Hoa được kiến lập, trên 600 Huynh trưởng Giới tử phát nguyện thọ Thập Thiện và Bồ Tát Giới, đã khẳn định được sự tu học – thực tập giới luật gắn liền với đời sống thường nhật của người Huynh trưởng. Từ tục đế vươn lên, người Huynh trưởng như một thiền sinh đang đối mặt giữa hai bờ sinh diệt, “Ưng tác như thị quán”, lập nguyện lội ngược dòng đời để hoàn thiện nhân cách, thành toàn đạo nghiệp, đạo hạnh được vững vàng thì tâm đại bi được trãi rộng, uy lực độ sinh thập phần kiên cố.

Tại Pháp Hội, chúng tôi nhìn thấy nhiều ACE rưng rưng nước mắt, khi cầm trên tay món quà ân tình từ quỹ tình lam, từ quỹ trợ cấp khó khăn. Những món quà tuy không lớn, nhưng đong đầy ý nghĩa, đọng lại nơi đây biết bao tình cảm to lớn mà các nhà mạnh thường quân, các anh chị em áo lam bốn phương thân thương dành tặng những Huynh trưởng thiếu diễm phúc, có hoàn cảnh khó khăn. Chúng tôi được biết, đời Huynh trưởng thì rất nghèo, có lẽ cái nghèo được gắn liền chung với số phận toàn dân tộc. Nhưng không phải vì cái nghèo khó đó mà các AC rời bỏ sinh hoạt, bởi vì tất cả chúng ta, ai nấy đều biết, tổ chức đang gặp rất nhiều gian nan, từng mỗi đơn vị GĐPT địa phương đều vương mang khốn khó, nếu tự mình bỏ cuộc, thì ai sẽ là người đứng mũi chịu sào lèo lái con thuyền GĐPT địa phương, ai sẽ là người dìu dắt đàn em thân yêu giữa đêm đen mù tịt, ai là người sẽ thắp lên trong các em ngọn đèn tuệ giác, giúp các em vững vàng trong cuộc sống dẫy đầy cạm bẩy nhiễu nhương này.

Sư hiện diện đông đảo của các anh chị Huynh trưởng cao niên từ cấp cao cho đến các em Đoàn sinh nhỏ tuổi, các ACE từ các Châu lục Quốc gia ở tận bên kia nửa quả địa cầu. các ACE từ miền Trung xa xôi cho đến mũi Cà Mau xa tít, các ACE từ cao nguyên rừng núi bạt ngàn đến duyên hải trùng dương bát ngát. Pháp Hội Thù Ân là một uy lực lớn, một sức hút lớn, làm cho ai nấy, nếu là Đoàn viên GĐPTVN đều chung chí hướng – một lòng, không vì cách trở địa lý, không vì gian khó đời thường mà mỏi gối chùn chân. Những dị biệt về hoàn cảnh – tâm lý, những khác nhau về tuổi tác – lợi quyền, đều bỏ mặc sau lưng, tất cả đều tay bắt mặt mừng, nhìn nhau chan hòa, anh em một nhà thân ái.

Trước mặt chúng em là các anh các chị trưởng bối cao niên, đức cao vọng trọng. Có anh có chị đã bước vào tuổi cổ lai hi, thế mà các anh các chị không nề hà tuổi cao sức yếu, an hưởng tuổi già, sẵn sàng tinh tấn, lập đại nguyện rộng lớn, vì sự nghiệp truyền đăng, luôn luôn sát cánh cùng chúng em, vững chãi leo lái con thuyền lam cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, hứa hẹn mai này cặp bến bình yên. Nhờ những người thợ chăm vườn tài hoa – yêu nghề, chăm bón – tỉa gọt – uốn nắn từng thân cành, thổi lồng sức sống, truyền tải mạch lam, trao lại cho đời những đóa hoa trác tuyệt. Các anh các chị là những tấm gương ngời sáng soi rọi cho chúng em noi dấu bước theo. Nhờ có các anh các chị niên trưởng kính yêu mà chúng em được trưởng thành theo năm tháng, dòng máu lam luôn luôn rực chãy, tâm huyết tràn trề. Thế hệ chúng em hôm nay, lập nguyện nối tiếp, kế thừa chí nguyện các anh các chị: “Ngũ trược ác thế thệ tiện nhập”, dù sóng có cuồng – bão có dữ, chúng em tâm nguyên bồ đề bất thối, đem những tinh hoa đã thực tập tu học được từ các anh các chị mẫn ái, tâm ấn truyền trao. Vô úy giữ vững ngọn cờ hòa bình nền xanh hoa sen trắng, mạnh dạn dấn thân vào đời chuyển hóa tha nhân, xây đời hộ đạo, góp phần thiết thực, làm cho cả hành tinh này hóa hiện sắc lam hiền hòa – tịnh độ nhân gian

GĐPTVN luôn luôn gặp phải vô vàn chướng duyên, dẫy đầy gian nan thử thách ý chí, không phải chỉ mới có hôm nay, mà trước năm 1975 vẫn vậy. Có lẽ cái xấu cái ác luôn luôn tồn tại trong mỗi lòng vô minh, khó đồng hành với lẽ thiện điều lành chân chánh, cho nên xã hội này cứ mãi não loạn nhiễu nhương triền miên, cho nên đất nước này khó được thanh bình thịnh trị. Tệ nan dẫy đầy, phạm pháp tràn lan, nhà tù chật ních. Thay vì tập trung khuyến khích phát triển những trung tâm văn hóa giáo dục đạo đức – ý thức đạo lý nhân quả – cách sống lục hòa yêu thương. Ngược lại mù mờ, mở rộng xây dựng tốn kém cho những công trình nhà tù vô ích khắp nơi. Người dân hiền lành chất phát khó có được yên ổn, tự do hạnh phúc.

Pháp Hội diễn ra không được binh yên như sáo ngữ tự do tôn giáo, mà được rất nhiều quan tâm chiếu cố đặc biệt từ phía các nhà chức việc, nhiều cuộc đối thoại gay gắt – sách nhiễu khoáy rối không ít. Không được sự cho phép của chính quyền chuyên chính vô sản.

Nếu không nương nhờ hồng ân Tam Bảo, nhờ uy đức của Chư Tôn Thiền Đức lưỡng viện, nhờ vào uy lực từ bi của Hòa Thượng Viện Chủ, nhờ vào sự toàn tâm toàn ý, công đức đóng góp tịnh tài – tịnh vật tích cực – thầm lặng của các nhà mạnh thường quân đề danh và vô danh, của toàn thể lam viên từ Quốc nội đến Hải ngoại, từ các anh chị Huynh trưởng cấp cao cho đến các anh chị Huynh trưởng tập sự, từ các anh chị Đoàn viên Ngành Thanh cho đến các em Đoàn sinh Ngành Đồng, tất cả đều chung sức chung lòng tạo nhiều thuận duyên đưa Pháp hội đến thành công. Nguồn kinh phí hiện có được ban tài chánh thu – chi có chứng từ rành mạch, công khai rõ ràng. Toàn thể lam viên tin tưởng mãnh liệt vào sự điều hành tài tình sáng suốt của Ban Tổ Chức. Nhờ sự tĩnh tại quyết tâm vững vàng của Ban Tổ Chức, đã đưa Pháp Hội đến thành công viên mãn. Sức mạnh thành công quan trọng của Pháp Hội Thù Ân, đã mặc nhiên khẳn định đươc tính pháp nhân bất biến của GĐPTVN chính thống tại Việt Nam và trên Thế Giới, là một thực thể truyền thống thực tại của Phật giáo VN và dân tộc VN.

Trãi qua nhiều triều đại biến dịch theo định luật vô thường như thật, Gia Đình Phật Tử Việt Nam không xu phụ thế quyền, nô dịch, làm biến thái bản thể như nhất vốn có. Sự có mặt của một số cán bộ chính quyền địa phương đại diện cho nhà nước VN tại buổi lễ khai mạc Pháp Hội Thù Ân, được Hòa Thượng Viện Chủ Chùa Pháp Vân tế nhị lịch sự mời dự. Tại chương trình khai mạc Pháp Hội, không có ghi lời mời đại diện chính quyền phát biểu. Thể hiện tấm lòng thân thiện hiếu khách vốn có của dân tộc VN, sự có mặt của các vị chức việc này không làm ngạt nhiên đối với cử tọa tham dự Pháp Hội, (sự phân biệt nếu có, chỉ rơi rớt ở một vài cá tính, lợi dung sự bất như ý của BTC để thỏa mãn tâm lượng hẹp hòi, ý thức kém cỏi, có ý đồ đáng chê trách). Thể hiện tính tự tại không phân biệt, vô ngã tướng của GĐPTVN, xướng ngôn viên điều hành Pháp Hội lịch sự giới thiệu các chức danh địa phương, Sự bước đến của thế quyền, có lẽ là muốn cải thiện cách nhìn lệch lạc sai lầm từ lâu nay đối với GĐPTVN chính thống.

Còn có một vài cá nhân, chưa thấy được hết sự kham nhẫn của GĐPTVN trong giai đoạn khắc nghiệt, chỉ nhìn vào di căn của một vài cá nhân thiếu tu, vội vàng đánh giá, hời hợt vô tâm đem cái tôi vị kỷ đạo đoạn đáng thương thao túng, nỡ tâm bôi đen sự trân quí của cả đại thể, đánh mất bản hoài to lớn của một Huynh trưởng GĐPTVN “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”, thà hy sinh thân mạng đem lại sự tồn vinh GĐPTVN.

Tổ chức thì đang lâm nguy, các thế lực vô minh thọc tay thao túng, thịt da đang bị chia chẽ đau nhứt đến vô cùng. Toàn thể H.Tr tri thức tâm huyết, có lương tri, dốc lòng từng giờ từng phút đau đáu lo toan giải trừ pháp nạn.

Bản thân cá nhân thì chẳng có ý nghĩa gì cả, ở đây chỉ là một khối tanh hôi vô thường, đem cái nhơ bẩn đạo đoạn này mà làm việc Phật thì chỉ là thế tục hóa. Là một thất phu trước thời cuộc, nhất tâm đem cái tâm có tu – có học vững chãi, thiết tha, toàn tâm toàn ý góp phần sức sống nhỏ bé của mình tạo nên sức sống to lớn vững vàng GĐPTVN.

Sự trở về của Hòa Thượng Tuệ Sĩ như một vầng thái dương rực rỡ, làm cho bầu trời Việt Nam vốn dĩ đen tối, bổng chốc trở mình thức giấc, sáng chói huy hoàng. Mỗi bước tĩnh tại của Thầy đi qua, làm cho từng li khối không gian hưởng nhờ pháp lạc.

Hòa Thượng Tuệ Sĩ là thạch trụ kên cố, là niềm tự hào của Phật giáo VN.

Sự bình dị tĩnh tại tràn đầy hoan hỷ của ôn Tuệ Sĩ, như truyền sức sống mãnh liệt cho thế hệ trẻ hôm nay.

Sự vững vàng như sơn của Ôn, là điểm tựa vững chãi của toàn thể Phật giáo đồ cả nước.

Toàn thể Tăng – Ni và Phật tử trong nước và hải ngoại, đang toàn tâm toàn ý ngưỡng vọng hướng về Hòa Thượng với cả tấm lòng thiết tha chờ đợi một ánh sáng nhiệm mầu cho Tổ quốc và Phật giáo Việt Nam.

Trong ánh mắt bao dung chan hòa từ bi, từng bước đi an lạc thảnh thơi, của Hòa Thượng Thái Hòa và Chư Tôn Thiền Đức lưỡng viện: Hội đồng Chứng minh – Hội đồng Cố vấn, nhiệt tâm bảo vệ sự sinh hoạt vững vàng tổ chức GĐPTVN, đã thắp lên từ mỗi trái tim lam niềm tin bồ đề tâm kiên cố. Kể từ hôm nay GĐPTVN đã có điểm tựa vững chãi, mạnh dạn phát huy nội lực, góp phần vào sự nghiệp phát triển tổ quốc, tăng huy Phật giáo VN.

“Chim có tổ – người có tông”, “Uống nước nhớ nguồn”. Hôm nay chúng ta thành tâm cảm niệm công đức tiền nhân, người đã truyền trao cho chúng ta ánh sáng chân lý pháp bảo nhiệm mầu, người đã nuôi dưỡng cho chúng ta nên thân huệ mạng, người đã hy sinh nằm xuống cho nền văn hóa dân tộc luôn luôn rạng ngời sông núi, người đã một nắng hai sương thân cò lặn lội sớm hôm cho chúng ta nên vóc nên hình. Phàm làm người, ai nấy đều phải có NHÂN có NGHĨA, có đời sống thương yêu – hiền hòa – đức độ, biết kính trên nhường dưới, biết công ơn dẫn lối đưa đường, biết tri ân kiến lập định hướng. nếu không được vậy thì chỉ là con người bỏ đi, hư danh giả tạo, đâu xứng đáng là con Hồng – cháu Lạc, Phật tử thuần thành, tín tâm bất thối. Tổ chức được trường tồn, là ở đó có những Huynh trưởng GĐPT biết gát mình qua một bên, hy sinh không nề hà mệt mỏi, tận tụy sớm hôm thành toàn sứ mệnh truyền đăng – lăn chuyển bánh xe pháp, góp phần xây dựng hoàn chỉnh nền giáo dục khoa học: Khai phóng – xả kỷ vị tha, vì tha nhân mà phụng sự, trao lại cho đạo pháp biết bao danh tăng thạc đức mô phạm, trao lại cho đời biết bao hiền tài ích quốc an dân ./-




Nhìn Lại Chính Mình !

Nhìn Lại Chính Mình !

Chuyện kể rằng:
Một ngôi chùa trên núi có nuôi một con lừa, mỗi ngày nó vất vả cực nhọc kéo cối xay thóc lúa. Thời gian dần trôi, lừa chán ghét cuộc sống vô vị này. Hằng ngày nó trầm tư:

“Nếu như có thể, mỗi ngày được ra bên ngoài xem thấy thế giới bao la, không còn phải kéo cái cối xay vô vị này nữa, như thế thì thật là thú vị biết bao !”

Thời gian sau, cơ hội đã đến, có việc phải thồ hàng lên chùa, vị tăng nhân dẫn lừa xuống núi, lừa vui mừng phấn khởi.

Đến chân núi, vị tăng nhân đem món hàng đặt lên lưng lừa, lừa thồ hàng lên chùa. Trên đường đi, mọi người trông thấy, ai nấy đều đứng dạt sang hai bên đường, cung kính chấy tay bái lạy.

Thấy vậy, lừa ngạt nhiên không hiểu gì cả, không biết tại sao mọi người đứng hai bên đường lại chấp tay bái lạy nó, nó hoang mang tránh né. Nhưng suốt dọc đường nó đều trông thấy cảnh tượng này mãi diễn ra hoài như vậy, lừa ta bất giác hiu hiu tự đắc:

“Thì ra mọi người ai nấy đều sùng bái ta.”

Mỗi lần nhìn thấy có người qua đường, thì lừa ta tỏ vẽ nghênh ngang kiêu ngạo đứng ngay giữa đường, kiêu hãnh nhận sự bái lạy của mọi người.

Về đến chùa, lừa cho rằng bản thân mình cao quý, dứt khoát không chịu kéo cối xay nữa. Vị tăng nhân hết cách, đành phải thả nó xuống núi.

Lừa ta vừa mới vừa xuống núi, xa xa nhìn thấy một nhóm người đánh trống khua chiêng inh ỏi đi về phía mình, lòng thầm nghĩ, nhất định mọi người đến để nghênh đón mình, thế là lừa nghênh ngang đứng dạng chân ngay giữa đường.

Đoàn người rước dâu, đang rầm rộ trên đường bị một con lừa chắn ngang, mọi người đều tức giận, ai nấy phang gậy gộc tới tấp lên lưng con lừa, lừa ta đau đớn kinh hoảng hộc tốc chạy về chùa, khi về đến nơi, thì kiệt sức chỉ còn lại chút hơi tàn. Trước khi chết, nó căm phẫn nói với vị tăng nhân:

“Thì ra lòng người hiểm ác! Lần đầu xuống núi, mọi người ai nấy đều đảnh lễ bái lạy ta. Nhưng hôm nay họ lại ra tay tàn độc đánh đập ta đến thế này”, nói xong lừa tắt thở.

Vị tăng nhân thở dài:
“Thật là một con lừa ngu ngốc! Hôm đó, mọi người đứng hai bên đường bái lạy, chính là bái lạy bức tượng Phật mà ngươi đang cõng trên lưng”.

Điều bất hạnh lớn nhất trong đời, chính là không tự nhận thức được bản thân mình.

Lắm lúc chúng ta vội vã tự đánh lừa chính mình – đánh mất bản thân mình. Để nhận thức được bản thân, còn khó hơn cả việc nhận thức được thế giới hiện tượng xum la. Có bao giờ chúng ta tự soi gương, tự soi rọi – tự vấn lại bản thân mình:

“Bạn có bao giờ tự đặt câu hỏi – tư soi rọi – tự nhận thức lại chính bản thân mình hay chưa ?”

  • Bạn có nhiều tiền tài – vật chất, bạn được mọi người sùng bái, chẳng qua chỉ là sùng bái sự giàu có của bạn, chứ không phải sùng bái bản thân bạn, thế mà có người ảo vọng cho rằng họ đang sùng bái chính mình !
  • Bạn đang có danh vọng, được mọi người ngưỡng vọng tôn kính, chẳng qua chỉ vì danh vọng của bạn, chứ không phải tôn kính chính bạn. Nhưng lại ngờ nghệch lầm tưởng rằng người ta đang tôn kính mình !
  • Bạn có dung mạo xinh đẹp, được người ta mến mộ, chẳng qua chỉ vì dung mạo đẹp đẽ nhất thời mà bạn đang tạm thời có, chứ không phải mến mộ thương yêu chính bạn. Nhưng lại hoang tưởng cho rằng mình được người khác ngưỡng mộ chính bản thân mình !

Một khi tiền tài – danh vọng – vẻ đẹp mĩ miều của bạn tàn phai theo năm tháng không còn tồn tại nữa, thì cũng chính là lúc bạn bị xem thường – sa thải – loại trừ – vứt bỏ không thương tiếc… Có bao giờ bạn nghĩ đến điều này chưa…? Điều mà người khác tôn sùng chẳng qua chỉ là những ước muốn vô vọng, chứ không phải là của chính bạn.

– Giá trị một con người xuất phát từ đức hạnh nội tâm chứ không phải những hình thức ảo vọng bên ngoài. Nếu mãi mê lao tâm khổ tứ chạy theo những ảo vọng vô tưởng, thì thật là một điều bất hạnh nhất trên đời !

Hãy nhìn rõ tường tận – thẩm thấu như thật chính bản thân mình là điều tối quan trọng – thiết yếu nhất ./-

Houston, 21052024.




NGƯỜI TRÍ THỨC

NGƯỜI TRÍ THỨC

Người trí thức là người có đầy đủ kiến thức cuộc sống, không mụ mẫm trước niềm tin thiếu kiểm chứng thực tế.. vào đời với bao nỗi thao thức khát khao cho một định hướng sống mới mẽ – thăng hoa tốt đẹp cuộc đời.

Người thiện sĩ Huynh trưởng GĐPT vững vàng trong thế đứng thẳng tắp với tấm lòng vị tha bát ngát vào đời, vì tha nhân mà phụng sự. chọn con người làm đối trọng để khai thị tuệ giác – chọn nhân sinh làm nấc thang thăng tiến – kiến thiết một xã hội công bằng an lạc.

Mỗi tham vọng – mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm từ dục vọng đê hèn – từ hận thù nghi kị ty tiện, xô đẩy nhân loại vào khổ đau cuồng loạn.

Người Huynh trưởng GĐPT phải biết nhóm lên ngọn lửa yêu thương, đem lại niềm tin và vui sống cho mọi người, xua tan đi những mê mờ kiến chấp.

Người Huynh trưởng GĐPT là người nghệ sĩ biết rung cảm ttong từng mỗi suy tư, sáng tạo nên những công trình nghệ thuật vĩ đại, đáp ứng vẹn thỏa những khao khát thưởng thức nét đẹp tâm linh thanh thoát.

Người Huynh trưởng GĐPT là người biết dóng lên những hồi chuông tự tại ngân dài, như những đợt sóng Hải triều âm, làm lắng đọng vạn lòng siêu thoát.
Hoa sen tinh khiết sinh trưởng trong bùn, từ bùn mà vươn lên, nhưng không bị bùn tanh làm ô nhiễm. Huynh trưởng GĐPT sống trong lòng đời, nhưng tâm tư tĩnh tại vượt thoát lên trên dòng ngũ trược, miệt mài tô thắm làm đẹp cuộc đời ./-




NGỦ QUÊN TRÊN THÂN PHẬN

NGỦ QUÊN TRÊN THÂN PHẬN

Việt Nam, một đất nước hình cong chữ S, mang dáng hình uốn lượn eo thắt nhọc nhằn khắc khổ. Nhưng thiên nhiên ưu đãi, một dãi lụa xanh biếc biển Đông, tô điểm – làm xinh xắn cuộc đời. Chính nơi đây, một đất nước luôn luôn bị thui chột bởi các nền văn hóa nô dịch, được thổi lồng từ các thế lực vô minh, làm cho đất nước này khốn khó, càng thêm điêu linh cơ cực thêm.

Từ nhiều thế kỉ trôi qua. Những thảm trạng áp bức – bất công – bạo động xảy ra trền miên, dẫn đến đói rét – bệnh tật, thiếu thốn mọi mặt. Xã hội lạc hậu, dẫy đầy hủ hóa – mê tín dị đoan tràn lan. Những tôn giáo Thần quyền, phủ che – sơn phết muôn vàn sắc màu cuồng tín, lừa dối – phỉnh dụ, đè nặng lên nỗi khổ tinh thần nhân loại.

Con người đang ngủ quên trên thân phận nô lệ, đắm chìm triền miên trong bóng tối đêm đen, phó mặc cho các dòng ý thức hệ đoanh vây – tung hoành – giành giật ảnh hưởng, xâu xé lẫn nhau, tha hồ nhã ra biết bao độc tố, làm ô nhiễm độc hại môi trường. Chúng như những kí sinh, rục rịch ngứa ngáy, là ngoi lên bòn rút, làm tê liệt quằn quại sức sống nhân sinh, nhằm mục đích đắp cao thêm quyền lực thống trị.

Xã hội là một quần thể người, được tập hợp sống chung dưới một hệ thống chính trị – kinh tế – văn hóa – giáo dục – tôn giáo… Trình độ dân trí sẽ được thay đổi tùy theo nhu cầu cuộc sống. Chạy đua, để đáp ứng thỏa mãn tiện nghi đời thường. Con người nỡ đành dẫm đạp lên nhau, để tìm vị thế cao hơn. Từ đó việc tranh giành ảnh hưởng, tạo nên thế đứng – cát cứ riêng tư trong xã hội, dẫn đến những cuộc đấu tranh nghiệt ngã, tình trạng an ninh bị đe dọa khắp toàn cầu. Chế độ này sụp đổ, thì chế độ khác khốc liệt hơn, nổi dậy bùng lên. Cứ vậy, mà vòng xoáy nhân duyên cứ mãi thay đổi triền miên, trật tự bị xáo trộn hoàn toàn, hòa bình chỉ còn là sáo ngữ, đời sống con người bị đe dọa – bất an mãi miết.

Để tìm một giải pháp an uổi cho nỗi bức bối nội tâm, con người tìm về với tôn giáo – cầu an, xem đây là nơi chốn ẩn trốn, thụ động – tiêu cực, phó mặc cho dòng chãy trần ai cuộn xiết. Giới thống trị, bất lực trước làn sóng ào ạt hấp dẫn của tôn giáo, lo sợ quyền lực bị lung lay, họ tìm đủ mọi phương cách, tung ra hỏa mù chính trị, nhằm mục đích làm lung lạc – vô hiệu hóa, hoặc ràng buộc khống chế cho được con ngựa chứng bất kham.

Trước những đối xử phủ phàng tệ bạc, xem thường quần chúng, dẫn đến phập phòng âu lo, sẽ có nguy cơ bất đồng bột phát, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nên đã đầu tư thật kĩ càng, tìm ra mọi biện pháp khủng bố hoặc lấp liếm ru ngủ, nhiều loại hình nghệ thuật lôi cuốn quần chúng được đặt ra, xem nghệ thuật như mục đích chính trị, hòng lôi cuốn, đẫy quần chúng vào những thỏa mãn đam mê – ước vọng nông cạn, hòng ngủ quên trên thân phận hèn kém, trốn thoát muộn phiền.

Nhưng đời thì vẫn là đời với vô vàn rối rắm. Trần tục vẫn cứ là trần tục, với nỗi trầm luân tanh tưởi. Lắm lúc thế quyền, cứ ngỡ rằng đã nắm bắt – bó buộc – ức chế được giáo quyền, quản lý chi phối được tôn giáo. Nhưng không, như một con lươn trơn trợt, tôn giáo cứ mãi trôi tuột trên đôi tay vô hồn – bất lực của các nhà thiên tài chính trị. Có chăng chỉ rờ mó được cái đuôi biết ngoe ngoảy của những hình đồng – đội lốt, thoái hóa biến chất, không được tầng lớp thiện hữu tri thức ủng hộ.

“Nhà chính trị sợ nhà văn hóa không ủng hộ mình, mà còn muốn cho mình làm những điều mà nếu mình làm thì mình phải đổ. Vì vậy nên có hiện tượng đàn áp những tư trào văn hóa nào có cơ hội lôi kéo được đa số quần chúng theo, và đang là một sự đe dọa cho sự tồn tại của chính quyền. Chỉ có những nhà văn hóa nô dịch mới được đảm bảo trong chính thể độc tài, còn những nhà văn hóa chân chính, bao giờ cũng bị đe dọa. Khi một tư trào văn hóa lớn mạnh, nhà chịnh trị sẽ không dám đe dọa nữa, và bắt buộc phải vuốt ve, hoặc xoa dịu, hoặc nâng niu” ./-




NGHỀ HUYNH TRƯỞNG

NGHỀ HUYNH TRƯỞNG GĐPT

Huynh trưởng là một cái nghề. Ngoài năng lực ra, còn phải có một tấm lòng thiết tha – đam mê nồng nhiệt với cái Tâm hết lòng phụng sự tổ chức GĐPTVN, mang lại một giá trị đích thực cho xã hội – và sự trường tồn của đạo pháp. Không thể có một Huynh trưởng GĐPT thiếu phẩm chất dưới dạng “cửi ngựa xem hoa”, coi tổ chức như là một chốn nương náu – mua vui – làm đà tiến thủ – thỏa mãn ngã ái – lợi dưỡng cá nhân.

Nghề Huynh trưởng là một nghệ thuật mà người Huynh trưởng GĐPT cần phải thao thức – động não suy tư tìm ra phương pháp hay hơn – thích hợp hơn để tập hợp cho được các em. Từ chỗ không phải làm cho có, từ chỗ có ít làm cho có nhiều hơn. Đây là một tài năng – một trách nhiệm thiêng liêng – nặng nề – to lớn mà người Huynh trưởng GĐPT lãnh đạo đang làm công tác văn hóa giáo dục cần phải quan tâm và cần phải làm mãi miết liên tục trong suốt hành trình làm Huynh trưởng.

Nghề huynh trưởng là một cái “Nghiệp”. Chúng ta biết làm sao để trả cho hết nợ ân tình mà tổ chức yêu thương cưu mang truyền trao – tin tưởng trao phó.

Trong giờ giảng mà chỉ lèo tèo có một số ít Đoàn sinh thì tẻ nhạt biết bao ! Là người Huynh trưởng GĐPT, chúng ta thể hiện đúng đắn lời phát nguyện đầu đời bước vào nghề Huynh trưởng:

“Chúng sinh vô biên thề nguyện độ”

Làm đúng chức năng của mình, Bồ tát dấn thân độ tận chúng sinh mà không hề nản mỏi – không hề từ bỏ một ai.

Phải để cho các em thốt lên cho được tình cảm chân thành:

  • Em luôn luôn nhớ đến Đoàn, nhớ đến các anh – các chị trưởng. Em mong mỏi từng ngày – từng giờ, mong sao mau chóng đến hẹn lại lên – đến kì sinh hoạt, mong sao nhanh chóng đến với các anh – các chị – các bạn đoàn thân thương.

Nếu được vậy, thì đây là kết quả thành công, thể hiện tài năng tuyệt vời của người Huynh trưởng GĐPT đang đứng trên cượng vị làm công tác văn hóa giáo dục có hiệu năng thiết thực.

Các em là mặt sau của chúng ta. Huynh trưởng GĐPT là tấm gương sáng đang phản ánh hình ảnh của chúng ta ở góc độ này hay ở góc độ khác, hãy làm sao cho mặt sau của mình đẹp đẽ hơn lên. Một Huynh trưởng GĐPT giỏi, là người Huynh trưởng có nhiều sáng tạo, mẫn tiệp trước mọi vấn đề, ứng phó nhanh gọn, hiểu rộng biết nhiều, tự tin nhưng không tự tôn, quyết đoán nhưng không võ đoán, lời nói – việc ham tu học – nghe nhiều – ham thực hành – ít nói mới đủ uy lực tạo nên tính cách một Huynh trưởng GĐPT chín chăn – lành nghề.

Người Huynh trưởng GĐPT lãnh đạo Đoàn, chỉ điều hành sinh hoạt ngắn ngủi, mỗi tuần một lần vào ngày chủ nhật. Nhưng hầu như nó vẫn nối tiếp bằng hơi thở, phải luôn luôn làm mới – nóng hổi – hâm ấm lại mỗi ngày. Luôn luôn phải là những nuối tiếc mong chờ ngày hội cuối tuần, dù trong tuần còn có những thời gian trống trãi, vẫn không cảm thấy rơi vào khoảng không trống vắng, không dễ để cho Đoàn sinh đi vào lối mòn quên lãng.

Người Huynh trưởng GĐPT là một chiến sĩ trên mặt trận tâm linh – một kỹ sư tâm hồn – một thiền sinh trên bồ đoàn, đang đối mặt với thực tại vô minh – khai phóng tuệ giác. Phải luôn luôn nỗ lực phấn đấu, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng Đoàn – xây dựng GĐPT vươn lên phía trước. Không lùi bước khi nhắm vào mục phiêu cứu cánh – không xuê xoa trước những sai trái đời thường – không chùn bước trước những xuyên tạc – những kẻ rắp tâm bẻ cong chân lý. Bởi vì trên hành trình đi tìm lẽ sống, mỗi trở ngại – mỗi gian nan đều có giá trị đích thực của nó. Nếu đường đời mà bằng phẳng cả, sẽ là trở lực lớn cho sự trưởng thành và phát triển, đây là cơ sở đánh giá, là thước đo năng lực vốn sống của người Huynh trưởng GĐPT.

Những năm gần đây, nhiều Huynh trưởng GĐPT vững vàng hơn, nỗ lực bám chặc phong trào, góp phần tích cực trong xây dựng sự nghiệp GĐPT, đây là điểm son sáng chói đáng mừng. Hiện tại đang đòi hỏi nhiều Huynh trương GĐPT có tâm huyết, có nhiệt tình, sẵn sàng cống hiến sức mình cho tổ chức.

Tự nguyện khép mình vào tổ chức khi trân trọng gắn lên tim mình một đóa sen trắng, Huy hiệu cao quý GĐPTVN. Một Huy hiệu Hoa sen thiêng liêng bất tử do cố Huynh trưởng Từ Mẫn-Lê Lừng sáng tác, được cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết chấp thuận và đích thân gắn cho Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Hóa Phổ (Thừa Thiên) trong buổi lễ ra mắt, được tổ chức vào lúc 16 giờ – ngày mồng 8 – tháng Chạp – năm Mậu Tý (08-1-1949), nhân dịp Lễ Phật Thành Đạo, cử hành tại chùa Từ Đàm (Huế). Người Huynh trưởng GĐPT nguyện hứa suốt đời trung thành với lý tưởng. Làm việc gì – nói cái gì cũng tự đặt câu hỏi: Phải làm việc gì và để phục vụ cho ai ? Phải toàn tâm toàn ý hòa nhập vào cuộc sống đại thể của tổ chức.

Biết bao cấp Huynh trưởng GĐPT đi trước đã nêu những tấm gương ngời sáng, đã từng xông xáo quả cảm đầy sinh lực – đầy tài năng. Đã thể hiện những hoạt động nóng bỏng trong những giai đoạn gay go nhứt, qua đó đã khắc họa nên những suy tư – những chân dung đẹp đẽ kì vĩ lạ thường. Những con người ấy đã trung thực với cuộc sống và hết lòng vun vén cho những mầm non được nhanh chóng đâm chồi nẩy lộc tỏa hương ngời sắc.

Trong giai đoạn rối ren khắc nghiệt chưa rõ ràng như hiện nay, đòi hỏi người Huynh trưởng GĐPT phải tỉnh thức, nghiêm túc đi đúng hướng, chấp nhận một tác chiến gay go khắc nghiệt khó khăn nhất. Đòi hỏi chúng ta phải thận trọng, không thiếu phần xốc vác – bén nhạy – tinh khôn. Biết bao thử thách cam go đang chực chờ quanh ta, nên phải đòi hỏi ở chúng ta một tài năng – một đức độ sẵn sàng ứng phó.

Nếu mở lại những trang sử sáng ngời ngày qua, làm cho chúng ta không khỏi ngỡ ngàng. Nhưng phấn chấn biết bao, khi thấy có nhiều Huynh trưởng GĐPT tình nguyện hiến dâng đời mình vì sự trường tồn của tổ chức, đã lăn lộn với những giai đoạn khó khăn – uyển chuyển với thời cuộc. Nhiều Huynh trưởng GĐPT đã lãnh đạo phong trào, nhận lãnh gánh vác những gánh nặng, phụ trách nhiều GĐPT địa phương đầy lửa bỏng. Quả thực, đây là những lò lửa, có nơi lên đến cả nghìn độ, rực cháy suốt đêm ngày. Nhưng các anh các chị vẫn hùng lực, trên ngực áo vẫn hiên ngang gắn nổi Huy hiệu Hoa sen sáng chói. Những con người ấy có bao giờ ngơi nghĩ – có bao giờ xuôi tay, mặc dù hiện nay có người đã nằm xuống ! Nhưng các anh các chị vẫn sống đầy ý nghĩa, vẫn tinh khôi trong từng mỗi tâm thức của đàn em.

Là Huynh trưởng GĐPT, chúng ta mong sao, mỗi người tự xác định trách nhiệm, đem đến cho mọi người một niềm tin vững chãi vào đường hướng của tổ chức, và thường xuyên chăm lo làm trong sáng mọi thế hệ – mọi tầng lớp quần chúng – đến các em thân yêu.

Các em đến với chúng ta do một nhân duyên hòa hợp, được gieo tạo từ nhiều đời. Dẫu biết rằng “do duyên mà hợp và cũng do duyên mà tan”. Nhưng “Nghiệp” thì có thể chuyển hóa được. Người Huynh trưởng GĐPT phải có cái Duyên tốt hơn để chuyển hóa cái Duyên xấu ác, tạo nên một cái Duyên mới thiện lành đẹp đẽ, để tập hợp cho được các em, làm “Tăng thượng duyên” cho các em gắn bó với mình – với tổ chức nhiều hơn, mà không vì lý do này – hay điều kiện nào khác mà phải rời bỏ Đoàn. Dẫu mai này do hoàn cảnh – hay điều kiện sinh kế – học tập mà phải ngậm ngùi chia xa, các em vẫn mãi mãi nhớ về, và đủ thuận duyên, dù ở bất cứ nơi đâu, các em vẫn nhanh chóng – thiết tha tìm về với tổ ấm muôn đời. Bởi vì hạt giống chủng tử Như Lai đã được bàn tay lành nghề của các anh các chị chăm bón kĩ càng, cho dù được thả dưới vùng đất nào cũng vẫn nẩy mần vươn cao rợp mát bóng đời. Và cũng bời vì các em là một phần thực thể không thể thiếu trong đời sống của người Huynh trưởng GĐPT.

Đạo Phật là nguồn sống của tất thảy mọi sự sống, tách rời Phật chất thì không nhận chân được lẽ sống như thật, sức sống sẽ tàn phai bởi dục vọng điên cuồng thế tục.

Tinh thần Phật giáo là căn bản của một xã hội người văn minh. Muốn dẫn đến một nền văn minh toàn triệt, con người phải tự quyết định lấy vận mênh xã hội. Con người là chìa khóa mở cửa sự sống. Xã hội được an lạc thanh bình là do mỗi nhân thân tự quyết định. Muốn được vậy, phải lấy văn hóa giáo dục Phật giáo làm nền tảng đào tạo nên một con người toàn diện. Phải hướng cho con người vươn lên tầm cao đạo đức tâm linh, biết tôn trọng phẩm giá – nhân cách tha nhân. Mỗi nhân cách có đạo đức luân lí tốt là có một xã hội yên bình. Sự sụp đổ hoàn toàn về mặt đạo đức – luân lí – tâm linh sẽ dẫn đến một tai họa thảm khốc cho toàn thế giới ./-




NGÀY HẠNH GIA ĐÌNH PHẬT TỬ BỒ ĐỀ

NGÀY HẠNH GIA ĐÌNH PHẬT TỬ BỒ ĐỀ

“ Hiền dịu thay nữ Phật tử Việt Nam
“ Mang vóc dáng Quán Thế Âm bồ tát
“ Vòng tay mở ra, tấm lòng bát ngát
“ Từng cánh sen thơm ấm áp tình Lam …”

Không phải ngẫu nhiên biểu tượng đức Quán Thế Âm bồ tát lại được thể hiện bằng hình ảnh một người nữ. Tấm lòng của người nữ là biển rộng sông dài, chan chứa một tình yêu bao la bát ngát không bờ bến. Luôn luôn cởi mở – vị tha, sẵn sàng bao dung – từ ái, đùm bọc chở che tất cả.

Mọi người con Phật, khi nhắc đến đức Quán Thế Âm, ai ai cũng đều có khái niệm chung là một vị bồ tát tầm thinh cứu khổ, lắng nghe tiếng kêu của cuộc đời mà thị hiện cứu khổ cứu nạn cho tất cả nhân sinh.

Đức Quán Thế Âm biểu hiện cho đức từ bi, còn ngài Văn Thù thì thể hiện cho trí tuệ, đây là hai đức tính vốn có của Phật tánh.

Chúng ta chiêm ngưỡng đức Quán Thế Âm với một tinh thần từ bi, mà còn biểu trưng cho niềm khát vọng tâm linh, trải lòng cứu khổ ban vui cho nhân loại. Chính ý thức tự nhiên này, mà đạo Phật đã gắn liền tinh thần từ bi bao la, qua hình tượng của một người nữ dịu hiền.

GĐPTVN là một tổ chức giáo dục, ứng dụng giáo lý Phật đà để xây dựng hoàn chỉnh nhân cách mỗi nhân thân. Người nữ GĐPT tu học pháp môn nhĩ căn viên thông của đức Quan Thế Âm, là huân tập tự tánh biết lắng nghe – quán chiếu những tiếng đời thở than đau khổ như thật, phát huy trí tuệ sáng suốt, khởi tâm từ bi vô lượng như đoá sen trắng muốt, toả ngát hương thơm trên mặt hồ gợn sóng, thương xót mọi người chung quanh, tùy duyên thị hiện chuyển hoá, đem đến cho tha nhân một nguồn giải thoát – an lạc, chân hạnh phúc.

Muốn thành toàn được công hạnh huyền nhiệm nói trên, người nữ Phật tử phải thực hiện trọn vẹn bốn hạnh bồ tát Quán Thế Âm, đó là Tứ Vô Lượng Tâm : Từ – Bi – Hỷ – xã.

  • Tâm Từ: Là với tấm lòng ban phát an vui bình đẳng, dùng Phật pháp nhiệm mầu làm món hỷ thực, giúp cho mọi người chung quanh chuyển hóa được thói hư tật xấu.
  • Tâm Bi: Là tâm kham nhẫn, thương xót cứu giúp mọi người chung quanh đang đau buồn – khổ sở.
  • Tâm Hỷ: Là tâm tùy thuận, vui mừng khi thấy mọi người vui vẻ đến với Phật pháp, nhờ đó mà họ không còn buồn – không còn khổ – không còn sợ hãi âu lo nữa.
  • Tâm xả: Là làm cho mình và giúp cho mọi người buông bỏ tất cả những tánh hư xấu ác, những vị kỷ hẹp lượng nhỏ nhen, gây nhiều phiền lụy cho kẻ khác.

Khi thể hiện trọn vẹn được bốn hạnh Tứ Vô Lượng Tâm, thì lúc bấy giờ tâm của chúng ta hoà nhập cùng với công hạnh của đức Quán Thế Âm là một.

GĐPT Việt Nam chọn ngày vía đức Quán Thế Âm làm Ngày Hạnh cho ngành Nữ GĐPT. Nhân Ngày Hạnh thiêng liêng này. Ngành Nữ GĐPT Bồ Đề, trang trọng tổ chức Lễ Hạnh, nhằm mục đích cho toàn thể nữ Phật tử ôn lại công hạnh của mình trong thời gian qua.

Kỷ niệm ngày vía đức Quán Thế Âm, kỷ niệm Ngày Hạnh. Toàn thể ngành nữ GĐPT Bồ Đề, ấp ủ một hoài bảo độ sanh rộng lớn, phát nguyện thực tập hanh nguyện lợi tha của đức Quán Thế Âm, thị hiện nghìn mắt nghìn tay – thực sự vào đời, thấy rõ nơi nào còn có một chúng sinh đau khổ, là nơi đó hình ảnh của người nữ GĐPT Bồ Đề có mặt ở đó, đưa bàn tay dịu hiền ấm áp tình thương, xoa dịu thương đau mà giải khổ cho họ. Bằng tâm nguyện từ bi, người nữ Phật tử Bồ Đề ứng hiện mọi diệu pháp thiện xảo, tạo nhiều thiện duyên – khơi nguồn tâm thức, dìu dắt các bạn còn chơ vơ lạc lõng ngoài thế gian ảo hoá, mãi mê lăn quay theo vòng quán tính – lăn lóc trong chốn trần ai nhốn nháo – lặn ngụp mãi hoài trong biển trầm luân, nhanh chóng bước vào đường đạo, tham gia sinh hoạt GĐPT – hướng đến lý tưởng từ bi bình đẳng, vô ngã vị tha, nhanh chóng thiện hoá cuộc đời, nhiêu ích quần sinh.

Philadelphia – PA, 19092552 – 17102008.




Nữ Huynh Trưởng Huyền Trang

Nữ Huynh Trưởng Huyền Trang !

Em là 1 Nữ Huynh trưởng trẻ mới hoàn tất Huyền Trang, được giới thiệu về đây thực tập Liên Đoàn Trưởng.

Tài năng bộc lộ từ tuổi trẻ ! Em tinh cần bám sát đơn vị, ý thức được lý tưởng – trách nhiêm. Em miệt mài đối mặt trước gian nan – không nề hà mệt mỏi. Em đem hết tâm huyết phụng sự. Em nỗ lực thực tập – em tài tình ứng dụng chương trình tu học được – ứng dụng tinh thần thân cận xứ: Tiếp cận Thầy Trụ trì – tiếp cận phụ huynh – gần gũi thân thiện đàn em.

Sau gần 3 tháng em đã thu hút trên 60 đoàn sinh – trang bị đồng phục đầy đủ, hoàn chỉnh 1 đơn vị GĐPT. Đây là công đức của em. Em xứng đáng thừa hưởng cái gia sản do em chắc chiu tạo dựng ! Em xứng đáng là con chim đầu đàn tại 1 đơn vị GĐPT mà em đã bỏ ra biết bao công sức ắp ủ – tận tụy nuôi dưỡng – chăm chút – nâng niu – thai nghén, để được khai hoa – nở nhụy thành tựu xuất sắc !

Rất đáng khen 1 Nữ HTr trẻ tân khoa Huyền Trang – xứng đáng tuyên dương – xứng đáng được quan tâm bồi dưỡng trọng dụng vào các chức danh… tạo nhiều thuận duyên cho HTr trẻ được cống hiên – phát huy tài năng !

Houston, 27052024




NỖI LÒNG ĐÓN TRUNG THU

NỖI LÒNG ĐÓN TRUNG THU

Cũng như mọi năm, Tết Trung Thu năm nay, chúng tôi (anh trưởng BHD và tôi), đánh xe đi một vòng, thăm các đơn vị nằm trong trung tâm thị xã. Mỗi đơn vị có mỗi hình thức tổ chức khác nhau, nhằm mục đích, tạo nên một sân chơi ắp đầy sinh khí, cho các em vui đón Trung Thu. Có nơi tổ chức múa lân, có nơi cho các em hái hoa phật pháp, có nơi thực hiện các trò chơi dân gian. Đặc biệt, lồng vào đó, đơn vị nào cũng có xen kẻ một chương trình văn nghệ bỏ túi – quanh đèn.

Xúc động nhất và cũng thể hiện sự ấm cúng nhất, quanh sân chùa, bất chấp vì sự vô tâm trước niềm vui của tuổi thơ, toàn bộ khu vực bị mất điện, hoạt cảnh Hằng Nga – Hậu Nghệ và chú Cuội vẫn được diễn ra trong ánh đèn cầy lung linh, từng tràng vỗ tay của đoàn sinh và khán giả tại khu phố nhiệt liệt tán thưởng. Và một hình ảnh thật dễ thương, trong ánh mắt từ bi đong đầy nụ cười hiền hòa trìu mến, tiếng vỗ tay của Thầy cũng hòa vào tiếng đồng ca cùng các em oanh vũ.

Đơn vị cuối cùng mà chúng tôi đặt chân đến, một đơn vị đang bị thế lực vô minh toa rập với cường quyền, ngông cuồng đánh phá khốc liệt. Chúng tôi rất cảm động trước sự đón tiếp nhiệt tình của Ban hộ tự – Ban Huynh trưởng và các em đoàn sinh nơi đây. Đứng trước nỗi đau dằn xé thách đố ý chí này, Ban hộ tự vẫn sát cánh hổ trợ Ban Huynh trưởng, tổ chức một đêm Trung Thu hoành tráng cho các em chung vui. Sự tồn tại vững chắc như kim cương của GĐPT hôm nay, đã nói lên tinh thần vô úy – đoàn kết chặc chẽ, mà không một thế lực đen tối nào dã tâm cuồng bạo làm rệu rã được. Toàn thể Huynh trưởng – Đoàn sinh, thà chết vì chánh nghĩa, chứ không nỡ đành đang tâm, khom lưng cúi đầu nô dịch ngoại nhân – tà kiến.

“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
“Trần thế em nay chán nữa rồi
“Cung quế đã ai ngồi đó chữa
“Cành đa xin chị nhắc lên chơi
“Có bầu có bạn can chi tủi
“Cùng gió cùng mây thế mới vui
“Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
“Tựa nhau trông xuống thế gian cười”
– Tản Đà –

Trong niềm vui của tuổi thơ, vẫn còn phảng phất đâu đó tâm sự của Tản Đà, có phải ông đã thẩm thấu và cám cảnh được nỗi thực tại của nhân tình thế thái:

Hằng Nga (chữ Trung Hoa: 姮娥), còn gọi là Thường Nga (chữ Trung Hoa: 嫦娥), hay đơn giản là chị Hằng, là một nhân vật thần thoại truyền thuyết của người Trung Hoa:

Hằng Nga là một tiên nữ bất tử giữa thiên cung, bị đày đọa xuống nhân gian, để sống một cuộc sống con người thế tục. Trước nỗi bất công của Thượng đế, với cánh cung tài năng, Hậu Nghệ đã hạ gục chín thần mặt trời, đã từng gian hiểm gieo rắc biết bao âu lo thảm khốc cho nhân loại. Hậu Nghệ chuẩn bị hạ tiếp ánh mặt trời cuối cùng, Hằng Nga bất chợt xuất hiện, can ngăn không cho bắn nốt. Với tham vong vô minh không đáy, Hậu Nghệ trở thành một bạo chúa. Hằng Nga buồn bã bỏ đi, vượt qua cửa sổ, bay vào cung trăng – nơi chan hòa ánh sáng của chân lý – đạo dức kỳ vĩ. Hậu Nghệ vẫn ngông cuồng bắn theo, nhưng không đạt được mục đích !…

Lam nhã Thảo am, 15082554 – 22092010




NÓI THẬT

NÓI THẬT

Nói thật, là nói lên một sự thật hiện có đang diễn ra thường nhật.

Cuộc đấu tranh cho sự thật, là cuộc đấu tranh tự thân. Tự mình có dám sống thật, nói thật, không thỏa hiệp với những sai trái.

Vì muốn cho qua, an phận thủ thường, nhanh chóng suông sẻ trong công việc, chúng ta đã từng thỏa hiệp với sự gian dối, xuê xoa cho rằng đó chỉ là việc nhỏ. Chúng ta xót xa trước những bất công, kém văn hóa, nhưng lại thiếu mạnh dạn, dễ dãi buông xuôi cho qua, vì sợ đụng chạm, sợ bị trù dập, làm trở ngại trong việc xin xỏ, chạy chọt trong sự nghiệp tiến thân.

Sự thật không đánh giá được qua lời nói ồn ào, qua hứa hẹn hót suông, hay vì vong ngã, muốn nâng cao phẩm giá riêng tư, lợi ích cá nhân. Sự thật là cái giá trị tự thân, là cái kết quả được thể hiện qua hiệu năng hiện thực từ việc làm cụ thể, để đánh giá được một con người.

Bảo vệ giá trị truyền thống, hay chạy theo lợi ích vọng ngoại, đây là mâu thuẩn nghiệt ngã, là thách thức lớn, cần phải luôn luôn đấu tranh liên tục triệt để, để trả lại sự thanh sạch hoàn toàn. Trong công cuộc đấu tranh cho sự thật, lắm lúc chúng ta cảm thấy cô đơn, mềm lòng thua cuộc, dễ dàng yên phận thỏa hiệp, thì làm sao ươm mầm được sự thật, cải tạo môi trường, xây dựng nên một xã hội trung thực ./-




NỀN GIÁO DỤC KHAI PHÓNG

NỀN GIÁO DỤC KHAI PHÓNG

“Phật dạy giáo pháp chỉ một âm,
Mà mỗi chúng sanh tùy bậc hiểu”

Dù Phật pháp là một chứng nghiệm chân lý như thật, được trình bày khúc chiết, hàng Tiểu thừa tùy căn tánh – khả năng mà ngộ nhập khác nhau. Với kiến chấp đạo đoạn – tư duy hẹp hòi – kiến giải nông cạn, tạo nên muôn sai ngàn khác

Trong xã hội, dẫy đầy các hệ thống giáo dục. Tùy theo sắc thái, nhu cầu của mỗi tư trào văn hóa, mà định hình một hệ thống giáo dục, nhằm mục đích phục vụ cho dòng ý thức lập dị khác nhau

Nhưng bên trong từ mỗi nhân thân, còn có lương tri, còn có ý thức giác ngộ nhân chủ. Thì sự vươn lên để vượt thoát, tìm ra ánh sáng chân lý, chỉ còn là thời gian

“Làm thầy thuốc mà lầm, thì giết một người
“Làm địa lý mà lầm, thì giết một họ
“Làm chính trị mà lầm, thì giết một nước
“Làm văn hóa mà lầm, thì giết muôn đời”

Giáo dục có một định hướng đúng đắn, tri thức sẽ được nâng cao. Thiếu giáo dục, con người trở thành thứ phẩm, có một cuộc sống kém cỏi hạ liệt. Giáo dục là một nền tảng tối cần thiết, để phát triển xã hội. Xã hội có mức sống nâng cao – tốt đẹp hay không, là tùy thuộc vào nền giáo dục đó, có được tiến triển theo chiều hướng thiện hóa giác ngộ giải thoát tốt đẹp, hay nô dịch thoái hóa. Một xã hội thiếu giáo dục, là một xã hội, có cuộc sống ngang tầm với súc vật, chỉ biết có gầm gừ – đay ngiến – giành giật – xâu xé – dẫm đạp lên cuộc sống lẫn nhau. Nhìn vào phong cách sống của mỗi cộng động, sẽ đánh giá được trình độ giáo dục của xã hội đó, và cũng đánh giá dược mực độ tồn tại – tiến triển hay thoái hóa tụt hậu

“Do từ si mê sinh ra ái, từ đó mà bệnh tôi phát sinh. Vì tất cả chúng sanh bệnh, nên tôi bệnh. Nếu bệnh của chúng sanh không còn, thì bệnh tôi không còn. Vì sao? Vì Bồ tát đi vào trong sanh tử vì lợi ích chúng sanh. Vì có sanh tử nên có bệnh. Nếu chúng sanh không còn bệnh thì Bồ tát không còn bệnh. Ví như ông trưởng giả chỉ có một người con. Nếu người con bệnh thì cha mẹ bệnh theo, nếu con lành bệnh thì cha mẹ lành bệnh. Bồ tát cũng như thế, thương tất cả chúng sanh như con. Nếu chúng sanh bệnh thì Bồ tát bệnh, nếu chúng sanh lành thì Bồ tát lành”

Sở dĩ Phật giáo bị bệnh hoạn – ốm yếu triền miên, xa rời thực tế, thiếu vắng bóng dáng người chứng ngộ, cửa thiền trở thành nơi mua bán – cầu xin – hơn thua danh lợi, làm mất đi sức sống tươi trẻ, không đáp ứng thỏa đáng nhu cầu bức thiết – niềm kỳ vọng của nhân loại

Hơn hai mươi sáu thế kỷ trôi qua, những người học Phật và tu Phật, đều nhìn Đạo Phật với cái nhìn hướng về nội tâm, nằm ì ở phần thâm diệu cao siêu khó hiểu. Dẫn đến còn đang tâm đẩy lùi Đạo Phật vào chốn vong thân tối tăm thui chột, làm biến thái mê hoặc mụ mẫm, lừa phỉnh mọi người, “Cuồng hoa vô quả” tu thì nhiều, nhưng không thăng hoa được tri thức và đạo đức bao nhiêu, xa rời xã hội, tách biệt thực tại. Nhưng xã hội là một vấn đề bức thiết, cần phải tích cực giải quyết về mặt nhân sinh, mà đức Phật đã thể lòng từ mẫn, suốt bốn mươi lăm năm ròng rã hành đạo

“Đừng biến Đạo Phật thành một tổ chức có uy quyền thế lực, có giáo đường vàng son, có điện ngọc thâm u. Đừng biến tăng sĩ thành những con người vô tư, với những ưu đãi vụ lợi, chối từ nhiệm vụ thiêng liêng, thực hiện giải thoát và phụng sự con người”
– Nhất Hạnh – Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời –

Từ nơi sâu thẳm nhọc nhằn tột cùng, đất trời đã bao dung, ban tặng cho Việt Nam một kho tàng văn hóa đạo đức trân quí, đó là Đạo Phật – đó là GĐPTVN. GĐPTVN là một tổ chức giáo dục, có nền văn hóa kỳ vĩ, có uy lực làm sạch ô nhiễm, tô đẹp cuộc đời

Kinh Đại Bát Niết Ban Đức Phật đã dạy: “Hãy tự nương tựa chính mình, đừng nương tựa vào cái gì khác ngoài mình”. Đạo Phật là đạo tu lấy cái Tâm của mình. Hãy tự nổ lực để tự khai phóng ô nhiễm – thanh sạch tự tâm Đứng trước một nền văn hóa – giáo dục rối bời – rách nát, buông rơi đạo đức tâm linh, xem thường nhân nghĩa, bại hoại gia phong. Thì nền văn hóa – giáo dục ưu việt của tôn giáo, mà cụ thể là Phật giáo, cần phải nhanh chóng được đặt lại. Chỉ có nền giáo dục vô ngã – vị tha – khai phóng của Phật giáo – của Gia Đình Phật Tử Việt Nam, mới đủ năng lực huyền nhiệm làm được chức năng thiêng liêng, là giáo dục đạo đức, nâng cao phẩm cách của con người đến toàn diện. Hãy mở rộng vòng tay đón nhận tất cả. Phải thực sự là tổ ấm, tạo điều kiện cho thanh – thiếu – nhi bước vào, thể nhập cuộc sống. Giúp cho tuổi trẻ tự tin, phát tỏa nhiệt năng, phát triển nhân cách, nhận thức được cuộc sống sáng sủa, tràn đầy tươi đẹp, có nhiều ý nghĩa. Không còn tự ti – mặc cảm bị hất hủi – bỏ rơi…

Giáo dục trong GĐPTVN, là một hệ thống giáo dục ngoài trường học, giáo dục nhân cách đạo đức toàn diện. Ứng dụng giáo lý Phật Đà vào nền giáo dục GĐPT, nhằm mục đích rèn luyện mỗi nhân thân trở thành một nhân tố tích cực trong xã hội, một hiền tài cho dân tộc, một con người trên mọi người

Cái học của GĐPT, là cái học làm bùng vỡ vô minh – đánh thức giác tính: “Khai thị chúng sinh – ngộ nhập Phật tri kiến”, để tạo nên một chuyển biến mới – trở thành một người Phật Tử Mới – Chân Chánh, thông qua tuệ giác để chắc lọc bằng trí tuệ siêu việt. Đức Phật đã dạy: “Mỗi người phải được giác ngộ, rồi mới đi đến giải thoát”. Giác ngộ là nhận chân được thực tướng, thanh lọc ô nhiểm, đập nát vô minh, phá vỡ kiến chấp, lúc bấy giờ mới được giải thoát, an lạc – tự tại hoàn toàn
Qua các bậc học, các trại huấn luyện. Rèn luyện – nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, biết gát mình qua một bên, phát triển tinh thần vị tha, đủ khả năng – đủ bản lĩnh, đảm nhận được các nhiệm vụ mà tổ chức trao phó, đủ tư cách đảm nhận trọng trách thiêng liêng, đem đạo vào đời, giáo dục thế hệ mai sau

Phật pháp, là một pháp bảo tối thượng, muốn học được, phải học bằng cái tâm tỉnh thức, với phong cách của một thiền sinh đang đối mặt trước công án, khám phá vùng tâm thức biến động, điều ngự nội tâm, định hướng một thực tại trong sáng. Phật pháp là một môn học xuất thế gian, không với cái tâm tỉnh thức – khao khát, không với bộ óc siêu thế gian, thì khó mà thức ngộ được chân đế diệu kì
Phật pháp là một hành trình sống, lội ngược dòng đời, người thức giả tài tình, phải có một năng lực quán chúng, dẫn dắt tư duy, tạo nên một chuyển biến kỳ vĩ, giúp cho mỗi hành giả hội nhập kho tàng pháp bảo vô biên

Tư tưởng bất nhị bàn bạc suốt bộ kinh Duymacật: “Nhãn và sắc là hai, nhưng nếu biết nhãn đối với sắc không tham – sân – si thì đó là tịch diệt… cho đến ý với pháp là hai, nhưng ý đối với pháp không tham – sân – si thì đó là tịch diệt, sống trong ấy là nhập vào pháp môn Bất nhị”. Bất nhị có nghĩa là không hai, nhưng không phải là một, một trạng thái tịch diệt – buông xả hoàn toàn. Dưới cặp mắt nhị nguyên, còn nhìn thấy có bên này – bên kia, để rồi tự chìm nghĩm giữa dòng đối kháng

GĐPTVN tiếp thu nguồn tinh hoa vị tha rộng lớn, tiếp hiện vào đời, noi theo dấu chân thơm của đức Phật làm một cuộc cách mạng. Cách mạng của Đạo Phật, là không phải ở bên này hay bên kia dòng đời, vì ở mỗi dòng đều có dẫy đầy khổ đau, trộn lẫn bám víu vào nhau, nhận chìm sinh linh đến đọa đày đau khổ. Cách mạng của Phật giáo, là một con thuyền lội ngược dòng đời, cởi lên trên sóng khổ, trãi lòng từ bi – giải phóng nhân sinh vượt qua vũng xoáy mê vọng xa rời tự tánh

“… Khi giáo hóa chúng sinh… không ở bên này, chẳng đến bên kia cũng không ở giữa dòng… Không là đây, cũng không là kia, không lấy đây, không lấy kia… Không ở phương nào cũng không xa lìa phương nào, không phải hữu vi cũng không phải vô vi… Không phải đã tồn tại, không phải sẽ tồn tại, không phải đang tồn tại; không thể bằng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt

“… Thân Như Lai như vậy, nên quán như vậy. Quán như vậy gọi là chánh quán. Quán khác đi, gọi là tà quán”

Cái quan niệm cách mạng của thế gian, là tìm thời cơ trong thúc đẩy biến động, chối bỏ bờ bên này, để tìm qua bờ bên kia khác hơn. Xóa bỏ dòng ý thức hệ này, để rồi áp đặt dòng ý thức hệ khác nặng nề hà khắc khốc liệt hơn, nó chỉ có tính chất giải quyết ở phân đoạn, do đó cái gốc rể vẫn cứ tồn tại nẩy mầm, để rồi lại tiếp tục đối kháng

Đạo Phật là đạo chứng ngộ trong cuộc đời, biết bao tôn giáo đi trước và sau này, chưa có ai có thể vươn tới được. GĐPTVN đã thấy những cái mà ít người thấy được, đã hiểu những cái mà ít người hiểu được. Cố gắng khởi động nên một nền văn hóa giác ngộ – giải thoát kỳ vĩ, đem những cái đã thấy đã hiểu được, truyền trao lại cho thế hệ đàn em, gieo lại niềm tin tưởng, uốn nắn tâm tư, thuần hòa cuộc sống, hầu làm sáng tỏ phần nào ý chỉ của Như Lai, khỏi nhục lý tưởng xuất thế Muốn có được một xã hội tốt đẹp, là phải có những con người tốt đẹp. GĐPTVN đang hoàn chỉnh một nền giáo dục mới: Vô ngã – xả kỉ – vị tha – khai phóng – giác ngộ và giải thoát. Tập trung vào quỹ đạo giáo dục, mà tuổi trẻ là đối tượng cứu cánh để đặt lại đúng đắn vị trí làm người. Thiếu vắng sự hướng dẫn của Đạo Phật – của GĐPTVN, thì chưa có thể nói là cải tạo – cải cách, là cách mạng làm nên một xã hội thịnh lạc toàn triệt

“Con người là hơn cả, có thể thực hiện được tất cả những sự tốt đẹp”
– Kinh Hoa Nghiêm –

GĐPTVN đã đóng góp một vai trò rất quan trọng sự nghiệp phát triển giáo dục, góp phần tích cực trong xây dựng Đạo pháp và dân tộc. Sự đóng góp nhiệt thành của bao lớp Huynh trưởng GĐPTVN không phải là nhỏ. Nhưng cái công thầm lặng thiết thực này, chưa được trân trọng nhìn nhận một cách khách quan và công bằng. Nếu không có GĐPT làm nhịp cầu nối liền giữa thế hệ trẻ với thế hệ người lớn tuổi, thì thử hỏi văn hóa đạo đức Phật giáo có được phổ biến rộng rãi đến từng ngõ ngách của mọi đời sống tâm hồn thơ trẻ? Nếu GĐPT không Phật hóa trong các hoạt động văn hóa – văn nghệ – giáo dục – vui chơi – giải trí… thì dù các cấp chức năng, có đủ năng lực diệu thủ nghìn mắt – nghìn tay, cũng chưa chắc đã nắm bắt được hết các vấn đề bức súc, các nhu cầu cấp thiết nãy sinh trong đời sống dân sinh

Với hạnh nguyện kỳ vĩ “Ngũ trược ác thế thệ tiện nhập”. Như một chiến sĩ trên mặt trân tâm linh, dẫy đầy cam go khắc nghiệt, Huynh trưởng GĐPTVN sẵn sàng đối mặt với thực tại phủ phàng, như những con tằm, miệt mài với thiên chức, thắt ruột nhã tơ, để mai này trao lại cho đời những sản phẩm trác tuyệt

Giáo dục GĐPT là một sức mạnh, soi rọi vào các mặt tiêu cực xã hội, là mũi xung kích sắc bén làm sạch ô nhiễm, đem lại trong sáng cho đời. GĐPTVN là con thuyền đi ngược dòng đời, lật tung – phá vỡ mọi tệ đoan lạc hậu đang vây bủa làm rệu rã dòng đời. Cái tốt lúc nào cũng lột trần cái xấu, cho nên cái xấu rất khó chịu – khó chấp nhận được

“Như một du sĩ, khi nhìn thấy chỗ nằm như dáng hình sư tử. Ông ta không hài lòng thốt lên: – Ta đã nhìn thấy một điều xấu xa, đó là dáng nằm của samôn Gotama, một kẻ tàn hại sự sống. Ông ta gọi Đức Phật là một kẻ tàn hại, kẻ hủy diệt thế gian. Vì Đức Phật đã thẳn thắn chỉ rỏ bản chất dục vọng điên cuồng, thế nào là vị ngọt nguy hiểm của dục vọng và chỉ rỏ con đường thoát khỏi sự ràng buộc của dục vọng”
– Tuệ Sĩ – Phương Tiện Thiện Xảo –




LỜI THẬT TRÁI TAI

LỜI THẬT TRÁI TAI !

Ở mỗi tổ chức, còn có quá nhiều điều bất cập – đáng tiếc xảy ra, chưa thể hiện trọn vẹn tính nhân chủ công minh. Còn có nhiều bộ óc hẹp lượng – thủ cựu – cố chấp – chưa thoáng. Cho mình là lãnh đạo cấp cao, khi phán quyết một điều gì, thì áp đặt đối tác phải phục tùng – tuân thủ, nếu có ý kiến xác minh lại vấn đề, để tìm ra sự xác đáng – đúng đắn, thì vội vàng chụp mũ là bất tuân – không chấp hành tổ chức.

Ôi! buồn bã biết bao, khi mình làm sai, mà không biết là sai. Nếu có ai đó góp ý – phê bình, thì hàm hồ bảo thủ, lên giọng quyền lực – kẻ cả – lấn át, đánh giá người thấp cổ bé miệng là vượt cấp – không tuân thủ – xem thường tổ chức.

Cái đáng tiếc là, sự đóng góp ý kiến chân thành của thế hệ trẻ, không được trân trọng – lắng nghe – tiếp thu, mà còn bị coi là trẻ người non dạ – ngựa non háu đá. Không chú ý phát hiện tài năng trẻ, không quan tâm bồi dưỡng, tạo điều kiện cho tuổi trẻ tiếp cận – vươn lên. Thiếu tin tưởng, mà lại còn lo lắng vu vơ, e ngại nếu lỡ trao lầm thì sẽ đem lại di hại.

Là một tổ chức giáo dục, mang tính nhân bản rất cao, lấy con người làm đối tượng giác ngộ. Tính nhân chủ được đặt lên hàng đầu: “Các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi” – “Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành” – “Nhân thành tức Phật thành”. Hình thành nhân cách của mỗi người, sẽ đánh giá được sự thành tựu một vị Phật tương lai. Đức Phật đã phóng khoáng cho phép đệ tử của ngài, cần phải xét lại, dù điều ấy đã được truyền tụng lâu đời, đã được một đạo sư truyền trao dạy bảo…

Những vấn đề nêu trên, nếu được thẳng thắn đặt ra, sẽ có những ai đó chạnh lòng, sẽ cho rằng, tại sao lại nêu lên chi những cái tồi tệ của mình, nói xấu tổ chức, vạch lá tìm sâu, vạch áo cho người xem lưng. Lo sợ ngoại nhân biết được cái xấu của mình mà xem thường, mà chê cười. Tại sao lại can ngăn – tủi hổ che mặt, không mạnh dạn thố lộ sự thật, nói lên cho được những cái sai lầm, để mà thấm thía, để mà sửa sai.

Là một gã cuồng tử, từ tục đế mà vươn lên, có ai tự hào là mình đã sạch trong, ai mà không ít nhiều còn lấm lem – lầm lỗi. Nhưng có lỗi lầm – có sai sót mà biết quán chiếu để sửa sai, thì đây là điều đáng quí, đáng trân trọng nêu gương. Ở trong mỗi chúng ta còn có quá nhiều di căng – dị tật, nhiều chướng duyên, nhiều chứng bênh nghiệt ngã khó gột rửa, khó điều trị. Không nên lấp liếm – dấu diếm – che đậy nữa, mà cần phải nhanh chóng được phơi bày, bắt mạch – kê toa – bốc thuốc, chữa trị kịp thời. Phải thể hiện đầy đủ tính nhân chủ, tinh thần tự do dân chủ – tự do ngôn luận, mạnh dạn nói lên sự thật. Nếu tinh thần này được phát huy cao, thì sẽ là liều thuốc quí, nhanh chóng được chữa trị, làm khôi phục chứng bệnh nan y. “Thuốc đắng đã tật – lời thật trái tai”. Nếu được như vậy, kỳ vọng mai này tổ chức sẽ được làm mới – lớn mạnh – vững vàng biết bao !