LỢI THA

LỢI THA

Tứ nhiếp pháp:
• Tứ: là 4.
• Nhiếp: là thu phục.
• Pháp: là phương pháp.
• Lợi tha: là làm lợi ích cho người khác.

Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp lợi tha để giúp tất cả chúng sinh biết quay về với Phật pháp chân chính và sống an lạc hạnh phúc ngay bây giờ và tại uế độ này.
Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp, là bốn loại hình giúp Huynh trưởng GĐPT ứng dụng trong quá trình làm phật sự văn hóa giáo dục – chuyển hóa quần sinh. Đây là phương pháp gieo duyên – tạo nên mối giao cảm dễ dàng tiếp cận tha nhân – thu hút quần chúng.

1. Bố thí:
• Bố: là ban phát.
• Thí: là cho – là giúp đỡ.

Bố thí là phân phát – giúp đỡ những điều mà mọi người cần thiết. Cho mà không tính toán – không có ý đồ vụ lợi đòi hỏi báo ân. Cho với cả tấm lòng nhiệt thành mong mõi niềm hạnh phúc đến với mọi người.

Có những người bất hạnh gặp khốn khó cần sự giúp đỡ, chúng ta không nề hà – không chần chừ tiếc nuối, sẵn sàng ban phát cứu khổ kịp thời.

“Dù xây mấy bậc phù đồ
“Không bằng làm phúc giúp cho một người”.
-Ca dao – tục ngữ-

Với tấm lòng vị tha rộng rãi khoáng đạt, sự hào phóng không toan tính lọc lừa, dễ dàng thu phục nhân tâm.

“Phụng sự chúng sinh tức là cúng dường chư Phật”.

Bố thí là một trong sáu hạnh Ba-la-mật-đa (Lục độ), một trong Thập tùy niệm và là một đức hạnh quan trọng để nuôi dưỡng Công đức.

Bố thí được xem là phương tiện để đối trị tính tham ái, vị kỉ và được thực hành để tránh khổ đau của đời sau. Theo Đại thừa, bố thí là biểu hiện của lòng Từ bi và là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh đến giác ngộ.

Bố thí Ba la mật có ba loại: Tài thí – Pháp thí và Vô úy thí.

– Tài thí chia ra hai loại: Ngoại thí và Nội thí.
a. Ngoại thí: là bố thí những đồ vật bên ngoài như: vàng – bạc – của cải – quần áo – đồ ăn thức uống…

b. Nội thí: là bố thí những gì trong thân thể con người chúng ta, như xưa kia đức Phật còn là Bồ Tát đã bố thí đầu – mắt – chân – tay… Nếu chúng ta không làm được như vậy thì có thể ra công giúp sức như làm công quả cho chùa, kéo xe cho người già, v…v… Hoặc tiếp máu cho bệnh nhân, hoặc ký giấy cho những bộ phận trong thân thể khi bị chết bất đắc kỳ tử.

Bố thí tài vật thành tựu đước tính từ bi.

– Pháp thí gồm có:
a. Lời nói chân thật hữu ích đem lại an lạc cho người nghe.
b. Giảng dạy đúng chánh pháp.
c. Giảng dạy ba Tạng pháp: Kinh – Luật – Luận.
d. Giảng dạy hai pháp: Thanh văn và Bồ Tát.

Bố thí pháp thành tựu trí tuệ.

Vô úy thí:
Vô úy có nghĩa là không sợ.

Vô úy thí là bố thí sự không sợ hãi, làm cho người khác được an tâm yên chí – không sợ – hết sợ, đem lại sự bình an cho người.

Ðời sống đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Làm cho người bình tĩnh – tâm an – hết sợ, chính là đã cứu cho họ bớt đi quá nửa khổ đau trong kiếp sống.

Thực hành pháp môn vô úy thí, Huynh trưởng GĐPT thực tập đức tính không sợ gì cả. Người Huynh trưởng GĐPT chân chính, hiểu rõ giáo lý Phật đà, thì còn sợ nỗi gì ? Tiền của không tham cho nên không sợ mất, danh lợi không màng nên không sợ thiếu, sanh mạng là giả tạm nên không sợ chết. Với tâm lý đó mà cõi lòng luôn luôn không xao động, luôn luôn bình tĩnh trước mọi sự đổi thay – gian nan nguy hiểm. Huynh trưởng GĐPT tu hạnh thí vô úy, luôn luôn tĩnh tại – trí tuệ, sẵn sàng vào nơi nguy khó để hóa giải “Ngủ trược ác thế thệ tiên nhập”…

Bố thí vô úy thành tựu uy lực hùng dũng.

2. Ái ngữ:
• Ái: là yêu thương – yêu mến – yêu quý.
• Ngữ: là lời nói.

Ái ngữ là lời nói dễ thương truyền cảm đi vào lòng người – cuốn hút người nghe, nhíp phục đối tượng.

“Chim khôn hót tiếng rổn rang
“Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”.
-Ca dao-

Khôn ngoan trong giao tiếp, thể hiện lịch thiệp – nhã nhăn trong ứng xử. Không xem thường đối tượng là kẻ dưới – là người khờ khạo thiếu nhận thức. Phải tôn trọng cử tọa – không lên mặt kẻ cả – tỏ vẽ trịch thượng quyền uy phách lối dễ làm mọi người e dè khó gần.

“Lời nói không mất tiền mua
“Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
-Tục ngữ – ca dao-

Một lời nói hay – nói đúng lúc dễ dàng thu hút tình cảm – cảm hóa người nghe.
Đối với người sai phạm. Với lời khuyên nhủ đong đầy chân tình, xem đối tượng là người đồng hành thân thiết, dễ dàng cảm hóa nhiếp phục, hơn là răn đe lớn lời.
Nói dai – nói dài thành ra nói dại – nói dỡ, đây là các nói của kẻ khoe khoang – hợm hĩnh dễ làm cử tọa nản lòng.

“Đa ngôn đa quá”
‘Nói nhiều dễ vấp phải sai lầm’.
-Khổng Tử-

Phải biết đối tượng đang cần gì và mình cần phải nói những gì ? Chỉ nên nói những điều cần phải nói, nói có suy nghĩ – có chắc lọc đong đầy trí tuệ.

“Nhất ngôn khả dĩ hưng ban
“Nhất ngôn khả dĩ tán ban”.

‘Một câu nói có thể làm cho đất nước hưng thịnh
‘Một câu nói có thể làm cho đất nước diệt vong’.
-Xuân Thu – Khổng Khâu-

3. Lợi hành:
• Lợi: là lợi ích.
• Hành: là hành động – việc làm.

Lợi hành là một hành động có lợi ích thiết thực.

“Đừng thấy việc thiện nhỏ mà bỏ qua, chớ thấy việc ác nhỏ mà cố tình làm”.

Dù với một cử chỉ nhỏ nhặt thôi biết đâu mình đã gỡ rối cho người trong lúc khốn khó.

“Cái lỗ nhỏ nước chảy mãi cũng phá to”.

Biết đâu, nếu không giúp đỡ kịp thời, dù chỉ là nhỏ bé, thì sự khốn khó sẽ đưa đến một kết quả bi đát to lớn.

“Một đóm lửa nhỏ nếu không dập tắt kịp thời sẽ bùng cháy to”.

Phải với tấm lòng của người mẹ hiền, để tâm chăm sóc đến từng đối tượng lầm lạc, tạo duyên lành tốt nhất giúp đỡ – đưa họ về nẻo chánh.

Với tâm lượng Bồ tát đại từ – đại bi, Huynh trưởng GĐPT vào đời, ứng dụng mọi phương tiện thiện xảo nghìn mắt nghìn tay mà cứu vớt hóa độ quần sinh.

4. Đồng sự:
• Đồng: là cùng nhau.
• Sự: là việc làm.

Đồng sự là cùng làm một việc, hòa nhập vào nhịp sống mọi người cùng nhau làm việc. Đây là phương tiện tối thắng, nếu không có sự gần gũi – tiếp cận tha nhân thì làm sao nắm bắt được từng mỗi thâm sâu để mà cảm hóa.

Mỗi người đều có mỗi cuộc sống riêng tư. Bồ tát muốn thành toàn công hạnh hóa độ quần sanh, thì phải như một Quán Thế Âm thị hiện, biết lắng nghe, tùy nhu cầu của mỗi chúng sanh mà Huynh trưởng GĐPT phương tiện thể nhập để mà cảm hóa.

Thế giới đang chuyển biến một cách nhanh chóng, con người đang tốc lực chạy đua vào vô vọng. Huynh trưởng GĐPT đang quảy gánh trên vai một cái “Nghề”, đó là trách nhiệm làm công tác văn hóa – giáo dục nặng nề. Nếu không có phương pháp để mà hãnh tiến thì làm sao nhập thế vào đời, đưa mgười thoát ra ngỏ cụt trầm luân. Nhưng dù có một phương án toàn thiện trên tay, người Huynh trưởng GĐPT không đủ sức thù thắng, vận dụng thiện xảo nghìn mắt nghìn tay thị hiện vào đời, thì có đâu mà thành toàn công hạnh hóa độ.

Làm thế nào để giúp đỡ con người, xây dựng thế giới này ngày càng tốt đẹp hơn ?
Tứ ngiếp pháp là một pháp môn tối thắng, ứng dụng phương pháp này giúp cho Huynh trưởng GĐPT hóa giải được mọi tình huống khắc nghiệt.

Y cứ vào tinh thần từ bi – hỷ xã – bình đẳng và giải thoát. Huynh trưởng GĐPT thực hiện “tay nghề” bằng thể nhập, hòa mình vào mọi cuộc sống nhân sinh để thành toàn mục đích lí tưởng vị tha cao cả.

Trong các phương pháp giáo dục, thân giáo cũng rất quan trọng. Suốt bốn mươi năm truyền đạo giáo hóa chúng sinh, tùy lúc tùy hoàn cảnh mà đức Phật Thích Ca hiện ra hảo tướng. Có lúc thì trầm mặc – yên tịnh, hình tướng uy nghi, nên đại chúng cũng giữ oai nghi – thanh tịnh. Có lúc hiện tướng trang nghiêm khiến đại chúng theo đó mà thúc liễm thân tâm. Có lúc hiện tướng hoan hỷ đại chúng cảm thấy vui vẽ an lạc ./-




Không Thành Công Cũng Thành Nhân

Không Thành Công Cũng Thành Nhân

Trong công cuộc cách mạng, Việt Nam Quốc Dân Đảng khởi nghĩa Yên Bái 1930, nhà chí sĩ Nguyễn Thái Học đã phát biểu hùng hồn: “Không thành công cũng thành nhân”.

“Không thành công cũng thành nhân” thể hiện tinh thần dũng cảm, đức hy sinh và ý chí quyết tâm của người yêu nước trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dù cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng tinh thần yêu nước vẫn mãi mãi nối tiếp.

“Không thành công cũng thành nhân”. Trong quá trình rèn luyện ý chí, dù thành công hay thất bại, đều góp phần, giúp bản thân trở nên tiến bộ và hoàn thiện hơn mỗi ngày, khuyến khích mỗi người không ngại thất bại, dũng cảm theo đuổi ước mơ – mục tiêu cao cả. Nhắc nhở chúng ta ghi nhớ rằng, thành công không phải là đích đến duy nhất, mà quan trọng hơn là quá trình rèn luyện bản thân, học hỏi để trưởng thành.

Cống hiến, là hy sinh bản thân – dốc lòng đóng góp công sức. Sự cống hiến của biết bao thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ vô cùng quan trọng. Tuổi trẻ nỗ lực học tập – có kiến thức sâu rộng – không ngừng khám phá tìm tòi sáng tạo – rèn luyện bản lĩnh – làm nền tảng bước vào tương lai, tiên phong xả thân – thể hiện phong cách sống cao đẹp – nêu cao những tấm gương sáng ngời tuyệt bích.

Không thể bịt miệng một dân tộc chưa hề khuất phục trước phù thủy đồ tể đao phủ búa liềm !

Tinh thần “Yên Bái” để lại một ý chí quộc cường sẵn sàng sấn bước – vai chung vai gánh vát gian nan “Không thành công cũng thành nhân” ./-

Houston,18062024




KIẾN LẬP TỊNH ĐỘ NHÂN GIAN

KIẾN LẬP TỊNH ĐỘ NHÂN GIAN

Không biết do nghiệp trọng – phước khinh như thế nào, mà đã từ lâu, tổ chức GĐPTVN, luôn luôn đa mang – nếm trãi biết bao nghiệt ngã gay gắt

Đối diện trước nhiều ngã rẽ cuộc đời, những diễn biến phức tạp, càng lúc càng gia tăng. Đây, là một công án thử thách ý chí, thách thức những tấm lòng tri thức – nhiệt huyết của biết bao Lam viên

Nhiều dấu hỏi to lớn đã được đặt ra, con đường mà chúng ta đang đi, là đúng hay sại, là ích quốc lợi dân, hay lạc hướng dân tộc – đạo pháp?

“Bản chất tội không ở trong không ở ngoài, cũng không ở giữa. Như Phật đã dạy, chúng sinh cáu bẩn vì tâm cáu bẩn; nếu tâm trong sạch, hết thảy đều trong sạch. Tâm cũng không ở trong không ở ngoài, không ở giữa. Tâm như nhiên, tội cũng như nhiên. Các pháp cũng như nhiên, không vượt ngoài Như”, tâm chúng sinh cáu bẩn, nên thấy có cáu bẩn, với tâm hồn đen đúa thì khó mà nhìn ra ánh sáng, đối mặt trước thực tại mê vọng phủ phàng, đành phải im lặng bất tư nghì

Trãi qua những năm dài đen tối, trong nỗi niềm oan khuất ẩn ức, chưa biết phải lý giải như thế nào, là “Nói năng như chánh pháp”, cho nên đành phải “Im lặng như chánh pháp”

Huynh trưởng GĐPTVN tâm đắc định hướng hiến chương: “GHPGVNTN không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt, mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc”. Thế hệ Huynh trưởng hôm nay, một đội ngũ vững vàng, chịu trách nhiệm thịnh suy – tồn vong của tổ chức – đạo pháp – dân tộc. Đoàn kết chung lòng – chung sức, xác lập lý tưởng – sách tấn nhau, vượt qua gian khó, thể hiện châm ngôn, “Quốc gia hưng vong – thất phu hữu trách”

Chúng ta hãy thành tâm – tĩnh tại, nhìn lại đường hướng – tôn chỉ – mục đích, tiến trình lịch sử trên 70 năm – tổ chức GĐPTVN, để mà suy ngẫm, để mà tự hào

Sự thăng tiến vững chãi – tồn tại, có được hôm nay, đây là dấu ấn, đong đầy công đức to lớn, của biết bao thế hệ Huynh trưởng GĐPTVN. Đã khẳn định ý chí kim cương chính mình, được trưởng thành trãi nghiệm, trong đau thương gian khó

Với “lý tưởng hòa bình – sứ mệnh xiển dương chánh pháp – sự nghiệp giác ngộ và giải thoát”. Với thiện ý Tình Lam thắm thiết – đạo vị ấm áp chân tình – đoàn kết san sẻ khó khăn. Với tinh thần vô úy, vận dụng Bi – Trí – Dũng, vững vàng khí tiết, không chịu khuất phục cường quyền, hy sinh cúng dường cả thân mạng – cống hiến cả máu và nước mắt, để xây dựng chính nghĩa, trên nền tảng phụng sự và phát triển Đạo pháp – Dân tộc và Nhân loại. Cái công ơn thầm lặng vàng son kỳ vĩ này, lịch sử trân trọng tán thán – ghi nhận công đưc

Nhưng, cũng không ít trong chúng ta, còn có những HTr đi chệch hướng bay, chểnh mảng, thiếu niềm tin son sắc, chưa hết lòng, đặt trọn vẹn dưới sự thống lãnh của BHDTƯ – của Chư Tôn Đức Hội Đồng Cố Vấn – của bản thể Tăng già hòa hợp thanh tịnh. Thui chột – mê vọng – vô minh – điên đảo, xa rời nguồn cội. Đang tâm tạo nên thảm cảnh khủng hoảng – “thương tổn cốt nhục” – “nồi da xáo thịt”, làm cho “máu chảy – ruột mềm”, rây rức – nhứt nhối – đau đớn tột cùng !

Trong giai đoạn nghiệt ngã này, sự bình tỉnh – sáng suốt – tuệ giác của mỗi HTr, sẽ hóa giải được mọi chướng duyên

Trãi nhiều năm qua, từ trong gian khó, chúng ta đã tận tụy, giữ gìn di sản cảo thơm – gia tài trân quí của cha ông. Trong khi đó, còn có những chân tướng, nhân danh là Trưởng tử Như Lai, phơi bày giả tâm, nỡ đành phân hóa, làm rệu rã – tàn rụi ngôi nhà chánh pháp. Đứng trước nỗi phá tán nghiệt ngã, đảo lộn gia phong, chúng ta đau đớn chịu đựng – nhẫn nhục – im lặng, mặc tẩn những thành phần manh động – làm mất đoàn kết – gây chia rẽ nội bộ tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam – Phật Giáo Việt Nam

“Gia bần tri hiếu tử – Quốc loạn thức trung thần”, cữ mỗi lần gặp phong ba nguy biến, thì những mầm xanh không ngừng vươn lên, tạo nên kỳ tích, “cứ như pháp mà phụng hành”, làm cho lịch sử Áo Lam ngày thêm vững chãi – rạn rỡ

Dòng sinh mệnh của tổ chức, được thăng tiến luân lưu. Nền giáo dục tối ưu – nhân bản – vị tha – khai phóng của GĐPTVN. Ứng dụng giáo lý Phật Đà làm nền tảng – tiêu hướng hành hoạt – ươm mầm tài năng. Được liên tục vươn mình truyền tải, là nhờ vào mối tương quan cộng hưởng. Được thành tựu viên mãn, trên tinh thấn đoàn kết lục hòa cọng trụ, từ các thế hệ Huynh trưởng GĐPTVN

Sự nghiệp kỳ vĩ này, sẽ được chuyển tiếp, truyền thừa lại các thế hệ hậu duệ. Để đảm đương được trọng trách cao quí. Thế hệ HTr hôm nay, phát hạnh nguyện đại hùng – đại lực, tinh tấn cầu học – thực tâp đại hạnh Duymacật, chứng nghiêm vô biên Phật pháp, dung thông – vô ngại, tự giác – giác tha – giác hạnh viên mãn. Đầy đủ uy lực – đức độ – tài năng, sẵn sàng thừa kế – phụng sự tổ chức – phụng sự tam bảo, xiển dương chánh pháp, “thành tâm xây đời – hộ đạo”, thành tựu đaọ tràng – trang nghiệm Phật quốc

“Người Phật tử chân chánh, chỉ trung thành với lý tưởng đạo Phật, không pha trộn với bất cứ ý thức hệ nào, cũng không chịu điều khiển bởi bất cứ thế lực chính trị nào”, mà chỉ “duy nhất làm cái nhiệm vụ là, kế thừa truyền thống tâm linh của tổ tiên”

“Lịch sử Phật giáo Việt Nam đã từng bị bức hại bởi các tôn giáo khác, hay bạo quyền chính trị. Nhưng người Phật tử Việt Nam, vẫn ung dung thà chết vì đạo, hi sinh thân mạng cúng dường chư Phật, báo đáp ân đức tiền nhân, cảm hóa kẻ bạo tàn, giành lại tự do an bình, làm toát lên sự cao thượng vĩ đại phủ khắp Đạo Phật tuyệt vời”

Đôi dòng chân tình, xin được chia sẻ. Xin chân thành khâm phục, tinh thần vô úy – khắc phục khó khăn. Tán dương công đức của Chư Tôn Thiền Đức cố vấn – của các anh – chị Huynh trưởng hôm nay, đang tĩnh tại trên thế đứng tại vị. Không xao động – chao đảo – chùn bước – run lòng trước nghịch cảnh chướng duyên. Là tấm gương sáng, đang vững vàng trên chiến tuyến, trực tiếp trên pháp tòa – bục giảng, làm bổn phận, hướng dẫn – giáo dục – chăm sóc – vun xới, những mầm xanh tổ chức GĐPTVN, thực hiện – thành toàn hoài bảo to lờn

“Quốc độ của tất cả chúng sanh là Phật quốc độ của các Bồ tát. Vì sao? Bởi vì các quốc độ của Phật được giữ gìn do những chúng sanh được các vị Bồ tát chuyển hóa, và được giữ gìn do những chúng sanh được các Bồ tát giáo hóa. Quốc độ Phật được mở rộng do nhiều chúng sanh chứng ngộ trí huệ Phật, được mở rộng do những người giác ngộ tánh Bồ tát nơi chính mình. Như vậy, quốc độ Phật của Bồ tát là để làm lợi ích chúng sanh”

Huynh trưởng GĐPT liễu ngộ tư tưởng Duymacật, phát nguyện nhận lãnh sứ mệnh truyền bá chánh pháp – độ sinh – hình thành Phật quốc. Quốc độ mà Huynh trưởng GĐPT cần thiết phải kiến lập, đó là cảnh giới GĐPTVN, làm nhiêu ích – chuyển hóa Đoàn viên GĐPT, tỉnh thức thâm nhập tuệ giác Phật Đà, thành tưu trang nghiêm Phật quốc ngay tại ta bà này
Chúng ta thành tâm, phát đại nguyện tu học – thực tập tinh thần Duymacật, vô úy tĩnh tại, trung thành – son sắc, với lý tưởng Áo Lam truyền thống. Bảo vệ hai văn kiện pháp quy: Nội Quy – Quy Chế HTr GĐPTVN. Có thái độ dứt khoát, với những cá nhân – tổ chức, đi sai lạc tinh thần, Nội Quy – Quy Chế HTr GĐPTVN. Đặt trọn vẹn niềm tin, tuân thủ sự lãnh đạo tuệ giác – kỳ tài của BHDTƯ – của BHD địa phương – của Chư Tôn Đức Hội Đồng Cố Vấn. Đoàn kết nhất trí – duy trì, thành toàn xuất sắc, sứ mệnh cao cả, là giáo dục thế hệ hậu duệ – đàn hậu tấn mai sau, tài bồi hiền tài cho Tổ chức – Đạo pháp và Dân tộc, kiến lập hoàn chỉnh tịnh độ nhân gian ./-




IM LẶNG NHƯ CHÁNH PHÁP

IM LẶNG NHƯ CHÁNH PHÁP

Đáng lẽ ra là phải im lặng, tiếp tục nín nhịn, như từ lâu đã từng như vậy. Nhưng càng nín nhịn thì những điều ngang trái cứ tiếp tục diễn ra úp chụp một cách phủ phàng. Phải nói lên tiếng nói của thế hệ đàn em đang bị sa lầy ngất ngư, đang bị một ai đó nằm hờ – thọc tay – phù phép, đánh giá thấp nhân cách thế hệ đi sau

Tại sao trong tổ chức, mà lại là một tổ chức có tính nhân bản rất cao, quyền bình đẳng (đồng hạng) – tự – chủ – tự giác phóng khoáng được đặt lên hàng đầu, “Các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi” – “Ta là Phật Đã thành – các người là Phật sẽ thành”. Thế mà còn tồn tại những tâm lượng vị kỹ, đối xử với nhau một cách gia trưởng độc đoán hèn tiện, chưa nói là độc tài. Sự thăng tiến của cá nhân, cái kết quả công đức hôm nay, đòi hỏi ở mỗi nhân thân phải hy sinh – tự nổ lực tu dưỡng – rèn luyện – phấn đấu phẩm hạnh mới có được. Thế mà vì tâm lượng hẹp hòi, vì nội tâm khúc mắc khó giải, mà xử dụng quyền hạn, nỡ đành đang tâm trì kéo trù dập mầm non, đẩy lùi sự tiến triển của tổ chức

Tại sao đã được thống nhất để được sinh ra. Đây là niềm kiêu hãnh của toàn thể Lam Viên khắp thế giới! Cùng bọc dâu trăm trứng, mặc dù có ở xa hơn, thế mà lại còn có cái nhìn lệch lạc – khác biệt. Các anh đang ganh tỵ – tị hiềm – phân biệt! Có chuyện gì vậy?

Không biết có chuyện gì đang diễn ra. Đàn anh của chúng ta đang nghĩ gì và định hướng như thế nào trước tình hình thực tại. Có chuyện gì đang biến động tận chiều sâu tâm tưởng của một vài lãnh đạo. Có phải là đang lo lắng, đang sợ hãi. Có việc gì đang làm cho các anh run lòng – chùn bước. có phải âu lo vì thiếu điểm tựa hư huyển. Hay trong thâm tâm các anh đang có dự tính chuyển hướng, đang tìm ngã rẽ yên ổn cầu an, chỉ còn đợi thời gian và một cơ hội chín muồi nào đó

Thế hệ đi trước, nếu đã tài tình định hướng, sáng suốt nhận định con đường đã chọn là đúng đắn chính nghĩa, thì xin hãy

mạnh dạn đặt ra, thế hệ đi sau sẵn sàng tuân thủ nối tiếp sự nghiệp. Tại sao cứ mãi ởm ờ – đánh lận con đen, lừa phỉnh đàn em, tạo thêm nỗi dằn co nhứt nhối đau lòng

Còn nếu xác định đó không phải là chính thống, là sai lạc đường hướng tổ chức, thì xin hãy thẳng thắn đối mặt, sợ gì mà cứ mãi loanh quanh tránh né

Trong ACE chúng ta, ai nấy đã hy sinh nhiều rồi, sự cần thiết phải hy sinh nhiều hơn nữa trước sự tồn vong của tổ chức, thì đâu có xá chi. Tình trạng mập mờ cứ mãi kéo dài, dễ dàng làm mềm lòng nãn chí, suy yếu nhiệt năng. Các thế lực vô minh đang chờ đợi thời cơ may mắn này. Phải tỉnh táo – sáng suốt mà thôi! …

Các thế hệ đàn em đang cúi đầu – mõi lòng chờ đợi một hiệu triệu – một ánh sáng huy hoàng – một tiếng Hống Sư Tử sấm sét đầy uy lực !

Lam nhã Thảo am, 30012553 – 15032010




HƯỚNG ĐẾN GIẢI THOÁT

HƯỚNG ĐẾN GIẢI THOÁT

Từ mười điều phi pháp, dẫn đến ngã rẽ các bộ phái Phật giáo tại thành Tỳ Xá Ly, Kinh Duymacật đã có mặt sớm nhất, nhằm mục đích phát triển Đại thừa

Kinh Duymacật là cái nôi kiến giải tư tưởng Đại thừa – đưa đạo vào đời, thực tiễn trong đời sống dân sinh – hướng đến giải thoát, nhưng không bị đời làm ô nhiễm

Với cái nhìn khách quan, bằng trí tuệ bát nhã, Duymacật soi rọi vào lòng xã hội nguồn văn hóa tri thức vô ngã, đây là một tinh hoa siêu việt, vươn lên trên sự nghiệp xiển dương Đại thừa

Tư tưởng Phật giáo trước giai đoạn Đại thừa, hình ảnh người tu sĩ xuất gia, có cuộc sống nghiêm mật, giới luật tịnh hạnh, được xem là đối trọng. Nhưng thành quả của Duymacật, một thương gia giàu có, có gia đình, sinh sống tại thành Vaisali (Tỳ Xá Ly), được giới cư sĩ hướng đến tôn vinh, là một thánh giả thượng sĩ tại gia quán chúng nổi bật, ông là đại biểu lý tưởng cho giới cư sĩ Phật tử tại gia. Tư tưởng Duymacật tạo nên một luồng sinh khí mới mẽ – trẻ trung hóa Phật giáo, được hình thành từ đại chúng, nhập thế – từ tục đế mà phương tiện diệu hữu, đem lợi ích thiết thực tại nhân gian: “Phật pháp tại thế gian – Bất ly thế gian giác” không cần thiết phải từ bỏ thế tục, vẫn thực hiện được chí hướng giải thoát. Qua đó:

“Có thể nói cả hai giới tu sĩ và cư sĩ đều quan trọng như nhau trong giáo pháp của Đức Phật” – bình đẳng Phật tính

– Duy Ma Cật & Lý tưởng người cư sĩ – Daisaku Ikeda – Nguyên Hảo dịch –

Tâm đắc tư tưởng Duymacật, Huynh trưởng GĐPT thực tập – tu học, nhằm mục đích xây dựng hoàn chỉnh bản thân, năng hành Bồ tát đạo, phục vụ sự nghiệp giáo dục GĐPTVN, góp phần kiến tạo xã hội tăng huy Phật quốc – tịnh độ nhân gian.

“Không phải ngồi là ngồi thiền. Ngồi thiền có nghĩa là không hiện ra trong ba cõi. Cũng có nghĩa là hiển bày chính mình trong tánh tự nhiên, trong đó thân và tâm đều không còn. Có nghĩa là tu hành Phật đạo trong lúc làm những công việc hằng ngày trong thế gian. Ðó gọi là ngồi thiền”

Huynh trưởng GĐPT hành thiền ngay trong tục đế đời thường, không rời nơi uế trược để hướng đến cảnh giới xa vời, mà vì đàn em thân yêu ứng dụng vô biên thiện pháp, dù những sinh hoạt đơn giản nhất… cũng là Phật pháp, làm phương tiện để truyền tải – chuyển hóa – hướng dẫn các em phát triển tư duy – nhiếp tâm hành thiện

Nội tâm là một chiều sâu thăm thẳm – khúc mắc – phồn tạp, tàng chứa vô vàn kiến hoặc – lậu hoặc. Muốn hội đủ kiến thức – đủ tuệ giác để lý giải vấn đề tâm linh, mỗi nhân thân phải tự nổ lực rèn luyện – thực tập – tu học cho được chân đế

Nếu không có cuộc sống tâm linh, mỗi nhân thân triền miên đắm chìm trong tột cùng đau khổ. Đời là một dòng chãy bất như ý, mọi thứ không phải là một hạnh phúc có sẵn, để vuốt ve nuông chìu, mà phải nếm trãi biết bao cay đắng ngập lòng

Sở dĩ con người đau khổ, bởi vì không chịu tỉnh thức, không chịu mở mắt tri kiến. Để làm được điều kỳ diệu này, mỗi nhân giả phải tự giác ngộ lấy thân phận lau sậy, nổ lực tìm đến nguồn Phật chất vô biên

GĐPT là một dòng tu, muốn hoàn thiện nhân cách – hoàn thiện bản thân. Đến với GĐPT để chọn cho mình một pháp môn tu, nhằm mục đích thanh lọc tam nghiệp, tịnh thân – định ý, sau khi đã được tự giác, sẽ thực hiện giác tha, để được giác hạnh viên mãn. GĐPT là một tổ chức giáo dục, muốn hướng thiện được tha nhân, đòi hỏi mỗi nhân nhân phải đầy đủ thân giáo – khẩu giáo – ý giáo. Phải là một tấm gương sáng, một nhà mô phạm với đầy đủ đạo đức uy nghi, đủ sức truyền tải nguồn năng lượng Phật chất vô biên vào tận mọi ngõ lòng thâm sâu của mỗi nhân sinh. Kiến thức đâu phải bổng nhiên mà có, đòi hỏi phải hội đủ thời gian để dùi mài – đào luyện. Bỏ tu – bỏ học – bỏ bậc – bỏ trại nữa vời, không có quá trình sinh hoạt lâu dài với tổ chức, thì chỉ có mai một – lạc hậu, làm sao mà đuổi bắt theo kịp với thời gian, làm sao đủ năng lực – đủ bản lĩnh, nhất là làm gì có đủ tinh thần trung kiên – đủ niềm tin son sắc vào tổ chức – đủ nghị lực vô úy để mà lãnh đạo cầm đoàn, điều hành một đơn vị GĐPT sở tại, lội ngược dòng đời, góp phần làm thanh sạch – thiện hóa xã hội

Huynh trưởng GĐPT nổ lực tu học – thực tập tư tưởng siêu việt Duymacật, từ đó tỏa sáng sức sống diệu kỳ, mạnh dạn bước vào thế giới tâm linh sinh động, kiến giải – làm toát lên sự trong sáng tuệ giác, hiển bày bản nguyện, nâng cao phẩm giá, hun đúc ý chí, hành hoạt vạn hạnh tự tại, thành tựu thảnh thơi giải thoát đến vô cùng

Tịnh độ được kinh Duymacật quán chiếu bằng trí tuệ bát nhã. Mô hình tịnh độ được xây dựng bằng chính đôi tay và khối óc của Bồ tát, hiện thực ngay tại thế gian, chứ không từ một thế giới vô tưởng xa vời nào khác

Bát Nhã nói rằng: “Bất cấu bất tịnh”, thế giới Hoa Nghiêm thì nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo”, tư tưởng Duymacật đã trình bày: “Tịnh Phật quốc độ, người có tâm thanh tịnh sẽ thấy đất Phật thanh tịnh”. Tịnh độ có cấu hay được tịnh đều do tâm biến hiện. Tâm lượng chúng sinh mãi chìm nghĩm mê vọng trong ngũ dục – đánh mất chân tâm, dù có là tịnh độ ngay trước mắt cũng hóa hiện uế trược, với cái nhìn đoạn kiến đã tạo nên biết bao thảm cảnh ./-




HUYNH TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

HUYNH TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

Huynh trưởng GĐPT là gì ?
Huynh trưởng GĐPT không là gì cả ! Bởi vì Huynh trưởng chỉ là Huynh trưởng !

Hay cũng có thể nói: Huynh trưởng GĐPT là người cư sĩ trên người cư sĩ, là bậc thiện sĩ tại gia.

Người Huynh trưởng GĐPT không phải là người xa rời, tách mình ra khỏi xã hội, bởi vì vẫn còn có cuộc sống thế tục, nhưng không để đắm mình lăn lóc trong dục vọng ê chề, say mê giấc mộng kê vàng. Mà Huynh trương là người tỉnh thức, đang tiếp cận với tha nhân, đang làm cái nhiệm vụ thiêng liêng của mình, là làm công tác văn hóa – giáo dục, hướng dẫn thế hệ trẻ, thế hệ đàn em của mình theo dấu chân thơm của đức Phật.

Người Huynh trưởng GĐPT không phải là người cư sĩ bình thường, là người học trò còn phải học tập, và cũng không phải là người thấy với dáng vẽ nghiêm nghị khô khan – khó gần gũi.

Người Huynh trưởng là người vừa tu – vừa học – vừa làm người giảng dạy, hướng dẫn lại sở đắc đã kinh qua từ bản thân. Người Huynh trưởng GĐPT tự coi mình là người anh – người chị – người bạn chân thành thân ái chan hào tình cảm ngang tầm với các em để dễ dàng tiếp cận đoàn sinh tại mối gia đình nhỏ của các em, nắm bắt đời sống – điều kiện sinh hoạt – tâm tư tình cảm – nguyện vọng – đặc điểm, để vỗ về – lắng nghe từ sâu thẳm của các em mà tìm ra giải pháp hữu hiệu – để giải đáp thích ứng những nhu cầu bức thiết, hướng dẫn dìu dắt – giúp đỡ các em vượt qua rối rắm, vững vàng từng bước chập chững vào đời.

Muốn làm được nghĩa vụ thiêng liêng cao cả này, ngoài việc phải học – học mãi – học hoài để hội đủ kiến thức, chứng nghiệm Phật pháp sâu sắc để hướng dẫn các em, mà điều tối cần hiết là khả năng tu chứng – liễu ngộ. Thiếu chứng ngộ người Huynh trưởng GĐPT không bao giờ truyền đạt được ý chỉ của tổ chức – tâm ấn của chư Tổ – chư Phật – của các bậc đàn anh truyền thừa, không khéo chỉ là cái máy nói – lý thuyết suông mà thôi.

Huynh trưởng GĐPT thực hành trên nền tảng song đối: Đại trí – Đại bi – Đại hạnh.

  • Huynh trường GĐPT thực hành Đại trí, là học hỏi vô biên Phật pháp, quán sát thấu suốt chân tánh của vạn hữu.
  • Huynh trưởng GĐPT thực hành Đại bi, với tấm lòng người mẹ bao dung như trời biển, ôm trọn cả thế giới vào lòng.
  • Huynh trưởng GĐPT thực hành Đại hạnh, là thực hiện Bồ tánh đạo, không phải chỉ mong có lợi ích cho riêng mình, mà sử dụng phương tiện thiện xảo hướng đến giác ngộ – giải thoát hết thảy chúng sanh ./-




HIỆP KỴ

HIỆP KỴ GĐPT TỈNH BÌNH THUẬN

Người Phật tử đến chùa, là đến với Thầy – Tổ, là trở về nương tựa dưới mái nhà của người cha – người mẹ thân yêu của mình. Người con cần có nơi chốn để được vỗ vệ – ấp ủ – thương yêu, không phải là phải xin xỏ và được ban ân – bố thí mới có. Mà người cha – người mẹ (người Thầy: là “thiên – nhân sư”, là người xuất gia: “xuất thế tục gia” – “xuất phiền não gia” – “xuất tam giới gia”, lìa xa gia đình, lìa bỏ sự nghiệp quyền quý – cao sang, có đời sống tu viên, chuyên tâm học kinh – giữ giới – tu thiền để thanh lọc tâm ý, xa lìa ái dục – không thiết tha lưu luyến thế tục, có chí nguyện Đại Trượng Phu, có trái tim từ bi – cởi mở – vị tha bao la bát ngát, có ý chí kiên cường “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” – “bất bái quân vương”, tâm nguyện vững chắc, việc làm cao thượng, quyết tâm cầu giải thoát, tiến lên hàng thượng thừa), phải có trách nhiệm thương yêu chở che – bảo bọc, để cho người con tha phương của mình có được nơi chốn nương tựa ấm êm trong vòng tay từ ái, sau những năm tháng dài rong ruổi đường dài, dãi dầu nắng mưa gian khó – khắc nghiệt đời thường.

Chùa Huệ Đức – xã Sơn Mỹ – huyện Hàm Tân – tỉnh Bình Thuận, là một ngôi chùa nghèo khó, nằm giữa một miền quê hẻo lánh, do Thượng tọa Thích Đồng Khánh trụ trì. Thầy có một vóc dáng ốm yếu nhỏ nhắn, nhưng ẩn chứa trong Thầy một tâm hồn to lớn. Mặc dù gặp phải ma chướng, thế quyền bủa vây – ngơ mắt vô tâm trước những khốn khó của lương dân. Nhưng với một tấm lòng đại bi rộng mở, Thầy đã mạnh dạn mở rộng vòng tay ôm ấp biết bao mảnh đời cơ cực, những trẻ mồ côi – tật nguyền đang tìm về dưới mái ấm của Thầy càng lúc càng đông thêm. Nhưng manh áo – chén cơm – sách vở học tập của các em, đây là nỗi chật vật lo toan luôn luôn nặng trĩu canh cánh trong lòng Thầy. Có một hôm, tại một ngội chùa giữa lòng thị xã, tổ chức Lễ Trai Tăng, sau buổi tiệc chay thịnh soạn, thức ăn còn lại thừa mứa, Thầy ngỏ lời xin mang về cho trẻ mồ côi. Một hình ảnh như thật đã làm cảm động rơi nước mắt cho biết bao người. Nhớ lại hình ảnh tận tụy lo toan đầy thương cảm ấy, ngay cả giờ đây, khi ghi lại những dòng chữ này, mà nước mắt cứ mãi tuông ra, ràn rụa theo từng con chữ.

Và cũng với tấm lòng bát ngát trời mây ấy, Thầy đã mạnh dạn mở rộng vòng tay từ ái, đón nhận Gia Đình Phật Tử truyền thống, đang lưu vong trên chính quê hương mình. Chùa (Chùa to – Phật lớn) của chúng ta còn đó, Thầy của chúng ta còn đó, nền đạo lý – di sản từ bi to lớn muôn đời của chung ta vẫn còn đó, thấy nó sờ sờ trước mắt, thế mà sao xa xôi cách trở – cay đắng đến ngập lòng, để cho biết bao Áo Lam chính thống không còn nơi nương tựa – không dám bước vào! Một tổ chức giáo dục Truyền Thống đã từng gắn bó nhiều đời Lịch Đại Tổ Sư, xương máu – mồ hôi – nước mắt của biết bao anh – chị đi trước đã đổ xuống để bảo vệ cho sự sống còn của Giáo Hội – của đất nước này, và ý chí này – di nguyện này vẫn nối tiếp truyền trao lại cho thế hệ hôm nay và mãi mãi muôn sau, thế mà lại nhẫn tâm, đối xử phân biệt bởi những tâm hồn nhầy nhụa dục vọng vô minh tanh tửi, đành đoạn không dám tiếp xúc – nhẫn tâm xua đuổi ra khỏi chùa những đứa con thuần thành – những hậu duệ trung kiên của đạo pháp.

Cứ ngỡ rằng trước áp lực của ma vương, đang cố tình vùi dập sức sống đạo đức tâm linh, đẩy thế giới này đến gần với hầm lửa tự hủy diệt, chỉ biết có tranh giành danh lợi – quyền lực hơn thua hư vinh, thỏa mãn thú tính hèn kém, nỡ đành chà đạp đồng loại, ân nghĩa sơn môn. Để rồi “Nhân quả đáo đầu chung hữu báo” – nhận lấy một hậu quả nhục nhã thảm hại ê chề, để lại bia đời lưu danh xú uế.

Dù bị đoanh vây giữa cơn sóng thần dữ dội, bất chấp trận cuồng phong bão dữ, với í chí kiên cường, không bao giờ chịu khom lưng khuất phục trước những giả tâm đen tối, dấu mặt – giựt dây – thọc gậy sau lưng khoáy rối. Dù bị từ chối – đẫy đuổi – thay đổi – di dời địa điểm, nhưng với quyết tậm vô úy vốn có của Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận, Lễ Hiệp Kỵ Bình Thuận vẫn được diễn ra như một ngày hội lớn, tất cả Lam viên Bình Thuận từ mọi ngã hướng, dù trong bộn bề cuộc sống đời thường, kinh tế lạm phát, rình rập hù dọa – chụp mũ lương dân. Toàn thể Lam viên Bình Thuận vẫn quyết tâm khắc phục gian nan, với một tấm lòng trung kiên như nhất, nô nức đổ dồn về, làm cho một miền quê yên ắng bổng rộn ràng – sinh động hẳn lên.

Lễ Hiệp kỵ GĐPT Bình Thuận được diễn ra trong không khí trang trọng, ấm áp tình nghĩa sơn môn, thầy trò thân ái. Thầy trực tiếp hướng dẫn – chỉ bảo tận tình, tạo rất nhiều thuận duyên, những khóa lễ được thực hiện chỉnh chu – kính cẩn – nghiêm thiêng, giúp cho pháp hội hiệp kỵ thù ân thập phần viên mãn. Sau mỗi khóa lễ, y hậu thầy ướt đẩm mồ hôi, thầy rất mệt, chúng con kính yêu thầy vô vàn !

Đại Lễ Hiệp Kỵ tri ân và báo ân, thành kính tưởng niệm Chư lịch đại Tổ sư truyền giáo – lưu truyền – bảo vệ – duy trì – phát triển mạng mạch Phật giáo Việt Nam. Tưởng niệm anh linh chư Thánh tử đạo vị pháp thiêu thân – vị pháp vong thân. Tưởng niệm chư vị Tiền Bối hữu công sáng lập GĐPTVN. Tưởng niệm giác linh chư vị Ân Sư cố vấn giáo lý – giáo giới – giáo hạnh. Tưởng niệm ân nhân Bảo trợ – Gia trưởng – Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPTVN quá cố. Lễ khai đàn thỉnh linh tọa vị và khai kinh Địa Tạng đươc Thầy Trụ trì tổ chức từ tối mười bốn. Sáng ngày Rằm tháng Mười – Tân Mão, Mặc dù Phật sự đa đoan, nhận được í chỉ ủy nhiệm của Hòa thượng Thích Trừng Khiết, Thượng tọa Thích Thông Hương chủ sám và 12 vị Tăng – Ni trong Ban Kinh sư chứng minh đại lễ. Lễ Kỳ siêu được chính thức diễn ra trong không khí chí thành – trang nghiêm của hơn năm trăm Lam viên và khách mời về dự. Sau lễ kỳ siêu là nghi thức hành chánh và Lễ Tiến Linh. Ban Hướng Dẫn – Ban Tổ Chức Đại Lễ Hiệp Kỵ GĐPT Bình Thuận, thành kính tri ân công đức chư vị ân sự, nhất là Thầy Trụ trì cũng như quí đạo hữu cư sĩ Phật tử các Ban Hộ Tự, các vị thân nhân H.Tr – ĐS quá cố, đã dành tình cảm ưu ái – chấn tích đăng lâm chứng minh – tham dự, góp phần làm cho buổi lễ thập phần trọng thể.

Đặc biệt, được sự vận động tài giỏi của H.Tr Cấp Tấn Thiện Tâm Huỳnh Thái Dũng – UV Doanh Tế Ban Hướng Dẫn, H.Tr A Dục, chị Đồng Thắng Võ Thị Chiến – đơn vị GĐPT Khánh Ngọc – thị xã Lagi, các vị cư sĩ Phật tử ân nhân bảo trợ, đã tài trợ ủng hộ cúng dường Lễ Trai Tăng và tiệc chay phục vụ buổi lễ, và có cả một ban ủng hộ phục vụ Café – nước ngọt – giải khát từ chiều hôm trước cho đến ngày hôm sau. GĐPT Bình Thuận chân thành tri ơn công đức quí liệt vị, nguyện cầu hông ân chư Phật thùy từ gia hộ quí vị và quí quyến vô vàn phước lạc – thành đạt như ý.

Buổi lễ hoàn mãn, được kết thúc sau lễ cúng thí thực. Toàn thể Lam viên Bình Thuận lưu luyến siết chặt tay nhau, thầm nhủ với bồ đề tâm kiên cố – vô úy, phát đại nguyện lớn – sẵn sàng gánh vát gian nan, làm sáng danh GĐPTVN – thành toàn sứ mệnh giáo dục tiếp hiện thiêng liêng cao cả mà tổ chức tin tưởng trao phó !

Trở về nơi đây dưới mái chùa thân yêu. Thời tiết đang từng bước vào Đông, đêm về se se lạnh. Nhưng mỗi lòng người Huynh trưởng Phật tử, ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhàng ấm cúng, như gã cùng tử tha phương – khốn khó gian nan lưu lạc, nay được trở về lại quê hương xưa, được ấp ủ trong vòng tay từ ái của người cha muôn thuở. Nơi đây, hình ảnh người Thầy, thể hiện chân dung nghiêm nghị nhưng từ hòa, cứng rắn nhưng ru êm, toát lên một đức sáng rạng rỡ, làm cho ai nấy đều kính yêu, ngỡ như xa nhưng mà đậm đà gần gũi thân thương.

Trước giờ phút chia tay, rời Pháp hội về mỗi trú xứ, chúng con, ai nấy đều xúc động. Mỗi lời thầy nhắn nhũ sâu sắc, như những hạt châu long lanh đã được cọ xát dòng đời, được soi sáng bằng tuệ giác, làm cho chúng con cảm nhận được bản thể như thật cuộc đời, sách tấn cho chúng con vững vàng thêm trên hành trình thực tập. Chúng con là những đóa hoa lan bé nhỏ, nhờ thấm đẫm những hạt sương mai mà tươi thắm cuộc đời, nhờ có những dòng cam lồ pháp lạc tưới tẩm, mà cuộc đời nhiều não loạn, kỳ vọng mai này, có được nhiều đóa ưu đàm xuất hiện…

Lam Nhã Thảo Am, 20/04/2011




GIA ĐÌNH PHẬT TỬ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

GIA ĐÌNH PHẬT TỬ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

Gia Đình Phật Tử là khát vọng của dân tộc, là sự lựa chọn đúng đắn của tuổi trẻ Việt Nam, phù hợp với định hướng phát triển của đất nước. Mục đích của GĐPT đã làm toát lên hướng đến xây dựng hoàn thiện nhân cách và phát triển xã hội đến toàn thiện.

Mục tiêu cao cả của GĐPT là xây dựng con người có ý thức hướng thiện, góp phần tích cực xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo.

Trên tiến trình lịch sử, gần một thế kỷ gian nan, GĐPT đối mặt trước biết bao thế lực chính trị – cường quyền áp bức, làm cho diện mạo GĐPT khủng hoảng – biến tướng, đặt GĐPT trước thách thức độc lập – tự do – bình đẳng.

Dưới thể chế chính trị khủng hoảng, đẩy xã hội đến bất an, con giết mẹ – giết cha, vợ chồng chém giết nhau, anh em – bạn bè phản bội — đánh đập chém giết nhau, chia rẽ nội bộ, phân chia giai cấp, tham ô của công, bòn rút ngân sách, bốc lột tài sản nhân dân, chà đạp lên phẩm giá con người, cá lớn nuốc cá bé, áp bức bất công, chiếm đoạt lợi ích riêng, làm trái với quy luật phát triển xã hội, làm chậm bước xây dựng nền kinh tế hiện đại, giá trị văn minh tụt dốc, không còn ích quốc lợi dân, làm cho nhân dân ngờ vực, thấp cổ bé miệng, ta thán nãn lòng, đánh mất lòng tin trầm trọng.

Các thế lực chính trị ngoại lai vong bản mù quáng, đây là điều mà GĐPT không mong đợi, và đây cũng không phải là tương lai của đất nước.

Gần một thế kỷ trôi qua, những thành tựu mà GĐPT đã đạt được nhiều hiệu quả hiện thực, nền giáo dục khai phóng xả kỹ vị tha hoàn chỉnh, được nhiều tầng lớp trí thức hưởng ứng, nhiều thế hệ trẻ tích cức tham gia, được cộng động – xã hội ủng hộ bảo bộc chở che.

Đây là thành quả bởi Bồ Đề Tâm kiên cố, của mối quan hệ chủ thể thống nhất, vì mục tiêu lý tưởng, vì lợi ích quần sinh mà vô úy vững vàng, vượt qua biết bao sóng gió gian nan của hàng hàng lớp lớp Huynh trưởng đi trước ./-




DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

Đời là một dòng chảy, có không – còn mất – sinh diệt đến vô cùng.

Bàu Thiêu (thuộc quận Hòa Đa – Tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ), đây là địa danh của một mật khu thời kháng chiến chống Pháp, nằm sâu trong rừng thẳm, tựa mình bên dãy Trường Sơn. Vào lúc nửa đêm, không giờ, ngày 25 tháng 5 năm 1950, giữa những tiếng gầm hống của chúa sơn lâm, tôi cất tiếng tu oa báo tin vào đời.

“Thảo nào khi mới chôn nhau
“Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”
– Ôn Như Hầu –

Tiếng khóc báo hiệu bước đi đầu tiên của một sinh linh bé nhỏ vào dòng sống khổ.

“Vừa sinh ra thì đà khóc chóe
“Trần có vui sao chẳng cười khì ?
– Cao Bá Quát –

Sự ra đời của một sinh linh mơn mởn nhỏ bé làm chan chứa biết bao niềm hạnh phúc vỡ òa ngọt ngào của cha mẹ. Ngoài những giờ quy định sì sụp bên vú mẹ, tôi được các chú bộ đội chuyền tay nhau từ trại này qua trại khác. Tôi bụ bẫm – trắng hồng mơn mởn – xinh xắn – đễ thương được các chú gọi cưng bằng biệt danh “bé cục bột”.

“Nghĩ thân phù thế mà đau
“Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”
– Ôn Như Hầu –

Dòng đời tôi lớn lên ngụp lặn trãi dài trong biển khổ, hết chiến tranh Pháp – Nhật rồi nối tiếp nội chiến ý thức hệ – nồi da xáo thịt đau đớn đến tột cùng. Và cứ mãi miết như thế, kiếp nhân sinh ngụp lăn triền miên trong biển trần ai, thay đổi liên tục từ hiện tượng bên ngoài đến trải nghiệm suy tư Tứ thánh đế tìm ra ý nghĩa phong cách sống bên trong, nó liên kết tác động lên nhau cấu thành một hành trình đi tìm hướng sống vươn lên, tạo nên động lực lý giải bốn chơn lý giải thoát ra khỏi bản chất “khổ” nghiệp quả luân hồi.

“Bể khổ mênh mông sóng ngập trời
“Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi !
“Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
“Ngoảnh lại cùng trong biển khổ thôi !”
– Đoàn Như Khuê –

“Tạc nhật xoa tâm,
“Kim triêu Bồ tát diện.
“Bồ tát dữ Dạ xoa,
“Bất cách nhất điểu tuyển.”

‘Hôm qua lòng Dạ xoa,
‘Sáng nay mặt Bồ tát.
‘Bồ tát và Dạ xoa,
‘Chẳng cách một kẻ tóc.’
– Tục Truyền Đăng, quyển 31 –

Dạ xoa hay Bồ tát, hung ác hay từ bi cũng từ tâm mà hiển hiện. Không vọng tưởng tìm kiếm lang thang, thức tỉnh “hồi đầu bỉ ngạn”, quay trở về với bản tâm thanh tịnh chính mình, là bến bờ nương tựa, không phải hổ thẹn mai sau.

“Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
“Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
“Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
“Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thinh.
“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
“Nhật viễn gia hương vạn lý trình.”

‘Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
‘Liền trái không sanh nhận có sanh.
‘Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
‘Mắt mờ chúng sắc, tai đuổi thinh,
¬‘Lang thang làm khách phong trần mãi,
‘Ngày cách quê hương muôn dặm trình.’
– Trần Thái Tông –

Đang sống trong vô niệm, vọng tâm khởi niệm vô minh, liền rơi vào hữu niệm, rơi vào sanh tử, mê mãi buông mất bản tâm, lang thang trong sáu trần, xa rời “thể vô sanh” đáng thương cho chính mình.

“Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh,
“Thú hướng chân như tổng thị tà.
“Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
“Niết bàn sanh tử đẳng không hoa.

Phá trừ phiền não càng thêm bệnh,
‘Tìm đến chân như cũng là tà.
‘Tùy thuận các duyên không quái ngại,
‘Niết bàn sanh tử thảy không hoa.”
– Tú tài Trương Chuyết –

Còn thấy có phiền não – có đến chân như, tức là là còn nhị nguyên – là tâm chưa bất nhị “không hai”, là chưa thấy được đạo “chân tâm” “thấy tánh”.

“Các ông phải chân thật trong mọi việc, không có gì chân thật trong đời mà không chân thật trong Phật pháp, và không có gì không chân thật trong Phật pháp, lại chân thật trong đời.”
– Thiền sư Thiên Quế –




DÂN TỘC – ĐẠO PHÁP – GIA ĐÌNH PHẬT TỬ NỖI ĐAU TRI THỨC

NỖI ĐAU TRI THỨC
– Phan Văn Huy Tâm –

Qua pháp thoại: Huynh Trưởng GĐPTVN Với Đạo Pháp Và Dân Tộc của Hòa Thượng Thích Nguyên Hạnh.
(http://www.gdptthegioi.org/modules.php…….)
Tác giả kính mượn lời và ý pháp thoại, viết nên cảm xúc:

1. Thời kì nguyên sử ( 2879 – 111 CN
• Năm 2819 trc CN : người Việt cổ hình thành (lấy tên Bách Việt). Chiến tranh Tần Sở nổ ra, người Hoa Hạ xâm lược nước ta) Người Bách Việt bị mất lãnh thổ và bị đồng hóa với người Hoa Hạ. Số ít bộ phận người Bách Việt tách thành nước Văn Lang.
• Từ năm 257 – 208 TCN, Thục Phán, thủ lĩnh người Âu Việt hợp nhất với nước Văn Lang của Lạc Việt, đặt quốc hiệu nước là Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương. Thời kỳ này lịch sử được tái hiện thông qua lăng kính truyền thuyết với việc An Dương xây thành Cổ Loa.
• Năm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôi lập ra nhà nước Nam Việt.
•Năm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôi
•Năm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôiNăm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôi lập ra nhà nước Nam Việt.
•Năm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôilập ra nhà nước Nam Việt

2. Thời kì Bắc thuộc lần 1, 2,3
• Năm 113, nội tình nhà Triệu rối ren, nhà Hán thừa cơ đưa quân sang đánh Nam Việt, đổi tên Nam Việt thành Giao Chỉ.
• Từ năm 207 TCN – 39 SCN, Việt Nam sống dưới ách đô hộ của nhà Hán.
• Từ 40 – 43, khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Sau thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh.
• Năm 41, Mã Viện mang 20 vạn quân sang xâm lược nước ta. Năm 43, Hai Bà Trưng thất bại, phải nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết.
• Từ năm 43 – 543, Việt Nam sống dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Thời gian này có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu chống quân Đông Ngô. Bà Triệu tự xưng là Đại Hải Bà Vương, đánh nhau với tướng Đông Ngô là Lục Dân nhưng thất bại.
• Từ năm 544 – 548, khởi nghĩa của Lý Bí 544, Lý Nam Đế xưng vương, đặt tên nước là Vạn Xuân.
• Từ năm 548 – 571, Triệu Quang Phục tiếp tục kháng chiến chống quân Lương và lên ngôi vua là Triệu Việt Vương.
• Từ 571 – 602, Lý Phật Tử, họ hàng với Lý Nam Đế tiêu diệt Triệu Việt vương và lên ngôi. Thời kỳ này phong kiến phương Bắc là nhà Tùy sang xâm lược. Lý Phật Tử đầu hàng, Việt Nam bị nhà Tùy đô hộ.
• Năm 722, khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Sau này, cuộc khởi nghĩa thất bại, nước ta chịu sự đô hộ của nhà Đường.
• Từ 791 – 802. Khởi nghĩa Phùng Hưng thắng lợi. Năm 802, nhà Đường tấn công, Việt Nam lại chịu sự đô hộ của nhà Đường.

3. Thời kì quân chủ tự chủ (905 – 938)
• Từ 905 – 938, thời kỳ xây nền tự chủ bắt đầu với chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ. Sau đó tiếp nối là Khúc Thừa Hạo, Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ.
• Từ 939 – 944, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, lên ngôi vua và đóng đô ở Cổ Loa.
• Từ 944 – 950, Dương Tam Kha cướp ngôi và xưng vương.
• Từ 950 – 965, thời kỳ Hậu Ngô vương. Con của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, giành lại ngôi vua cho nhà Ngô.
• Từ 966 – 968, loạn 12 sứ quân.
• Từ 968 – 980, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân lên ngôi, hiệu Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lấy Hoa Lư làm kinh đô. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết, con là Đinh Toàn mới sáu tuổi được triều thần đưa lên ngôi.
• Từ 980 – 1005. Nhà Tống xâm lược Việt Nam, thái hậu Dương Vân Nga, mẹ của Đinh Toàn mời Lê Hoàn lên ngôi để chỉ huy nhân dân chống Tống. Lê Đại Hành lên ngôi, đóng đô ở Hoa Lư năm 1005, Lê Đại Hành mất.
• Từ 1005 – 1009, thời đại của Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều.
• Từ 1010 – 1028. Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên ngôi hoàng đế sau khi Lê Ngọa Triều mất. Năm 1010, Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) cho dời đô về Thăng Long (Hà Nội ngày nay), mở đầu cho thời kỳ phát triển văn hóa Thăng Long.
• Từ 1028 – 1054, triều đại của Lý Thái Tông.
• Từ 1054 – 1072, triều đại của Lý Thánh Tông.
• Từ 1072 – 1128, triều đại của Lý Nhân Tông. Thời kỳ này gắn với các chiến công của Lý Thường Kiệt đánh quân Tống và các thắng lợi trên mặt trận ngoại giao của Thái sư Lê Văn Thịnh.
• Từ 1128 – 1138, triều đại của Lý Thần Tông.
• Từ 1138 – 1175, triều đại của Lý Anh Tông. Thời kỳ này, triều chính rối loạn nhưng nhờ có các trung thần nên cơ đồ nhá Lý vẫn được giữ vững
• Từ 1176 – 1210, triều đại của Lý Cao Tông. Thời kỳ này chính sự đổ nát, giặc giã, đói kém liên miên. Nhà Lý bắt đầu suy thoái.
• Từ 1211 – 1225, triều đại của Lý Huệ Tông và Chiêu Hoàng. Thời kỳ này triều chính rối ren, lòng người ly tán, nhà Lý không còn đảm đương được vai trò lịch sử nữa. Trần Thủ Độ cùng những người thân tín trong họ nhà Trần làm một cuộc đảo chính cung đình hợp pháp, thông qua các cuộc hôn nhân giữa công chúa Chiêu Thánh và Trần Cảnh, bắt ép công chúa nhường ngôi cho chồng.

Từ 1225 bắt đầu triều đại nhà Trần.
• Từ 1225 – 1258, triều đại của Trần Thái Tông. Năm 1258, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Dân ta đã dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch, sau đó tổ chức phản công ở Đông Bộ Đầu. Quân Nguyên thua, phải rút chạy về nước.
• Từ 1258 – 1278, triều đại của Trần Thánh Tông. Thời kỳ này triều Trần khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang các điền trang thái ấp, mở các khoa thi để lựa chọn nhân tài, thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo với triều đình phong kiến phương Bắc.
• Từ 1279 – 1293, triều đại của Trần Nhân Tông. Năm 1285, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai. Các vua Trần tổ chức hội nghị quân sự ở Bình Than, tập trận ở Đông Bộ Đầu đồng thời tổ chức hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến các bô lão xem nên “hòa” hay nên “đánh”. Sau các chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp, tháng 6-1285, giải phóng kinh đô Thăng Long. Năm
• 1288, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba. Sau trận chiến trên sông Bạch Đằng, đất nước được giải phóng. Chiến thắng lịch sử gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
• Từ 1293 – 1314, triều đại của Trần Anh Tông. Đây là một thời kỳ thái bình thịnh trị của vương triều Trần.
• Từ 1314 – 1329, triều đại của Trần Minh Tông.
• Từ 1329 – 1341, triều đại của Trần Hiến Tông.
• Từ 1341 – 1369, triều đại của Trần Dụ Tông. Chính sự bắt đầu đổ nát, gian thần
• rất nhiều.
• Từ 1370 – 1372, triều đại của Trần Nghệ Tông. Quân Chiêm Thành đánh vào kinh đô, nhà vua phải lánh nạn. Sau đó nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông.
• Từ 1372 – 1377, triều đại của Trần Duệ Tông. Vua đem quân đi đánh Chiêm Thành và chết trong chiến trận.
• Từ 1377 – 1388, triều đại của Trần Phế Đế. Hồ Quý Ly bắt đầu thao túng triều đình.
• Từ 1388 – 1398, triều đại của Trần Thuận Tông. Thời kỳ này quyền hành thực chất nằm trong tay Hồ Quý Ly.
• Từ 1398 – 1400, triều đại của Trần Thiếu Đế. Năm 1400, Hồ Quý Ly ép Thiếu Đế nhường ngôi. Triều đại nhà Trần chấm dứt.
• Từ 1400 – 1401, triều đại Hồ Quý Ly. Nhiều cải cách táo bạo được thực thi như mở mang thi cử, phát hành tiền giấy tăng cường quân đội thường trực, định ra hình luật. Tuy nhiên các cải cách này không được sự ủng hộ của toàn dân.

4. Thời kì Bắc Thuộc lần 4
• Từ 1401 – 1407, triều đại Hồ Hán Thương nhưng thực chất Hồ Quý Ly vẫn cầm quyền. Quân Minh sang xâm lược.
• Từ 1407 – 1414, thời kỳ hậu Trần gồm các triều đại của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế chống quân Minh nhưng không thành công.

5. Thời kì quân chủ trung hưng
• Từ 1428 – 1433, thời kỳ mở đầu triều đại Lê Sơ bắt đầu từ triều đại của Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Năm 1418, Lê Lợi khởi binh. 1427 quân Minh thua phải rút quân. 1428 Nguyễn Trãi thay mặt vua viết “Bình Ngô đại cáo”, một bản tuyên ngôn độc lập của nước ta, khẳng định chủ quyền, cương vực, đánh dấu một sự phát triển mới trong lịch sử dựng và giữ nước.
• Từ 1433 – 1442, triều đại của Lê Thái Tông. Thời kỳ này có một vụ án lịch sử lớn: “Tru di Tam tộc” Nguyễn Trãi.
• Từ 1442 – 1459, triều đại của Lê Nhân Tông. Thời kỳ có loạn Lê Nghi Dân, nhà vua bị giết năm 19 tuổi.
• Từ 1460 – 1497, triều đại của Lê Thánh Tông. Đây là thời kỳ thịnh trị của triều Lê với sự ra đời của bộ luật Hồng Đức – một bộ luật hoàn chỉnh, có nhiều điểm tiến bộ.
• Từ 1498 – 1504, triều đại của Lê Hiến Tông.
• Từ 1504 – 1509, triều đại của Lê Túc Tông, sau đó là Lê Uy Mục.
• Từ 1509 – 1516, triều đại của Lê Tương Dực. Nhà Lê suy thoái.
• Từ 1516 – 1522, triều đại của Lê Chiêu Tông. Đại thần Mạc Đăng Dung phế Lê Chiêu Tông, dựng Lê Cung Hoàng lên ngôi.
• Từ 1522 – 1527, triều đại Lê Cung Hoàng nhưng quyền hành thực chất nằm trong tay họ Mạc.

6. Thời kì chia cắt
• Từ 1527 – 1529, Mạc Đăng Dung lập nên triều Mạc.
• Từ 1530 – 1592, các triều đại Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp.
• Từ 1533 – 1578, thời kỳ nhà Lê Trung Hưng bắt đầu từ Lê Trung Tông, Lê Anh Tông, Lê Kính Tông, Lê Thần Tông, Lê Chân Tông, Lê Huyền Tông, Lê Gia Tông, Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông, Lê Du Phường, Lê Thuần Tông, Lê Yý Tông, Lê Hiển Tông, Lê Chiêu Thống. Sau 50 nội chiến Lê – Mạc, nhờ Trịnh Tùng Mạc Mậu Hợp bị bắt. Nhà Mạc chấm dứt. Vai trò của nhà Trịnh nổi lên và bắt đầu thời kỳ vua Lê, Chúa Trịnh. Thời kỳ cuối cùng của nhà Lê Trung Hưng, triều chính nát bét. Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dẹp Trịnh, đưa Lê Duy Cận lên làm giám quốc. Lê Chiêu Thống vì quyền lợi cá nhân sang cầu viện nhà Mãn Thanh. Quân Thanh kéo quân vào xâm lược Việt Nam.
• Năm 1789, trận Đống Đa. Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ đã chiến thắng quân Thanh, giành độc lập cho Tổ quốc.

Từ 1545 – 1788, triều đại của nhà Trịnh nắm thực quyền bên cạnh sự tồn tại của vua Lê và Chúa Nguyễn Đàng trong (bắt đầu từ chúa Nguyễn Hoàng – 1558).

• Năm 1548 Trịnh Kiểm bắt đầu nắm quyền binh. Triều đại của Trịnh Kiểm bắt đầu từ 1545 – 1570. Tiếp đó là các chúa Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Can, Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Trịnh Cán, Trịnh Khải và Trịnh Bồng.
• Từ 1672 có sự phân chia Đàng trong (chúa Nguyễn) và Đàng ngoài (chúa Trịnh + Vua Lê) lấy sông Gianh làm giới tuyến.
• 1782 loạn kiêu binh. Sự kiện này được miêu tả rất rõ trong tiểu thuyết lịch sử – “Hoàng Lê nhất thống chí”.
• 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, Quảng Nam. Bắt đầu từ đây, nhà Nguyễn khởi nghiệp với 9 đời chúa là Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Thụ, Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Phúc Thuần. Tới năm 1174, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân đặt quan cai trị Thuận Hóa. Nguyễn Phúc Thuần chết, kết thúc giai đoạn lịch sử 9 chúa Nguyễn Đàng trong.

Từ 1778 – 1802, triều đại Tây Sơn.
• Năm 1771, anh em Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ) phất cờ khởi nghĩa. Nhà Tây Sơn hòa hoãn với chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn.
• 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, lập nên triều đại Tây Sơn.
• 1784 Nguyễn Ánh sang cầu viện Xiêm. Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm ở trận Rạch Giầm – Xoài Mút.
• 1786, Nguyễn Huệ ra Thăng Long diệt Trịnh phù Lê.
• 1788, Lê Chiêu Thống dẫn đường quân Thanh vào xâm lược nước ta.
• 1789, Nguyễn Huệ chỉ huy quân đại quân đánh tan quân Thanh ở Ngọc Hồi, Đống Đa.
• 1792 vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) từ trần. Từ đây triều đại Tây Sơn bắt đầu suy thoái.
• Từ 1793 – 1802, triều đại của Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung). Chính sự rối loạn do nhà vua tin lời gian thần.
• 1800 Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn.
• 1801 Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân.
• 1802 Nguyễn Ánh đánh kinh thành Thăng Long. Triều Tây Sơn chấm dứt.

7. Thời kì quân chủ thống nhất

• Từ 1802 – 1945, triều đại của nhà Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Ánh (Gia Long). Nếu tính cả các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Hoàng (1558) nhà Nguyễn tồn tại ở miền Nam 367 năm.
• 1802, sau khi diệt xong nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân (Huế).
• 1815 bộ “Quốc triều hình luật” được ban hành.
• Từ 1820 – 1840, triều đại của Minh Mạng.
• Năm 1821, dựng lại Quốc Tử Giám, mở thi hội và thi đình. Thực thi các chính sách khuyến nông, tìm hiểu kỹ thuật đóng tàu của châu Âu. Về ngoại giao: thần phục nhà Thanh, nhưng nghi kỵ Pháp nên có hàng loạt chính sách cấm đạo.
• Từ 1841 – 1847, triều đại của Thiệu Trị.
• Từ 1847 – 1883, triều đại của Tự Đức.

8. Thời kì thuộc địa

• 1858 Pháp nổ súng xâm lược Nam Kỳ.
• 1858, tiếng súng thực dân Pháp bắn thẳng vào cửa biển Đà Nẳng, mở đầu trang sử thực dân.
• 1862, người Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông – Nam Phần.
• Năm1867 người Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây – Nam phần.
• Năm1883 – 1884 những hoà ước Kỷ Mùi, hòa ước Patrenode hợp thức hóa sự đặt ách thống trị của người Pháp lên đất nước VN.
• 1885 hòa ước Patơnốt, Việt Nam bị chia làm ba miền: Bắc, Trung, Nam, chịu sự bảo hộ của Pháp.
• 1883, triều Dục Đức, chỉ tồn tại trong ba ngày.
• 1883 (tháng 6 – tháng 11) triều đại Hiệp Hòa, tồn tại trong sáu tháng.
• 1883 – 1884, Triều Kiến Phúc, tồn tại trong tám tháng.
• 1884 – 1885, triều đại của Hàm Nghi nhà vua ra chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân chống Pháp.
• 1885 – 1888 triều đại Đồng Khánh.
• 1889 – 1907 triều đại của Thành Thái. Nhà vua có ý thức tự cường nên không được thực dân Pháp chấp nhận.
• 1907, nhà vua bị ép phải thoái vị.
• 1907 – 1916, triều Duy Tân, nhà vua chống Pháp quyết liệt, định tổ chức khởi nghĩa thì bị lộ. Nhà vua bị Pháp đầy sang đảo Rênyông.
• 1916 – 1925, triều Khải Định, một triều vua bù nhìn mạt hạng nhất.

Guồng máy cai trị của thực dân kéo dài đến đầu thế kỷ Trong giai đoạn lịch sử tối tăm, 80 năm lệ thuộc, chính quyền thực dân ủng hộ Thiên Chúa Giáo, phá hủy Phật Giáo, bắn giết Tăng – Ni – đồng bào Phật tử, tàn phá chùa chiền, biến chùa chiền thành cơ sở Thiên Chúa Giáo, ví dụ: Nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn, nhà thờ La Vang tại Quảng Trị.

• 1926 – 1945 triều Bảo Đại. Năm 1945, Bảo Đại thoái vị, chấm dứt chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam.
• 1859 – 1864, khởi nghĩa Trương Định.
• 1861 – 1868 khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực.
• 1886 – 1887, khởi nghĩa Ba Đình.
• 1885 – 1887, khởi nghĩa Bãi Sậy.
• 1886 – 1892, khởi nghĩa Hùng Lĩnh.
• 1885 – 1896, khởi nghĩa Hương Khê.
• 1887 – 1913, khởi nghĩa Yên Thế.
• 1917 – 1918, khởi nghĩa Thái Nguyên.
• 1921, bạo động ở Lạng Sơn.
• 1930, bạo động ở Yên Bái.
• 3.2.1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời.

Năm 1930, dân tộc Việt Nam không chỉ chịu đựng dưới một thế lực thống trị thực dân, mà còn phải chịu áp lực của cộng sản.

Năm 1945. Người Nhật tiến vào Đông Dương.

Rồi cuộc chiến 1946 – 1954, hậu quả của nó là VN bị chia đôi đất nước. Một nửa ở miền Bắc, đi theo con đường cộng sản, một nửa ở miền Nam đi theo con đường tự bản.

Dưới thế lực của cộng sản – của người Pháp – tiếp theo là người Mỹ, dân tộc VN chìm vào đêm tối triền miên.

Cộng sản là những người vô thần duy vật, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo, vì Marx cho tôn giáo là thuốc phiện của loài người mà ‘bọn’ tư bản dùng làm công cụ ru ngủ nhân dân lao động bằng cách khuyên họ cố gắng chịu những khổ cực ở đời này rồi sẽ được đền bù một thiên đường ở kiếp sau để dễ bề bóc lột họ, trong khi chủ nghĩa cộng sản chủ trương xây dựng thiên đường cộng sản ngay trên mặt đất này. Bởi vậy, cộng sản cho tôn giáo là một trở lực cần phải tiêu diệt.

Học thuyết của Karl Marx về tôn giáo: “Tôn giáo là thế giới quan lộn ngược”

“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.

Trích dẫn từ nguồn: https://www.facebook.com/Ch%E1%BB%A7-Ngh%C4%A9a-M%C3%…/notes.

Sau năm 1954, chùa chiền miền Bắc biến thành lớp học, nhà kho hoặc san bằng để thủ tiêu mê tín dị đoan, Tăng – Ni tứ tán. Một số chùa thoi thóp, nhờ vào tín tâm hiếm hoi của một số ít Phật tử trong làng. Sau năm 1986, thời kỳ đổi mới, chùa chiền được tu sửa – vá víu – làm mới, nhưng chỉ dừng lại ở hình thức.

Năm 1954, dưới sự ảnh hưởng của Mỹ, ông Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ Tướng, rồi trở thành Tổng thống nền Đệ nhất Cộng hòa. Trong giai kỳ lịch sử này, dân tộc VN chìm ngập điêu linh thống khổ. Cả hai miền Nam – Bắc, một Phật Giáo trong Nam bị kỳ thị đàn áp, một Phật Giáo ngoài Bắc bị bức tử, không nơi đâu – là nơi chốn bình yên cho Phật Giáo !

Năm 1963, Phật Giáo VN trỗi dậy. Trong biến cố lịch sử, Phật Giáo VN đã nói lên tiếng nói của mình trước áp bức bất công. Phật tử miền Nam rầm rộ xuống đường phản đối chế độ độc tài, đỉnh điểm là sự kiện Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu.

Nguồn: http://vedepphatphap.vn/chelsea-con- gai-cuu-tong-thong-my-b…
http://giacngo.vn/nguyetsan/2013/05/24/32C000/.

Đồng thời, trong biến cố này, cuộc chiến VN bùng nổ giữa bên này và bên kia. Cuộc đấu tranh ý thức hệ càng lúc càng gay gắt, đẩy Phật Giáo VN vào chỗ tối tăm nghiệt ngã hơn. Đứng giữa hai lằn đạn tranh chấp, bên nào cũng sẵn sàng đâm vào sau lưng Phật Giáo.

Trang sử kéo dài đến năm 1975. Cộng sản chiếm toàn bộ miền Nam, được xem như kẻ chiến thắng, đưa đất nước này nằm hoàn toàn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Phật giáo sau 1975, các hoạt động tôn giáo bị hạn chế, nhiều chùa chiền biến thành công sở – trường học – hợp tác xã hoặc nhà kho, các phong trào Phật giáo miền Nam bị tan rã, nhiều danh tăng bị bức tử – quản thúc – đi tị nạn. Trại trường GĐPTVN tại Đà Lạt bị chiếm dụng.

Năm 1881, Phật giáo VN biến tướng, trở thành thành viên Mặt Trận Tổ Quốc VN, hàng ngũ giáo phẩm thiên tả. Nội bộ Phật giáo bị thế quyền thao túng – làm rạn nức – phân hóa – chia rẽ trầm trọng, bằng mặt không bằng lòng. Tự viện tranh giành ảnh hưởng – cát cứ riêng tư, biến thái hình thức tín ngưỡng, nhiều khóa tu học lôi kéo rầm rộ về mặt hình thức, năm ì ở mức độ cầu an – cầu siêu – dọn đường về cực lạc, đánh mất tinh thần nhân bản – giác ngộ – giải thoát. Giới tăng sĩ, có trình độ học vị cao, nhưng ý thức lịch sử Phật Giáo VN – bảo tồn truyền thống Đạo Phật khan hiếm. Giảng sư thì được đào tạo nhiều, nhưng không lý giải – thẩm thấu tuệ giác Phật Đà, chỉ là diễn giả, chọc cười – chọc khóc thính giả.

Gia Đình Phật Tử Việt Nam bị hù dọa – bức tử, bị phá phách – khoáy rối – sách nhiễu có hệ thống. Bị kỳ thị – áp bức bất công, không bình đẳng. Bị thế quyền thao túng giựt dây, nhiều tự viện chối từ GĐPTVN, tạo khoảng cách trầm trọng giữa nhà nước – Tăng Ni và GDPTVN.

GĐPTVN là một tổ chức giáo dục khai phóng, đào luyện hướng dẫn Thanh – Thiếu – Đồng niên toàn thiện nhân cách, trở thành người Phật tử chân chánh, người công dân hiền tài – gương mẫu, góp phần phụng sự xã hội theo tinh thần Phật Giáo.

GĐPTVN đang bị áp bức bất công, không tôn trọng tự do tín ngưỡng (theo hoặc không theo…). Bị áp đặt – bắt buộc phải đăng ký vào một tổ chức khác ngoài GĐPTVN, một tổ chức hình đồng đã sửa đổi, không thực hiện đúng Nội Quy – Quy Chế GĐPTVN, phi GĐPT.

GĐPTVN phải được bình đẳng trước pháp luật – có đầy đủ quyền hạn công dân – quyền tự do dân chủ – quyền tự do tín ngưỡng – tự do tôn giáo.

GĐPTVN phải được công bằng – bình đẳng, tự do sinh hoạt như các tổ chức xã hội khác, “Mọi người đều có dòng máu cùng đỏ, gọt nước mắt cùng mặn như nhau”. Nhìn chung, chính sách của các thể chế cầm quyền: Thời Pháp thuộc, thời đệ nhất cộng hòa, và hiện nay, Đạo Phật luôn luôn bị áp bức – bất công. Các chế độ chính trị, khoáy rối nội bộ Phật Giáo, không có dấu hiệu chuyển biến tích cực về mặt tự do tín ngưỡng – tự do tôn giáo.

Kể từ năm 1858, đến nay (2016), 164 năm trôi qua. Gần 2 thế kỷ, Phật Giáo vẫn tiếp tục bị khốn đốn ! tiếp tục đi giữa những lằn đạn khủng bố của các thế lực chính trị, thủ đoạn chính trị, chính trị hóa tôn giáo, thọc tay sâu vào tôn giáo, làm chia rẽ – phân hóa tồi tệ ! Đây là những hệ lụy lịch sử, mà Phật Giáo và dân tộc VN tiếp tục hứng chịu đọa đày – ngụp lặn giữa cuộc thương đau.

Đức Phật đã dạy:
“Người thực hành theo Đạo, như khúc gỗ trôi theo dòng nước. Nếu không bị người ta vớt, không bị quỷ thần ngăn trở, không bị nước xoáy làm cho dừng lại và không bị hư nát. Ta đảm bảo rằng, khúc cây ấy sẽ ra biển cả. Người học Đạo, nếu không bị tình dục mê hoặc, không bị tà kiến làm rối loạn, tinh tấn tu tập đạo giải thoát, ta bảo đảm người này sẽ đắc Đạo”.

Trích dẫn từ: Lược giải Kinh 42 Chương – Chương 27 – Thích Viên Giác.http://www.buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/03742chuong6.htm

Dòng đời là một chiến trường đối kháng khốc liệt, không dính mắc vào bờ bên này hay bờ bên kia. Phật giáo bị dính mắc, bị trói buộc vào vòng xoáy quyền lực chế độ, Phật giáo rơi vào sợi dây thòng lọng, bị buộc chặt vào khuynh hướng thế tục, bế tắc không tìm thấy lối ra.

Đâu là con đường phải đi ?
Bờ bên này, hay bờ bên kia !
Khúc gỗ đang trôi theo dòng nước, như một hành giả trên hành trình thực tập chí nguyện đại thừa. Không bị tấp vào bờ bên này, hay vào bờ bên kia.

Bờ bên này là kẻ thống trị, bờ bên kia là kẻ bị trị. Có kẻ chủ trương như thế này, có kẻ chủ trương như thế kia. Đấu trường lúc nào cũng có chủ nghĩa này hay chủ nghĩa khác, đối kháng lẫn nhau khốc liệt, luôn luôn đấu tranh để tìm vị thế sinh tồn cao hơn.

Lịch sử dân tộc, luôn luôn đối kháng – biến chuyển – thay đổi. Biết bao giai kỳ – biết bao thể chế, thành – trụ – dị – diệt liên tục.

Theo Ph.Ăngghen, về bản chất:

“Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”.

Trích dẫn từ nguồn: https://voer.edu.vn/m/nha-nuoc- va-cach-mang-xa-hoi/8c0ebc56.

Như vậy nhà nước chỉ là một phạm trù lịch sử, ra đời – tồn tại và phát triển trong một giai đoạn nhất định của xã hội đó và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó sói mòn theo thời gian, dẫn đến suy vong, không còn vững vàng được nữa.

Đức Phật đã dạy: “Khúc gỗ bị tấp vào bờ bên này hoặc vào bờ bên kia, thì khúc gỗ khó trôi được ra biển cả trọn vẹn”.

Từ bài học giá trị thích đáng, Phật Giáo suy ngẫm về con đường mà mình đang đi. Đừng để Phật Giáo bị cột trói vào bên này, hay bị dính mắc vào phía bên kia. Nếu để Phật Giáo bị cột trói vào một bên, thì Phật Giáo không còn là Phật Giáo nữa !

Sống, là để khẳng định chính mình. Muốn Phật Giáo được tồn tại, thì hãy khẳng định con đường Phật Giáo đang đi, và phải đi chính con đường mà Đức Phật đã khai thị.

Phật Giáo đã có một vốn sống nhân bản kỳ vĩ, không dễ dàng bị cám dỗ ru ngủ – nhắm mắt – quán tính buông xuôi. Không cần thiết phải dựa dẫm – phải nghe theo – làm theo ai cả, để dễ dàng bị chế ngự, biến thành thừa sai nô dịch. Mà bằng nghị lực vô úy, đủ ý chí vô ngã tự do, vượt thoát cả hai đầu, để khúc gỗ được thong dong trôi vào biển cả mệnh mông.

Đừng để khúc gỗ vướng vào vũng xoáy tối tăm, mắc vào cồn cạn dục vọng. Với cái tâm ngã mạn, cứ ngỡ rằng mình là ghê gớm lắm, là trung tâm vũ trụ. Kiêu ngạo – tăng thượng mạn – xem thường, đẩy cả dân tộc vào cơn lốc điên đảo, phó mặc cho khúc gỗ mắc cạn, không trôi được ra biển cả tự do.

Trong kinh Kalama, Đức Phật đã dạy:
Có một lần, đức Phật đi ngang qua bộ lạc của người Kalama. Nghe danh tiếng của Phật, người dân tìm đến đảnh lễ và hỏi Phật:

“Có một số đạo sư khác đi ngang qua đây. Người nào cũng muốn làm sáng tỏ, và ca tụng quan điểm của chính mình, nhưng lại bài xích, khinh miệt, chê bai, và xuyên tạc quan điểm người khác. Đối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: “Trong những vị đạo sư này, ai nói sự thật, ai nói dối ?”

Trong những trường hợp như thế, đương nhiên là các Ông có những nghi ngờ và có những phân vân:

Này các ông, các ông đừng tin một điều gì vì phong văn. Đừng tin một điều gì vì nó là tập quán lưu truyền. Đừng tin một điều gì vì được nhiều người nhắc đi nhắc lại. Đừng tin một điều gì vì đó là bút tích của thánh nhân. Đừng tin một điều gì vì đó là thói quen đã có từ lâu. Đừng tin một điều gì do ta tưởng tượng và lại nghĩ rằng do một thần linh nào đó khai thị cho ta. Đừng tin một điều gì vì đó là do các thầy có uy tín dạy. Nhưng này các Ông, khi nào tự mình chứng nghiệm và biết rõ như sau: “Các việc này là bất thiện; các việc này là đáng chê; các việc này bị các người có tuệ giác chỉ trích; các việc này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này các ông, hãy từ bỏ chúng! Và ngược lại, khi nào tự mình chứng nghiệm và biết rõ như sau: “Các pháp này là thiện; Các pháp này là không có tội; Các pháp này được người có trí tán thán; Các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc”, thời này các ông, hãy cố gắng thực hành để tự đạt đến và an trú trong hạnh phúc !

Trích từ nguồn: http://thuvienhoasen.org/…/niem-tin-va-kinh-kalama-nguyen-d…

Lật lại tự điển về tôn giáo thế giới, định nghĩa “chủ nghĩa vô thần, là phủ nhận sự hiện hữu của Trời. Trời được hiểu như một chủ vật, như: Phạm thiên – Chúa – Thượng đế… Tùy theo mỗi hệ thống tín ngưỡng, mà Trời có những danh xưng và vai trò khác nhau. Trong các tôn giáo độc thần, thì Trời là vị chủ tể khai sáng tạo dựng thế giới, trong các tôn giáo đa thần thì Trời là những vị thần có quyền năng siêu việt.”

Phật giáo là hữu thần hay vô thần ?
Đức Phật là bậc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, không phải là một linh thánh – là vị chúa tể khai sáng vũ trụ, bởi vì vũ trụ được hình thành do cộng nghiệp, trong đó có các vị trời. Đức Phật là một vị đạo sư của trời và người, vượt lên trên giới hữu hạn mà trời và người cần phải vượt qua, đó là sinh tử và luân hồi. Trời là cõi đang hưởng cuộc sống an nhàn. Đức Phật ra đời nhằm mục khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật trị kiến, thẩm thấu được bản chất khổ đau mà tự vượt thoát, không dừng lại ở mức độ hưởng phước an nhàn.

Đạo Phật là đạo NHÂN BẢN:
NHÂN: Là người, con người.
BẢN: Là gốc, là nền tảng.
Nhân bản là cái gốc của con người, là trung tâm quan trọng, đặt con người lên vị trí tối cao, là đức tính chủ yếu tự nhiên, giúp người có giáo dục – rèn luyện đạt được – trưởng thành nhân bản toàn thiện.

Giáo lý Phật Đà “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” – ý thức nhân bản, chọn con người làm cứu cánh giác ngộ. Phải có con người giác ngộ (tự giác), phát nguyện thực hiện chí nguyện Bồ tát, dấn thân nhập thế giác tha, trọn vẹn giác hạnh viên mãn.

Phật giáo đánh giá cao tinh thần nhân bản: Tự do – dân chủ – bình đẳng và công bằng. Tự do cá nhân, tự do tư tưởng và tự do bày tỏ ý kiến một cách dân chủ.

Như vậy, Đạo Phật có vốn quý tinh thần nhân chủ – nhân quyền. Những nghị định tôn giáo về mặt nhà nước mang tính áp đặt, đánh mất tư đo – dân chủ, là vi phạm nhân quyền – không tự do tín ngưỡng – không tự do tôn giáo.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot – Paris – Pháp. Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ. Trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân được hưởng, không phân biệt chủng tộc – màu da – phái tính – ngôn ngữ – tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác. Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế – thỏa ước nhân quyền khu vực – hiến pháp và luật pháp quốc gia. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi quốc gia và mọi dân tộc. Tinh thần của bản Tuyên ngôn là truyền đạt và giáo dục để nỗ lực thúc đẩy các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc tôn trọng các quyền con người. “Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này”.

Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc:
Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của mọi người trên toàn thế giới và các quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ chính là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.

Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.

Xét rằng: Nhân quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.

Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.

Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.

Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.

Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.

Do đó, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên ngôn một cách có hiệu lực, trong các dân tộc của các nước thành viên, và ngay cả trong những người dân sống trên các phần đất thuộc quyền cai quản của các nước đó.

Xem toàn văn bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền:
https://vi.wikipedia.org/…/Tuy%C3%AAn_ng%C3%B
4n_Qu%E1%BB%91…

Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo:
Kể từ năm 1920, Phật Giáo VN duy trì nhiều đạo tràng lón.

Tại miền Nam:
Thiền sư Thích Từ Phong giảng dạy tại chùa Giác Hải
Thiền sư Khánh Hòa tại chùa Tiên Linh
Thiền sư Chí Thành tại chùa Phi Lai, chùa Giác Hoa
Thiền sư Huệ Quang tại chùa Long Hòa
Thiền sư Khánh Anh tại chùa Long An

Tại miền Trung:
Thiền sư Tuệ Pháp giảng dạy tại chùa Thiên Hưng
Thiền sư Thanh Thái chùa Từ Hiếu
Thiền sư Đắc Ân chùa Quốc Ân
Thiền sư Tâm Tịnh chùa Tây Thiên
Thiền sư Phước Huệ chùa Thập Tháp
Thiền sư Phổ Tuệ chùa Tĩnh Lâm. Tại miền Bắc:
Thiền sư Thanh Hanh giảng dạy tại chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Bà Đá cũng là một đạo tràng lớn
Thiền sư Đỗ Văn Hỷ in ấn kinh sách rất nhiều

Phong trào chấn hưng Phật Giáo, được khởi xướng từ:
Thiền sư Khánh Hòa tại miền Nam
Thiền sư Phước Huệ tại miền Trung
Thiền sư Thanh Hanh tại miền Bắc
Ba vị được tôn là Tổ của phong trào chấn hưng Phật Giáo.

Tiếp theo sau đó xuất hiện thêm nhiều hội như:

Năm 1930, Thiền sư Từ Phong, thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, đặt tại trụ sở tại chùa Linh Sơn – Sài Gòn. Hội xuất bản tạp chí Từ Bi Âm. Thiền sư Khánh Hòa làm chủ nhiệm.

Năm 1932, Thiện sĩ Lê Đình Thám, thành lập Hội An Nam Phật học, trụ sở đặt tại chùa Trúc Lâm – Huế. Hội xuất bản tạp chí Viên Âm. Thiền sư Giác Tiên làm Chứng minh Đạo sư.

Năm 1932, ông Đoàn Trung Còn thành lập nhà xuất bản Phật học Tùng thư.

Năm 1934, Thiện sĩ Nguyễn Năng Quốc, thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ, tại Hà Nội. Hội xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Thiền sư Thích Thanh Hanh (Tổ Vĩnh Nghiêm) làm Thiền gia Pháp chủ.

Năm 1934, Thiền sư Huệ Đăng, sáng lập Hội Thiên Thai Thiền Giáo tông Liên hữu, tại Bà Rịa.

Năm 1935 Lễ Phật đản tại Huế đã mời được vua Bảo Đại và Thái hậu làm Hội chủ danh dự.

Trụ trì chùa Thiên Phước là Lê Phước Chi, thành lập Hội Phật giáo Tương tế, ở Sóc Trăng.

Hội Lưỡng Xuyên Phật học tại Trà Vinh.
Hội Phật học Kiêm Tế tại Rạch Giá, ra tạp chí Tiến hóa.
Hội Tịnh độ Cư sĩ tại Chợ Lớn của giới cư sĩ, ra tạp chí Pháp Âm.

Tại miền Bắc có hội Bắc Kỳ Phật giáo Cổ Sơn môn.

Các tổ chức đầu tiên đã quy tụ được rất nhiều bậc cao tăng – nhân sĩ như: Trần Trọng Kim, Thiều Chửu, Bùi Ky. Một số tạp chí khác cũng xuất bản như: Pháp Âm, Quan Âm, Tam Bảo, Tiếng chuông sớm, Duy tâm, Tiến hóa. Giai đoạn 1945 – 1954.

Tại miền Bắc:
Năm 1949, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đổi thành Hội Tăng Ni Chỉnh lý Bắc Việt do thiền sư Tố Liên làm Hội trưởng; đến năm 1950 đổi thành Hội Phật giáo Tăng già Bắc Việt, tôn thiền sư Thích Mật Ứng làm Thiền gia Pháp chủ, ra tờ báo Phương tiện Thiện sĩ Bùi Thiện Cơ, thành lập Hội Việt Nam Phật giáo tại chùa Quán Sú.

Tại miền Trung:
Sơn Môn Tăng già Trung Việt được thành lập tại chùa Thừa Thiên, do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Tùng lâm Pháp chủ.

Hội An Nam Phật học đổi thành Hội Việt Nam Phật học, do cư sĩ Lê Văn Định làm hội trưởng.

Tại miền Nam:
Năm 1951, Giáo hội Tăng già Nam Việt được thành lập, trụ sở tại chùa Ấn Quang, do Hòa thượng Đạt Thanh làm Pháp chủ và Hòa thượng Đạt Từ làm Trị sự truong.

Năm 1951, Hội Phật học Nam Việt được thành lập, Hội trưởng là cư sĩ Nguyễn Văn Khỏe, trụ sở đầu tiên tại chùa Khánh Hưng, sau xây chùa Xá Lợi làm trụ sở Tháng 5 năm 1951, Đại hội Phật giáo toàn quốc họp tại chùa Từ Đàm – Huế, để thảo luận về tương lai Đạo pháp. Đại hội gồm trên 50 đại biểu Tăng già và Cư sĩ của 6 tập đoàn Phật giáo:

Giáo hội Tăng Già Bắc Việt.
Giáo hội Tăng Già Trung Việt. Giáo hội Tăng Già Nam Việt. Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt. Hội Phật giáo Trung Việt.
Hội Phật học Nam Việt.

Của ba miền đã quyết nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam với danh hiệu Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, tôn thỉnh Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đảm vị ngôi hội chủ.

Ngoài ra còn một số tổ chức như: Phật học đường Báo Quốc do Hòa thượng Thích Trí Thủ đứng đầu; Phật học đường Nam Việt quy tụ của 4 Phật học đường lớn nhất khi đó.

Năm 1951, 6 tổ chức ba miền họp tại Huế thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức thống nhất, do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội trưởng, chức Thượng Thủ và Giám luật luân chuyển giữa các miền. Đức Đệ nhất Thượng thủ là Hòa thượng Thích Tuệ Tạng ở miền Bắc.

Bên ngoài Tổng hội Phật giáo Việt Nam, còn có những tổ chức Phật giáo khác hoạt động.

Giai đoạn 1954 – 1975
Năm 1958, các tổ chức của Tổng hội tại miền Bắc thống nhất lại thành Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, tôn Hòa thượng Thích Trí Độ làm Hội trưởng, Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm Phó hội trưởng.

Sau biến cố 1963, năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập tại miền Nam, nòng cốt chính là từ các tổ chức thuộc Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Trích dẫn từ nguồn: https://vi.wikipedia.org/…/Ch%E1%BA%A5n_h%C6%B0ng_Ph%E1%BA%…

Gia Đình Phật Tử Việt Nam:
Năm 1938, tại Huế, Ban Quản trị Hội An Nam Phật học, gồm có: Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Toàn, Bửu Bác, Lê Thanh Cảnh, Trợ Dư, Tôn Thất Tùng, nhận thấy hội đủ điều kiện thuận lợi hình thành tổ chức Ban Đồng Ấu Phật giáo, tại chùa Từ Đàm, do HTr Bửu Bác trực tiếp phụ trách.

Hướng dẫn – phát triển tại các địa phương gồm có: Các Nữ HTr: Công Huyền Tôn Nữ Hà và Hân (con ông Ngũ đợi Nguyễn Phúc Vĩnh Trân).

Các Nữ HTr: Mẫn chị, Mẫn em và ông Lê Đình Luân (con của Bác sĩ Lê Đình Thám).

Các Nam HTr Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Hữu Huỳnh, Bửu Cang, Bửu Phê, Tôn Thất Ngoạn, Tôn Thất Túy, Tôn Thất Phú, Tráng Thông (con Kỳ Ngoại Hầu Cường Để), Lê Lừng, Lê Bối, Nguyễn Hữu Viện V.v…

Năm 1940, Bác sĩ Tâm Minh LÊ ĐÌNH THÁM, thành lập Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục Ban quản trị gồm có: Đinh Văn Nam (là Hòa thượng Thích Minh Châu), Võ Đình Cường, Phạm Quy, Lê Bối, Ngô Điền, Đinh Văn Vinh, Nguyễn Hữu Quán, Lê Đình Luân, Lê Lừng v.v…

Năm 1944, tại Huế, các đơn vị Thanh niên Phật học, Hướng đạo Phật giáo và Đồng ấu Phật học họp tại đồi Quảng Tế nhân Lễ Phật đản, và cùng nhau thành lập Gia đình Phật Hóa Phổ

Năm 1951, tại chùa Từ Đàm, Huế, nhân cuộc đại hội Gia đình Phật Hóa Phổ với sự hiện diện của các đại biểu từ Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Lâm Viên, Bình Thuận và Đồng Nai, ban tổ chức đồng tình đổi danh xưng Gia đình Phật Hóa Phổ thành Gia đình Phật tử Việt Nam, với sự canh tân về cơ cấu tổ chức điều hành và các hình thức sinh hoạt.

Trích dẫn từ nguồn: https://vi.wikipedia.org/…/Gia %C4%91%C3%ACn h Ph%E1%BA%ADt

Giai đoạn 1975 – 1995:
– Anh Võ Đình Cường từ nhiệm.
– Một số áo lam phát triển ra hải ngoại
– Hội đồng huynh trưởng cao niên thành lập (đây là sự quyền biến: tùy duyên sinh hoạt trước chướng duyên)

Thành tựu các Phật sự quan trọng:
Năm 1980: đại trai đàn chẩn tế GĐPT Gia Định, tổ chức tại Quảng Hương Già Lam, đây là dịp để các nơi phục hoạt.
Năm 1987: liên trại Lộc Uyển – A Dục – Huyền Trang – Vạn Hạnh 2 được tổ chức tại Quảng Hương Già Lam với 400 trại sinh.
Năm 1990: trại Vạn Hạnh 3, 4 được tổ chức tại miền Liễu Quán và Vạn Hạnh.
Xây dựng GĐPT tại các khu kinh tế mới.

Giai đoạn 1995 – đến nay:
Ngày 19/2/1995: tại trại trường Đà Lạt, hội nghị huynh trưởng cấp Dũng, cấp Tấn toàn quốc để kiện toàn nhân sự BHD TW GĐPT Việt Nam và đã công cử anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu làm Quyền Trưởng Ban.

Tổ chức phong trào về nguồn, khôi phục hình thức GĐPT, chọn ngày giổ bác Tâm Minh làm ngày hiệp kỵ (07/03 AL).

Năm 1998, tại Quảng Hương Già Lam, hội nghị huynh trưởng cấp Dũng, cấp Tấn toàn quốc được mở ra. Đã quyết định các chức danh không còn chữ “quyền”, chuẩn bị tổ chức đại hội huynh trưởng toàn quốc.

Năm 2000, 2002 tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam Hội nghị HTr Cấp Dũng – Cấp Tấn toàn quốc được tiến hành nhằm tổng kết hoạt động Phật sự và vạch chương trình sinh hoạt, san định tài liệu tu học, thiết lập dự án tổ chức ĐH HT toàn quốc, kiện toàn nhân sự, Anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu được tín nhiệm trong vai trò Trưởng Ban.

Năm 2004, tại Chùa Viên Thông, đại hội huynh trưởng GĐPT toàn quốc thu hẹp được tổ chức với thành quả:

Công cử anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu làm Trưởng ban.
Ban hành các văn bản dưới Nội Quy.
Tu chỉnh chương trình tu học và huấn luyện.
Trong giai đoạn này, GĐPT vẫn tổ chức trại Vạn Hạnh 5, 6 và các hội thảo chuyên đề.

Năm 2006, tại Như Thị Thất Hội nghị HT Cấp Dũng – Cấp Tấn toàn quốc được tiến hành nhằm xác định lập trường lý tưởng của tổ chức GĐPT. Việt Nam.

Năm 2008, tại Chùa Pháp Vân Hội thảo Trần Nhân Tông lần 1 được tiến hành, và đã thống nhất lưu nhiệm thành phần BHD. Trung Ương do Anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu làm Trưởng Ban.

Trong giai đoạn này, các trại huấn luyện được tổ chức với quy mô lớn cả về chất lượng và số lượng như: các trại Vạn Hạnh 5, 6, trại Huyền Trang 4 Trung Ương, trại Phú Lâu Na 1, 2, 3 các hội thảo chuyên ngành được tổ chức như: Ngành Đồng – Ngành Thiếu – Ngành Thanh – Ngành Nữ – Nghiên Huấn – Nội Vụ – Tổng Thư Ký và tổ chức chúng ta phát triển rộng về các tỉnh miền Tây Nam phần.

Năm 2004, đánh dấu sự phát triển của tổ chức thông qua Đại hội gia đình Phật tử VN trên toàn thế giới tại Ấn Độ.

Năm 2008, Đại hội Huynh Trưởng GĐPT. Việt Nam trên toàn Thế giới kỳ 2 được tổ chức tại Thái Lan, Đại hội Quy tụ 54 Đại biểu trên toàn Thế giới đại diện cho GĐPT các Quốc gia, Châu Lục. Đại hội đã: Tổng kết công tác Phật sự trong NK 1 và vạch kế hoạch Phật sự nhiệm kỳ 2. Xây dựng cương yếu tổ chức và điều hành. Bầu BHD. GĐPT. VN trên Thế giới do Anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu làm Trưởng ban.

Năm 2010, chúng ta đã tổ chức thành tựu Hội thảo Huynh trưởng cấp Tín toàn quốc để xây dựng lực lượng kế thừa.

Dù trong hoàn cảnh nhiều chông gai và thử thách, nhiều chướng duyên, nhưng tổ chức áo lam GĐPT. Việt Nam vẫn luôn nỗ lực tu học và thực hiện Phật sự, trong những năm 2000 – 2009, chúng ta đã thực hiện các Phật sự như:

  • Xây dựng và tu chỉnh tài liệu tu học Huấn luyện.
  • Các trại trường Huấn luyện Huynh trưởng – Đoàn sinh các cấp được tổ chức trên khắp các Tỉnh/Thị.
  • Tu học trường kỳ của Huynh trưởng – Đoàn sinh được thực hiện nề nếp, ổn định, thống nhất chung.
  • Tổ chức các sinh hoạt truyền thống Dũng – Hiếu – Hạnh – Hiệp Kỵ. . . với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
  • Thực hiện các Hội thảo chuyên ngành. Hội thảo cho Đoàn sinh như: Oanh – Thanh – Thiếu thông qua các mô hình hội thảo – hội thi.
  • Đặc biệt các tờ báo lam được đầu tư công phu tại các Tỉnh, các Đơn vị Gia đình với 02 hình thức là báo tập và trang báo điện tử.
  • Thực hiện bản tin sen trắng.
  • Xây dựng trang nhà www.gdptthegioi.org

70 năm là chiều dài lịch sử, thế hệ chúng ta hôm nay phải tiếp nối dấn thân để duy trì mạng mạch nhà lam Tâm thành tri ân Chư vị tiền nhân, chư vị Ân sư, chư Thánh tử đạo đã tài bồi cho tổ chức hôm nay.

Hãy tâm nguyện tri ân bằng tinh thần: “Dù bao nhiêu gian khổ, dù gặp nhiều nguy khó lý tưởng chúng con vẫn tôn thờ”.

Trích dẫn từ nguồn: http://gdptductam.org/luoc-su-hinh-thanh-va-phat-trien-gdp…/

Năm 2012
Cung thỉnh BẢN THỆ TĂNG GIÀ.

BẢN QUY NGUYỆN CỦA HỘI ĐỒNG CỐ VẤN GIÁO HẠNH GĐPT VIỆT NAM.
PHÁP NGỮ

Bản Thệ Tăng Già, lập nguyện của các đệ tử xuất gia của Phật, cùng hòa hiệp trongbản thể thanh tịnh của Ba- la-đề-mộc-xoa, tuyên dương Chánh pháp, lợi lạc quần sanh; hy cầu Phật pháp trường tồn, làm y chỉ cho nhân thiên tu tập, hướng đến cứu cánh giải thoát và giác ngộ.

Tăng già Việt Nam trong trường thiên lịch sử dựng nước đã không tách rời sự tu tập bản thân với sự tồn vong của dân tộc, tự nhận trách nhiệm giáo dục, bồi dưỡng các thế hệ Phật tử bằng tinh thần Bỉ – Trí – Dũng, vượt qua những chướng duyên thể hiện các giá trị nhân sinh từ Chánh Pháp trong lòng xã hội.

Gia Đình Phật Tử Việt Nam, môi trường sinh hoạt cộng đồng của các thế hệ Phật tử Việt nam, với gần 70 năm tồn tại và phát triển, qua những thời kỳ an nguy của lịch sử, đã cống hiến xứng đáng thân và tâm trong dòng suy thịnh của đất nước. Tuy nhiên, thuận và nghịch, hòa hợp và phân ly, là qui luật tất nhiên của phát triển xã hội. Quy luật ấy không ngừng tác động vào sinh hoạt của các thế hệ GĐPTVN mỗi thời kỳ bằng những sắc thái cá biệt. Người Phật tử do thiếu tu tâm lập nguyện, dưới tác động của tham cầu và khiếp nhược, bị lôi cuốn bởi danh vị và lợi dưỡng, dễ dàng tự biến chất, trở thành người mất hướng, tự đánh mất phẩm giá cao quý của tín tâm thanh tịnh.

Vậy, Tăng già cần phải phát dương bản thể thành tịnh và hòa hiệp để làm sở y và định hướng sinh hoạt, tu tập, cho mỗi Huynh trưởng, Đoàn sinh, tích cực thực hành Bồ tát đạo, hóa thân vào trong các cộng đồng tuổi trẻ, vận dụng mọi phương tiện thiện xảo để thắp sáng ngọn đèn trí tuệ, cùng các thế hệ thanh niên Việt Nam kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng xã hội hưng thịnh và an lạc.

Bằng nhận thức như vậy, các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni trong Tăng già truyền thống Việt nam, y chỉ giới thân và huệ mạng của các bậc Tôn Trưởng trong Hội Đồng Chứng Minh, đồng lập nguyện hòa hiệp thành một Hội Đồng Cố Vấn BHDTW GĐPT, để tán trợ và chỉ đạo GDPTVN tu học y Chánh Pháp, kế thừa và phát huy phẩm chất cao đẹp của các thế hệ Phật tử Việt Nam.

Để сụ thể hóa các ý tưởng trên thành các nguyên tắc sinh hoạt cập nhật, Bản Quy Nguyện của Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh này gồm có: Pháp ngữ, bảy chương, mười chín điều, bốn mươi mốt khoản.

CHƯƠNG I: Pháp Hiệu – Danh Xưng – Mục Đích. Điều 1: Pháp hiệu – Bản Thệ Tăng Già là Chúng hòa hiệp những vị đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn, cùng hòa hiệp trong bản thể thanh tịnh, lập nguyện tuyên dương Chánh pháp, lợi lạc muôn loài, không bị giới hạn bởi thời – không. Bản Thệ Tăng Già là pháp hiệu của Bản Quy Nguyện này.

Điều 2: Danh xưng – Hội đồng Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Việt Nam là những vị Tỷ kheo, Tỷ kheo ni có hạnh nguyện tuyên dương Chánh pháp, giảng dạy giáo lý và hướng dẫn tutập cho GĐPT, đã được Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT cung thỉnh làm cố vấn giáo hạnh. Viết tắt HĐCVGHGĐPTVN.

Điều 3: Mục đích.
Cố vấn BHDTW Gia Đình Phật Tử Việt Nam tu học đúng Chánh Pháp, đúng với Mục Đích của Tổ chức Gia đình phật tử.

  • Phát triển tổ chức GĐPT không những ở quốc nội mà trên cả thế giới, đáp ứng được những nhu cầu đạo đức, tín ngưỡng tâm linh và học Phật cho thế hệ trẻ trong thời đại văn minh tin học hiện nay.
  • Chỉ đạo Ban cố vấn giáo lý tu chỉnh và biên soạn chương trình giáo lý có thể đáp ứng được nhu cầu tu học và phát triển GĐPT hiện nay tại quốc nội và toàn cầu.
  • Cố vấn BHDTWGĐPT tổ chức các cuộc hội thảo liên hệ đến GĐPT với cấp quốc gia và quốc tế.

Hướng dẫn, phê duyệt và chứng minh các đề tài luận văn Cấp Dũng do BHDTWGĐPT đệ trình. Chương II: Thành Viên.

Điều 4: Tất cả quý vị Tăng Ni đã và đang giảng dạy, bảo trợ cho GĐPT Việt Nam các Cấp đều là thành viên chính thức của HĐCVGHGĐPTVN.

Điều 5: Thành viên HĐCVGH do BHDTWGĐPT cung thỉnh hay giới thiệu và được Ban Thường Trực HĐCVGH thông qua.

Điều 6: Thành viên HĐCVGH Ban Hướng Dẫn Trung Ương tối thiểu là mười lăm vị Tăng sĩ.

Chương III: Tổ Chức.
Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Việt nam gồm có:

HĐCVGHTW – Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành.

Điều 7: Ban Thường Trực HĐCVGHTW gồm: Trưởng ban.
Hai phó ban: Một vị đặc trách nội vụ và một vị đặc trách ngoại vụ.
Tổng thư ký.
Hai vị phó Tổng thư ký;
Tiểu ban giám kiểm;
Tiểu ban đặc trách hướng dẫn tu học và các phụ tá;
Tiểu ban đặc trách biên khảo giáo lý và các phụ tá; Tiểu ban nghiên cứu, phát triển và các phụ tá; Tiểu ban an sinh và các phụ tá;
Tiểu ban đặc trách các Miền, Tỉnh và Thành.

Điều 8: Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành gồm:
Trưởng Ban.
Một phó ban.
Một thư ký.
Ủy viên kiểm soát.

Điều 9: Ban Thường Trực Hội Đồng Cố Vấn do Hội Đồng cố vấn giáo hạnh Trung Ương GDPTVN thỉnh cử qua yết ma và được Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh (HĐTGCM) phê duyệt.

Điều 10: Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành do Ban Hướng Dẫn tỉnh hay TW giới thiệu, Ban Thường Trực Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh nghiên cứu và thay mặt HĐCVGH thỉnh cử.

Chương IV: Chức năng – Nhiệm vụ.
Điều 11: Chức năng và nhiệm vụ của Ban Thường Trực HĐCVGH.

Chịu trách nhiệm tinh thần trực tiếp trước HDTGCM.

Thay mặt Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh và Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh thường xuyên Cố Vấn cho BHDTW để:

Chứng minh giảng dạy giáo lý, thọ cấp, hướng dẫn đời sống đạo đức tâm linh và chứng minh lễ phát nguyện trong các trại huấn luyện cho GĐPTĐôn đốc theo dõi các sinh hoạt của GĐPT.

Nhận lời thỉnh cầu giảng dạy và hướng dẫn các khóa tu học cho GĐPT.

Tổ chức Lễ thọ giới Bồ tát, Thập thiện và Tác pháp sám hối cho các Huynh trưởng phạm giới.

Trong những hoàn cảnh khó khăn cần phải định hướng và làm nơi nương tựa cho GĐPTVN đi đúng chánh pháp.

Cố vấn cho HĐTGCM phê duyệt danh sách cấp Dũng do BHDTW đệ trình.

• Hỗ trợ và hướng dẫn BHDTW thực hiện đúng Nội Quy, Quy Chế GĐPTVN và những phật sự bất thường quan trọng khác.

HĐCVGH và Ban Thường Trực hoạt động trong phạm vi có liên quan đến sự tu học của GĐPT tại quốc nội và có phối hợp với HĐCVGHGĐPT Hải Ngoại, khi có những phật sự liên quan và cần thiết.

Điều 12: Chức năng và nhiệm vụ của Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành.

  • Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành do Ban Hướng Dẫn tỉnh hay Trung Ương giới thiệu và Ban Thường Trực HĐCVGH nghiên cứu và cung thỉnh trực tiếp hoặc bằng văn thư.
  • Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành chịu trách nhiệm trực tiếp với Ban Thường Trực HĐCVGH và chịu trách nhiệm gián tiếp với HĐTGCM về các vấn đề phật sự liên hệ đến tổ chức GĐPT Miền, Tỉnh, Thành.
  • Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành cùng với BHD Miền, Tỉnh, Thành chịu trách nhiệmthịnh suy của GĐPT ở trong Miền, Tỉnh, Thành trước Tam Bảo, trước HĐTGCM và trước Ban Thường Trực HĐCVGH.
  • Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành có trách nhiệm giảng dạy giáo lý, chứng minh và hỗ trợ cho Ban Hướng Dẫn Miền, Tỉnh, Thành thực hiện các trại huấn luyện đúng Nội quy, Quy chế của GĐPT và các khóa tu học, bồi dưỡng do Ban Hướng Dẫn Miền, Tỉnh, Thành thỉnh cầu.

Chương V: Nhiệm Kỳ Và Tâp Hội.
Điều 13: Ban Thường Trực HĐCVGHGĐPT. Nhiệm kỳ của Ban Thường Trực là bốn năm. Trong nhiệm kỳ, nếu vị Trưởng ban có chướng duyên, vị phó ban sẽ thay thế để điều hành phật sự cho đến hết nhiệm kỳ.

• Trong nhiệm kỳ, nếu các thành viên của Ban thường trực có những chướng duyên, vị Trưởng ban trình lên HĐTGCM để ủy cử bổ sung.

Điều 14: Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành Nhiệm kỳ của Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành là bốn năm.

• Các thành viên Ban Cố Vấn, nếu có chướng duyên, thì Ban Thường Trực HĐCVGH sẽ cứu xét tình hình thực tế, để thỉnh cử những thành viên khác bổ sung.

Điều 15: Trú xứ và Tập hội
Bất cứ Tăng già lam nào thuận lợi cho các Tăng sự đều có thể trở thành trú xứ tập hội của

BTTHĐCVGH và HĐCVGHGĐPTVN.

  • Cứ ba tháng một lần, BHDTWGĐPT báo cáo với Ban Thường Trực HĐCVGHGĐPT về sinh hoạt của GĐPT và đồng thời xin những chỉ đạo.
  • Cứ sáu tháng một lần, Ban Thường Trực cung thỉnh các thành viễn trong HĐCVGH tập hội để báo cáo tình hình phật sự trong sáu tháng qua và góp ý điều hành những phật sự trong sáu tháng tới.
  • Cứ một năm một lần, Ban Thường Trực HĐCVGH cung thỉnh các thành viên trong HĐTGCM tập hội một lần, để trình bày các phật sự, chứng minh những phật sự năm qua, thỉnh cầu chỉ đạo và chứng minh cho những dự kiến phật sự năm tới.

Chương VI: Pháp Thể.

Điều 16: Pháp thể của Ban Thường Trực Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh là do HĐCVGH tác pháp yết- ma ủy cử và được HĐTGCM phê duyệt.
Điều 17: Pháp thể của Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành là do Ban Thường Trực HĐCVGH thỉnh cử đúng với Quy nguyện.

Chương VII: Tu Chỉnh.

Điều 18: Những chương và các điều khoản trong Bản Quy Nguyện nầy đã được Hòa Thượng Thượng Thủ thay mặt HĐTGCM và Ban Thường Trực HĐCVGHGĐPT thông qua trong buổi Tập hội tại chùa An Linh, TP Hồ Chí Minh vào ngày 24 tháng 5 năm 2012.
Điều 19: Trong Bản Quy Nguyện nầy sau một thời gian ban hành, nếu có những điều khoản nào chưa thể khả thi, thì có thể tu chỉnh trong thời gian Tập hội của HĐCVGH hay HĐTGCM, do Ban Thường Trực HĐCVGH nghiên cứu và thỉnh nghị.

Bản Quy Nguyện nầy có mở đầu là Pháp ngữ, bảy chương, 19 điều, 41 khoản đã được thông qua trong kỳ Tập hội do Hòa Thượng Thích Đức Chơn, Thượng Thủ thay mặt HĐTGCM chủ tọa và Ban Thường Trực HĐCVGH Gia Đình Phật Tử Việt Nam thông qua, ngày 24 tháng 5 năm 2012, tại chùa An Linh, TP Hồ Chí Minh.

Bản Quy Nguyện nầy được áp dụng kể từ ngày ký. PL 2556 – ngày 28 tháng 6 năm 2012

TM HỘI ĐÔNG TĂNG GIÀ CHỨNG MINH (Đã ấn – ký)
HT THÍCH ĐỨC CHƠN

Cung thỉnh Hội đồng Chứng minh GĐPTVN:

1. Hòa thượng THÍCH ĐỨC CHƠN Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
2. Hòa thượng THÍCH MINH CHIẾU Chùa Phật Ân – Long thành, Tỉnh Đồng Nai.
3. Hòa thượng THÍCH TUỆ SỸ Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
4. Hòa thượng THÍCH MINH KIẾN Chùa Phật Ân – Long thành, Tỉnh Đồng Nai.
5. Hòa thượng THÍCH LƯƠNG PHƯƠNG Chùa Phước Duyên – TP Huế.
6. Hòa thượng THÍCH ĐỒNG TU Chùa Vạn Đức tỉnh Khánh Hòa.
7. Hòa thượng THÍCH LƯU THANH Chùa Trúc Lâm – TP Huế.
8. Hòa thượng THÍCH KIẾN TÁNH Chùa Bửu Lâm – Long thành, Tỉnh Đồng Nai.
9. Hòa thượng THÍCH HẠNH HẢI Chùa Viên Thông – TP HCM.
10. Hòa thượng THÍCH PHƯỚC AN Chùa Hải Đức – TP Nha Trang.
11. Hòa thượng THÍCH PHƯỚC TRÍ Chùa Vạn Phước – TP Sài Gòn.
12. Hòa thượng THÍCH GIẢI QUẢNG Chùa Quảng Hiệp – Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Tổng cộng có 12 vị Hòa thượng trong HĐTGCM

BAN CHẤP SỰ HỘI ĐỒNG TĂNG GIÀ CHỨNG MINH
Thượng thủ : HT THÍCH ĐỨC CHƠN
Đệ nhất Phó Thượng thủ : HT THÍCH MINH CHIẾU
Đệ nhị Phó Thượng thủ : HT THÍCH TUỆ SỸ
Chánh thư ký : HT THÍCH TUỆ SỸ (kiêm)
Giám luật : HT THÍCH KIẾN TÁNH

Phật lịch: 1556 – TP Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 08 năm 2012
Thượng Thủ (Đã ấn – ký)
Hòa Thượng THÍCH ĐỨC CHƠN

Cung thỉnh Hội đồng Hội đồng Cố vấn Giáo hạnh GDPTVN:

Căn cứ tinh thần và nội dung buổi lễ Cung thỉnh Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh và Công bố Danh sách Ban Thường Trực HĐCVGH được long trọng tổ chức tại Tu viện Quảng Đức, quận Thủ Đức, TP Sài Gòn lúc 14g30 ngày 22/3/2012, và phiên họp của HĐCVGHGĐPTVN tại chùa An Linh, quận 12 TP Sài Gòn lúc 08g30 ngày 24/5/2012 dưới sự chứng minh của HT Thích Đức Chơn – Thượng thủ HĐTGCM (Buổi họp có sự tham dự của BHDTW- GĐPTVN và ĐH Bạch Hoa Mai đại diện

BHDGDDPTVN TTG). Mục đích soạn thảo Bản Quy Nguyện và Cung cử thành phần nhân sự Ban Thường Trực HĐCVGH

Quyết định cung cử thành phần nhân sự Ban Thường Trực HĐCVGHTW như sau :

1. Trưởng Ban : Hòa Thượng Thích Thanh Huyền
2. Phó Ban Nội Vụ : Hòa Thượng Thích Đức Thắng
3. Phó Ban Ngoại vụ : Hòa Thượng Thích Minh Tâm
4. Tổng Thư Ký : TT Thích Thái Hòa
5. Phó tổng Thư Ký : TT Thích Hải Tạng
6. Phó tổng Thư Ký : TT Thích Nhuận Châu

Tiểu ban giám kiểm:
1. HT Thích Chơn Trí
2. HT Thích Minh Nghĩa
3. HT Thích Thiện Dương

Tiểu ban đặc trách biên khảo giáo lý, tài liệu Tu học GĐPT Việt Nam:

1. HT Thích Đức Thắng
2. TT Thích Thái Hòa
3. TT Thích Nhuận Châu

Tiểu ban đặc trách hướng dẫn tu học:

1. HT Thích Minh Tâm 2. TT Thích Hải Tạng
2. TT Thích Huệ Thành

Tiểu Ban Nghiên cứu và Phát triển GĐPT:

1. TT Thích Thông Phổ

Tiểu ban đặc trách các Miền, Tỉnh và Thành:

1. TT Thích Nguyên Hiền
2. TT Thích Khế Đạo

Tiểu Ban An sinh:

1. TT Thích Chơn Thức
2. NS Thích Nữ Như Tường
3. NS Thích nữ Như Thiện

Tổng cộng có 14 tỷ kheo tăng và 02 tỷ kheo ni trong Ban Thường Trực HĐCVGH.

Phật lịch: 1556 – TP Sài Gòn, ngày 13 tháng 06 năm 2012
Thượng Thủ (Đã ấn – ký)
Hòa Thượng THÍCH ĐỨC CHƠN

Năm 2016, cung thỉnh Chư Tôn Đức Lưỡng Viện:
BẢN THỆ TĂNG GIÀ
HỘI ĐỒNG TĂNG GIÀ CHỨNG MINH

1. Hòa thượng THÍCH ĐỨC CHƠN Tu viện Quảng Hương Già lam – TP Sài Gòn.
2. Hòa thượng THÍCH MINH CHIẾU Chùa Phật Ân – Long Thành – Đồng Nai.
3. Hòa thượng THÍCH TUỆ SĨ Chùa Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
4. Hòa Thượng THÍCH LƯƠNG PHƯƠNG Chùa Phước Duyên – TP.Huế
5. Hòa thượng THÍCH ĐỒNG TU Chùa Vạn Đức – Tỉnh Khánh Hòa
6. Hòa thượng THÍCH ĐỒNG TÂM Chùa Linh Sơn – Phan Rang – Ninh Thuận
7. Hòa Thượng TỊNH NGHIÊM Chùa Vạn Hạnh P.Cam Thuận – TP.Cam Ranh
8. Hòa thượng THÍCH PHƯỚC TRÍ Chùa Vạn Phước – Chùa Pháp Vân – TP Sài Gòn
9. Hòa thượng THÍCH PHƯỚC AN Chùa Hải Đức — TP.Nha Trang
10. Hòa thượng THÍCH LƯU THANH Chùa Trúc Lâm – TP.Huế
11. Hòa thượng THÍCH KIẾN TÁNH Chùa Bửu Lâm -Long Thành – Đồng Nai
12. Hòa thượng THÍCH GIẢI QUẢNG Chùa Quảng Hiệp – Long Thành – Đồng Nai
13. Hòa thượng THÍCH HUỆ TÂM Chùa Bảo Sơn – Đồng Nai

BAN CHẤP SỰ HỘI ĐỒNG TĂNG GIÀ CHỨNG MINH

1. Thượng thủ: HT THÍCH ĐỨC CHƠN
2. Đệ nhất Phó Thượng thủ: HT THÍCH MINH CHIẾU
3. Đệ nhị Phó Thượng thủ: HT THÍCH TUỆ SĨ
4. Chánh thư ký: HT THÍCH TUỆ SĨ (kiêm)
5. Giám luật: HT THÍCH KIẾN TÁNH

Phật lịch: 2560 – TP Sài Gòn, ngày 16 tháng 07 năm 2016
Thượng Thủ (Đã ấn – ký)
Hòa Thượng THÍCH ĐỨC CHƠN

DANH SÁCH THÀNH VIÊN
BAN THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG CỐ VẤN GIÁO HẠNH. GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM

(Quốc nội Nhiệm kỳ 2016 – 2020).

1. Hòa thượng THÍCH THANH HUYỀN Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
2. Hòa thượng THÍCH ĐỨC THẮNG Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
3. Hòa thượng THÍCH MINH TÂM Chùa Phật Ân – Long thành, Tỉnh Đồng Nai.
4. Hòa thượng THÍCH CHƠN TRÍ Chùa Thiền Lâm TP Huế.
5. Hòa thượng THÍCH THIỆN DƯƠNG Chùa Linh Sơn – Vạn ninh, Khánh hòa
6. Hòa Thượng THÍCH MINH NGHĨA Tu viện Toàn Giác – Tỉnh Đồng nai.
7. Hòa thượng THÍCH MINH BẢO Bà rịa Vũng Tàu.
8. Hòa thượng THÍCH THÁI HÒA Chùa Phước Duyên – TP Huế.
9. Thượng tọa THÍCH HẢI TẠNG Chùa Long An – Tỉnh Quảng trị.
10. Thượng tọa THÍCH HUỆ THÀNH Chùa An Linh – Quận 12, TP Sài Gòn.
11. Thượng tọa THÍCH NHUẬN CHÂU Tịnh thất Từ Nghiêm – Tỉnh Bà rịa Vũng Tàu.
12. 12.Thượng tọa THÍCH THÔNG PHỔ Chùa Tuệ Quang – TP Sài Gòn.
13. Thượng tọa THÍCH CHƠN THỨC Tu viện Quảng Đức – quận Thủ đức, TP Sài Gòn.
14. Thượng tọa THÍCH NHUẬN QUANG Chùa Nguyên Ngộ – Quận 12, TP Sài Gòn.
15. Thượng tọa THÍCH NGUYÊN HIỀN Tu viện Vĩnh Minh – Tỉnh Lâm Đồng.
16. Thượng tọa THÍCH KHẾ ĐẠO Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
17. Thượng tọa THÍCH HẠNH NGUYỆN Chùa Tân Chánh, Tỉnh Khánh Hòa.
18. Ni sư Thích nữ NHƯ THIỆN Chùa Viên Quang – Long thành, Đồng Nai.Tiểu ban An sinh.

Quảng Hương Già Lam, ngày 16 tháng 7 năm 2016
Trưởng BTT HĐCVGH (Đã ấn ký)
Sa môn THÍCH THANH HUYỀN

Hiện nay 2 Hội Đồng được tôn danh:
1. Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh GĐPTVN: Hội Đông Tăng Già Bản Thệ.
2. Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh GĐPTVN: Hội Đồng Giáo Giới GĐPTVN.

Thời kỳ khó khăn trong nước và phát triển ở nước ngoài:
a) Ở trong nước:

Tháng 4 năm 1975, Cộng sản chiếm miền Nam, không có tổ chức ngoại vi nào của Ðảng được phép hoạt động. Phật giáo bị kềm chế, Gia Ðình Phật Tử không được chính thức hoạt động, nhiều Huynh Trưởng bị tù đày, trong những năm đầu Gia Ðình Phật Tử sinh hoạt không được 5% so với trước 1975, tuy nhiên nhiều Gia Ðình Phật Tử vẫn kiên trì sinh hoạt, Ban Hướng Dẫn Trung Ương ngưng hoạt động, một Hội Ðồng Huynh Trưởng Cao Niên được hình thành để lãnh đạo tổ chức.

Vào dịp vía Ðức Quán Thế Âm ngày 19-6 Âm Lịch năm 1990, Hội Ðồng Huynh Trưởng Cao Niên (BHDTƯ) dự định mở một kỳ Họp mặt toàn quốc tại chùa Linh Sơn Ðàlạt, nhiều đại biểu đã về dự nhưng vào phút chót không thể họp được, chỉ cử hành lễ Hiệp kỵ mà thôi. Ðến năm 1995, mới có một kỳ họp khác tại Trại Trường GÐPT Việt Nam ở Hồ Than Thở ÐàLạt, đã bầu lại Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Ðình Phật Tử Việt Nam.

Tưởng cũng nên nhắc lại, ngày 22-01-1977: Ðại Hội 7 của GHPGVNTN họp tại chùa Ấn Quang. Ðã bầu:

– Tăng Thống HT. Thích Giác Nhiên. (đương nhiệm)
– Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống: HT. Thích Ðôn Hậu
– Cố Vấn: TT. Thích Thiện Minh
– Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo: HT. Thích Trí Thủ
– Phó Viện Trưởng: TT. Thích Trí Tịnh
– Phó Viện Trưởng: TT. Thích Pháp Tri
– Phó Viện Trưởng: TT. Thích Huyền Quang
– Tổng Thư Ký: TT. Thích Quảng Ðộ…

Ngày 9-02-1977, Viện Hóa Ðạo có văn thư số 031-VHD/VP gửi cho Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng khiếu nại 19 Tăng bị bắt giữ yêu cầu đưa ra xét xử hoặc trả tự do.

Ngày 3-03-1977, Ủy ban Nhân Dân Quận 10 tiếp quản Cơ sở Quách Thị Trang (Cô Nhi Viện Quách Thị Trang nằm sau Viện Hóa Ðạo)

Ngày 6-04-1977, Nhà cầm quyền bao vây chùa Ấn Quang bắt 6 vị lãnh đạo của GHPGVNTN:

1. TT. Huyền Quang, Phó Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo.
2. TT. Quảng Ðộ, Tổng Thư Ký Viện Hóa Ðạo.
3. TT. Thuyền Ấn Tổng vụ trưởng, Tổng vụ Hoằng pháp.
4. ÐÐ. Thích Thông Bửu, Quyền Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ.
5. ÐÐ. Thích Thông Huệ Chánh Ðại Diện GHPGVNTN, Quận Gò Vấp, Trưởng Ban Kinh Tế tự túc Tăng Ni.
6. ÐÐ. Thích Thanh Thế, Trưởng Ban Thanh Tra Ủy Ban Kinh Tế Tự túc Tăng Ni.

Ngày 6- 04-1978, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Cố Vấn Viện Hóa Ðạo bị bắt.

Ngày 17-10-1978, Thượng Tọa Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết trong Nha Công An Thành Phố Hồ Chí Minh, sau đó đưa ra Hàm Tân cho nhìn xác, nhưng không cho nhận xác.

Ngày 26-10-1978, HT. Thích Ðôn Hậu Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống Trụ trì chùa Linh Mụ Huế, gửi thư từ chức Ðại Biểu Quốc Hội và Ủy Viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

Đầu năm 1979, Hòa Thượng Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo, trong cuộc họp Hội Ðồng Viện hàng tuần, Hòa Thượng có đưa ra việc Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố có đến mời Hòa Thượng ra làm việc vận động thống nhất Phật Giáo toàn quốc. Lúc đó có vị trong Hội Ðồng hỏi Hòa Thượng Viện Trưởng rằng:

– Mặt trận mời với tư cách gì ? Hòa thượng nói: 

– Với tư cách gì tôi chưa rõ.” Qua cuộc họp tuần sau, Hòa thượng đưa việc đó ra Hội Ðồng và cho biết là 

– Mặt trận mời tôi với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN. Hòa Thượng Thiện Minh nghe thế liền xin phát biểu: 

– Xin Hòa thượng Viện Trưởng đừng đưa việc đó ra đây làm khó chúng tôi !

Hòa thượng Trí Thủ hỏi lại:

Làm khó cái gì ?. Hòa thượng Thiện Minh thưa:

Nếu Hội Ðồng nầy đồng ý để Hòa thượng làm việc đó với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, tức là đồng ý dẹp bỏ Giáo Hội này sau khi Giáo Hội mới thành lập. Còn nếu không đồng ý, thì có sự khó khăn đến với các vị trong Hội Ðồng và cả Giáo Hội ta nữa. Vậy Hòa thượng nên tự ý lựa chọn và làm với tư cách cá nhân của Hòa thượng mà thôi. Chúng tôi không thể nói nên hay không nên trong việc nầy.” Lúc bấy giờ trong cuộc họp không ai có ý kiến gì khác, coi như mặc nhiên đồng ý với Hòa thượng Thiện Minh đã nói.

Năm 1980, Ban vận động thống nhất Phật giáo ra đời, do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm trưởng ban, TT. Thích Minh Châu làm Tổng Thư Ký.

Từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 11 năm 1981, Đại hội các tổ chức Phật giáo được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Với 165 đại biểu trên toàn quốc, đã thành lập một tổ chức mới, lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là hợp nhất của 9 tổ chức:

– Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam
– Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất
– Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam
– Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam
– Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh
– Giáo hội Thiên thai giáo Quán Tông
– Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam
– Hội đoàn kết Sư sãi Yêu nước Tây Nam Bộ
– Hội Phật học Nam Việt.

Đại hội đã suy tôn Hòa Thượng Thích Đức Nhuận lên ngôi vị Pháp Chủ, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm Chủ tịch Hội Đồng Trị Sự.

Như thế, đương nhiên có 2 Giáo Hội Phật Giáo, một Giáo hội nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam do đảng Cộng sản lãnh đạo và một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, giáo hội nầy không được nhà cầm quyền Cộng sản thừa nhận, nên các vị lãnh đạo như TT. Thích Huyền Quang và TT. Thích Quảng Độ bị đưa đi an trí vị ở Quảng Ngãi, vị ở Thái Bình. Còn những vị khác như TT. Thích Đức Nhuận, ĐĐ Trí Siêu Lê Mạnh Thát, ĐĐ Tuệ Sỹ, ĐĐ Nguyên Giác, Sư Cô Trí Hải và 17 người khác, bị bắt đưa ra tòa kết án chống nhà cầm quyền Cộng sản, họ bị kết án tử hình, chung thân hoặc từ 4 đến 15 năm tù.

Mặc dù vậy, một số đơn vị Gia Đình Phật Tử vẫn sinh hoạt trong những điều kiện rất khó khăn, bởi vì nhà cầm quyền Cộng sản có tổ chức đoàn ngũ hóa thanh thiếu niên Việt Nam dưới tổ chức Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh tuổi từ 16 cho đến 30. Dưới tuổi đó có Đội Thiếu Niên Tiền Phong Hồ Chí Minh, tổ chức từ cấp xã, huyện, tỉnh cho đến trung ương.

Vì các anh Võ Đình Cường cũng như Tống Hồ Cầm không hoạt động GĐPT, mà bước sang lãnh vực văn hóa, báo Giác Ngộ đã có quyết định thành lập, do HT.Thích Minh Nguyệt làm Chủ nhiệm và anh Võ Đình Cường làm Tổng Biên tập, phụ tá có Tống Hồ Cầm. Ngày 1-1-1976 ra mắt Bán Nguyệt San dần dần tiến thành Tuần báo.

Như đã nêu trên, không có Trưởng Ban như rắn mất đầu, Ban Hướng Dẫn Trung Ương không thể hoạt động được, các anh chị có nhiệt tâm mới lập thành Hội Đồng Huynh Trưởng Cao Niên, tạm thay nhiệm vụ cho Ban Hướng Dẫn Trung Ương thời bấy giờ.

Năm 1990, vào dịp Vía đức Quán Thế Âm ngày 19 tháng 6 năm Canh Ngọ nhằm ngày 9-8-1990, do Hội Đồng Huynh Trưởng Cao Niên thông báo, nhiều phái đoàn Huynh Trưởng trên toàn quốc đã tụ họp về chùa Linh Sơn Đà Lạt, để tổ chức Đại Hội Huynh Trưởng Toàn Quốc, bầu lại Ban Hướng Dẫn Trung Ương, nhưng nhà cầm quyền biết, nên không cho tổ chức Đại Hội, nên chỉ làm lễ Hiệp Kỵ Huynh Trưởng GĐPT toàn quốc mà thôi.

Ngày 03, 04-11-1992, đại hội Giáo Hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc lần thứ III diễn ra tại Hà Nội, Hiến chương của 2 kỳ đại hội trước đều không đề cập đến GĐPT, nên trong thời gian ấy, GĐPT Việt Nam không được Giáo hội thừa nhận. Đến đại hội kỳ III, Giáo hội mới nhắc đến trong Hiến chương:

“Về vấn đề GĐPT, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội PGVN có một số nhận định về vấn đề này:

Nguyện vọng giáo dục giáo lý đạo Phật và đạo đức Phật giáo cho nam nữ Phật tử, trong đó kể cà thanh thiếu niên Phật tử là nguyện vọng chính đáng. Cần phải tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện nguyện vọng đó.

Vì thế, Ban Thường trực HĐTS-GHPGVN xác định rõ ràng các cấp lãnh đạo Giáo hội từ Trung ương, Tình Thành hội đến các cơ sở, tự viện đối với Phật sự quan trọng này.”

GĐPT lúc bấy giờ tuy không được chính thức đưa vào Hiến chương nhưng cũng được sinh hoạt theo Ban Hướng dẫn Nam Nữ Cư sĩ Phật tử (HDNNCSPT). Do sinh hoạt trong các chùa theo GHPGVN nên những GĐPT nầy đương nhiên thuộc GHPGVN

Có nhiều nơi sinh hoạt như thường lệ, nhưng theo tính cách nội bộ của những đơn vị cá nhân, sinh hoạt ấy chỉ trong giới hạn của một tỉnh, thành như: mở trại huấn luyện huynh trưởng và trại họp bạn ở các Gia đình trong khu vực dưới sự chứng minh của Ban Trị sự và các vị trong tiểu ban HDNNCSPT có GĐPT sinh hoạt.

Dù hình thức nào đi nữa, tất cả không ra ngoài nguyên lý tùy duyên bất biến, khế lý, khế cơ và khế thời của Phật giáo. Cho nên, mọi sinh hoạt của GĐPT cũng không đi ra ngoài mục đích là “tu tập trở thành Phật tử chân chánh, góp phần phụng sự Đạo pháp và xây dựng xã hội”.

Thượng tọa Thích Đạt Đạo, Chánh Thư ký Ban HDNNCSPT Trung ương GHPGVN phát biểu trong năm 1997 như sau:

Với 500.000 đoàn sinh Phật tử trong toàn quốc, nhiệm vụ trọng tâm của Ban HDNNCSPT là hướng dẫn sinh hoạt tu học cho các giới Nam Nữ Cư sĩ Phật tử, trong đó có GĐPT bao gồm các Thanh Thiếu Nhi. Khi được Hội đồng Trị sự ra quyết định bổ nhiệm thành phần nhân sự Ban HDNNCSPT nhiệm kỳ III, chúng tôi đã phân công phân nhiệm, vạch phương hướng hoạt động ngắn hạn,, dài hạn, dựa trên nhận thức tình hình cụ thể (…) Tuy nhiên, chỉ thời gian đầu, còn thời gian về sau, vì lý do cơ bản, các vị ủy viên đều cư trú rải rác khắp các tỉnh, thành, cho nên hoạt động thiếu đồng bộ, chỉ thu gọn có Thường trực Ban Hướng Dẫn, do vậy chỉ có tính cách điều hành chung, chứ chưa thực hiện công tác gì đáng nêu.

Thành quả của Ban HDNNCSPT nhiệm kỳ I, II và III tóm tắc theo báo Giác Ngộ đăng vào các ngày 29-3-1997 và 27-9-1997 như sau:

Đây là phương hướng của Ban HDNNCSPT Thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng có thể áp dụng phương hướng này cho toàn quốc về GĐPT nhiệm kỳ tới:

1. Từng bước thống kê một cách chính xác số lượng GĐPT và các đoàn sinh toàn thành phố và ra quyết định công nhận
2. Từng bước triển khai chương trình hoạt động của Ban HDNNCSPT
3. Tạo điều kiện mở các lớp NNCSPT sinh hoạt và tu học theo từng giới
4. Tổ chức hội thảo chuyên đề cho các ngành
5. Tổ chức các khóa bồi dưỡng và đào tạo huynh trưởng GĐPT thuộc ngành HDNNCSPT.

…Thiết nghĩ, đối với chư vị tôn túc lớn tuổi đã từng đóng góp nhiều thành tích tốt đẹp cho Đạo pháp và Dân tộc, chúng ta vẫn cần trân trọng, đặt vào vị trí hàng cố vấn chứng minh. Tuy nhiên, nên mạnh dạn và gấp rút trẻ trung hóa hàng ngũ lãnh đạo hay ít nhất là bộ phận thường trực tương đối còn trẻ, có năng lực, có đạo đức. Nêu không, giới Phật giáo chúng ta khó đứng vững, không thể sánh vai cùng xã hội trong thế kỷ tới (…), từ đó, chẳng mấy chốc dẫn đến sinh hoạt Phật giáo không còn thích hợp với con người thời đại mới. Điều đó hoàn toàn đi ngược lại tinh ba Phật dạy: đạo Phật là sự sống luôn vận hành, hiện hữu trên cuộc đời vì hạnh phúc, vì an lạc cho mọi loài.

Có thể nhận định đó là cái nguyên cớ để hợp thức hóa sinh hoạt của tổ chức GĐPT đối với nhà cầm quyền Cộng sản.

Một số đơn vị GĐPT sinh hoạt tại các chùa không theo GHPGVN, vẫn sinh hoạt trong chờ đợi tổ chức phục hoạt, nhưng phải đợi đến năm 1995, tại Trại Trường Hồ Than Thở Đà Lạt, có tổ chức một cuộc họp và Gia Đình Phật Tử đã bầu lại Ban Hướng Dẫn Trung Ương, Huynh Trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu được tín nhiệm bầu vào chức vụ Trưởng Ban. Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam tái sinh hoạt lại từ đó. Nhưng tổ chức nầy không nằm trong hệ thống GHPGVNTN cũng không nằm trong GHPGVN, từ trước cho đến sau nầy vẫn sinh hoạt tại Quảng Hương Già Lam từ thời ĐĐ Thích Tuệ Sỹ làm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, cho đến thời Tăng Đoàn GHPGVNTN ra đời cho đến nay do Huynh Trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu lãnh đạo.

Về phần GHPGVNTN không thừa nhận GĐPT do anh Nguyễn Châu lãnh đạo vì Thỉnh Nguyện Thư của anh Nguyễn Châu gửi cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngày 25-5-1997, trong đó có nội dung chính yếu như sau:

Đệ trình Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỳ IV.

Không một ai trong chúng con lại có ý nghĩ đặt tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam ra ngoài Giáo hội.

Chúng con kính đạo đạt một thỉnh nguyện lên Đại hội Giáo hội là cho phép chúng con được triệu tập một Đại hội Gia Đình Phật tử toàn quốc, đặt dưới sự chứng minh của Giáo hội để tập họp rộng rãi nguyện vọng trung thực của huynh trưởng Gia Đình Phật tử Việt Nam trong việc tu chỉnh sửa đổi Nội Quy. Đó là điều thỉnh cầu duy nhất mà chúng con thấy cần phải đệ đạt lên Đại hội Giáo hội để tránh những ngộ nhận cho rằng chúng con có ý đồ tách rời Giáo hội, chống báng Giáo hội.

Do bức thư trên, nên Ban Tôn giáo Chính phủ chỉ đạo Hòa thượng Thích Minh Châu triệu tập một buổi họp nhằm đưa tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam của GHPGVNTN vào trong Giáo hội nhà nước.

Ngày 24/10/1997, HT đã triệu tập cuộc họp cùng bốn anh Huynh Trưởng cấp Dũng là: anh Võ Đình Cường, anh Tống Hồ Cầm, anh Nguyễn Xuân Quyền và anh Nguyễn Châu để “Tìm cách cho Gia đình Phật tử được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả, phù hợp với tình hình mới của đất nước và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam”.

NỘI DUNG THƯ MỜI CỦA HT THÍCH MINH CHÂU GỞI ĐẾN 4 ANH HUYNH TRƯỞNG CẤP DŨNG:

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 10 năm 1997
Kính gởi:
– Cư sĩ Võ Đình Cường (T/p Hồ Chí Minh)
– Cư sĩ Tống Hồ Cầm (T/p Hồ Chí Minh)
– Cư sĩ Nguyễn Xuân Quyền (T/p Huế)
– Cư sĩ Nguyễn Châu (T/p Đà Lạt)

Thưa quý Anh.
Lâu nay tôi vẫn lưu tâm đến tình hình sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử và được biết những khó khăn trở ngại đã và đang tồn tại trong việc thực hiện các Phật sự quan trọng và bồi dưỡng kiến thức Phật học, rèn luyện kỹ năng sinh hoạt, tác phong đạo đức cho các Thanh Thiếu Niên Phật tử. Tôi cũng được biết ngoài những trở ngại khách quan, trong nội bộ các Huynh trưởng Gia đình Phật tử cũng có nhiều ý kiến chưa được dung hòa.

Tôi nghĩ quý Anh là những người kỳ cựu, nhiều kinh nghiệm, đã có tham gia sáng lập hoặc tham gia tổ chức thực hiện sinh hoạt Gia đình Phật tử, vẫn hằng lo toan tìm cách cho Gia Đình Phật Tử được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả, phù hợp với tình hình mới của đất nước và của Giáo hội. Tự bản thân tôi, tôi cũng luôn ấp ủ ước nguyện đó.

Tôi viết thư này gởi đến quý Anh, mong quý Anh sắp xếp công việc để chúng ta cùng họp mặt thân mật, đóng góp ý kiến xây dựng và thảo bàn để tìm một phương cách, một phương hướng khả dĩ để thực hiện ước nguyện đã nêu.

Tôi hy vọng buổi họp mặt sẽ được diễn ra vào lúc 15 giờ ngày chủ nhật 02/11/1997 tại phòng khách của Thiền viện Vạn Hạnh, 716 Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận, T/p Hồ Chí Minh.

Thân chúc quý Anh thân tâm thường lạc.

Nay thư (đã ký)
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU

Buổi họp này tổ chức vào ngày 29.10.1997 tại Thiền viện Vạn Hạnh, Saigon, gồm có Hòa thượng Thích Minh Châu chủ tọa và bốn anh Huynh Trưởng cấp Dũng, là những Huynh Trưởng cao cấp nhất GĐPTVN lúc đó, gồm có các anh: Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Nguyễn Xuân Quyền, Nguyễn Châu. Mục đích cuộc họp nêu ra là nhằm “tìm cách cho GĐPT được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả phù hợp với tình hình mới của đất nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam”

Thành quả cuộc họp là khẳng định lập trường GĐPTVN là ly khai GHPGVNTN thông qua một Biên bản ký tên 5 người nhất trí về 5 nhận định như sau:

  1. Sinh hoạt GĐPT nhằm đào luyện Thanh, Thiếu, Đồng niên thành những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội. Sinh hoạt này trước đây đã đạt được những thành quả tốt đẹp, nay cần phải được phát huy.
  2. Từ ngày được thành lập, GĐPT luôn luôn sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của một tổ chức Phật giáo được Nhà nước chấp nhận, như Hội An Nam Phật Học, Hội Phật Học Nam Việt, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Nay sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử cần được thức hiện trong khuôn khổ pháp lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
  3. Một số ít điều trong Nội quy và Quy chế Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử cần được tu chính cho phù hợp với Hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
  4. Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPT cần chung sức chung lòng, cùng nhau đẩy mạnh sinh hoạt GĐPT để đóng góp vào sự nghiệp chung của Phật giáo và Đất nước.
  5. Gia Đình Phật Tử cần tranh thủ để được sự quan tâm giúp đỡ cụ thể của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong các sinh hoạt.

NỘI DUNG BIÊN BẢN HỌP MẶT 4 HUYNH TRƯỞNG CẤP DŨNG DƯỚI SỰ CHỨNG MINH CỦA HT THÍCH MINH CHÂU:
BIÊN BẢN
(Về buổi họp mặt của 4 Huynh trưởng cấp Dũng Gia đình Phật tử, dưới sự Chứng minh của Hòa thượng Thích Minh Châu)

Thể theo thư mời của Hòa thượng Thích Minh Châu, một trong những vị sáng lập Gia Đình Phật Tử, bốn Huynh Trưởng cấp Dũng là: VÕ ĐÌNH CƯỜNG, TỐNG HỒ CẦM, NGUYỄN XUÂN QUYỀN, NGUYỄN CHÂU, đã có buổi họp mặt thân mật trong tình gia đình áo Lam, vào lúc 15giờ ngày 29/10/1997 tại Thiền viện Vạn Hạnh, 716 Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận, T/p Hồ Chí Minh, dưới sự Chứng minh của Hòa thượng Thích Minh Châu. Buổi họp có mục đích như trong thư mời của Hòa thượng Thích Minh Châu là: “Tìm cách cho Gia đình Phật tử được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả, phù hợp với tình hình mới của đất nước và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam”!

Sau 2giờ bàn thảo trong tinh thần cởi mở và xây dựng,Hòa thượng và bốn Huynh Trưởng cấp Dũng đã nhất trí về các nhận định sau đây:

  1. Sinh hoạt Gia đình Phật tử nhằm đào luyện Thanh Thiếu Đồng niên thành những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội. Sinh hoạt này, trước đây đã đạt được những thành quả tốt đẹp nay cần phải được tiếp tục phát huy.
  2. Từ ngày được thành lập, Gia đình Phật tử luôn luôn sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của một tổ chức Phật giáo được Nhà nước chấp thuận, như Hội An Nam Phật học, Hội Phật học Nam Việt, Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Nay sinh hoạt của Gia đình Phật tử cần được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
  3. Một số ít điều trong Nội quy và Quy chế Huynh Trưởng của Gia đình Phật tử cần được tu chỉnh cho phù hợp với Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
  4. Huynh Trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử cần chung sức chung lòng cùng nhau đẩy mạnh sinh hoạt Gia đình Phật tử để đóng góp vào sự nghiệp chung của Phật giáo và đấ tnước.
  5. Gia đình Phật tử cần tranh thủ để được sự quan tâm giúp đỡ cụ thể của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong các sinh hoạt.

Làm tại Thiền viện Vạn Hạnh Ngày 29 tháng 10 năm 1997
Đồng ký tên
CHỨNG MINH
Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU (đã ký)

VÕ ĐÌNH CƯỜNG (đã ký)
TỐNG HỒ CẦM (đã ký)
NGUYỄN XUÂN QUYỀN (đã ký)
NGUYỄN CHÂU (đã ký)

Tại đại hội kỳ V Tỉnh Hội Phật Giáo Lâm Đồng, có Tham luận của Thượng tọa Thích Toàn Đức, đại biểu Phật giáo huyện Di Linh như sau:

Vấn đề giáo dục con em Phật tử ươm mầm hạt giống, đào tạo tầng lớp kế thừa, lúc nào cũng được quan tâm đúng mức. Trong xã hội hiện nay, những tệ nạn đang lan tràn trong tầng lớp Thanh Thiếu niên, càng khiến chúng ta gia tâm lo lắng hơn bao giờ hết. Là một tổ chức thường xuyên gắn bó với Giáo hội trong nhiều công tác Phật sự, thì việc duy trì và phát triển GĐPT phải được xem là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Giáo hội chúng ta.

Thượng tọa Thích Đạt Đạo, Chánh Thư ký Ban HDNNCSPT nhận định:

Nam nữ Phật tử là lực lượng hộ pháp quan trọng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (…) Nhiệm kỳ của Ban Hướng dẫn 1992- 1997 hoạch định cho nhiệm kỳ tới như sau:

Thứ nhất, kế hoạch thực chương trình tu học cho các đạo tràng và GĐPT.

Thứ hai, đúc kết các ý kiến đóng góp bổ sung cho Nội quy GĐPT đề Ban HDNNCSPT nhiệm kỳ mới tiếp tục làm việc bằng cách thành lập một bộ phận gồm các huynh trưởng có cấp thâm niên, có kinh nghiệm, để hoàn chỉnh và thông qua các thủ tục cần thiết trước khi trình Hội Đồng Trị Sự phê chuẩn.

Trong một bài đăng trên báo Giác Ngộ ra ngày 20-9-1997, Luật sư Đăng Huy góp ý với Giáo hội:

Bất kỳ tổ chức, đoàn thể nào, cơ sở vững mạnh thì tổ chức mới tồn tại và phát triển. Cơ sở Giáo hội không thể mạnh nếu bỏ quên một thành phần quan trọng là Cư sĩ, và cũng không thể mạnh nếu họ không được tổ chức để được thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức. Giáo hội không thể bỏ quên một thành phần tế bào của mình là Cư sĩ. Giáo hội không thể chỉ có Tăng Ni.

Ngày 22, 23-11-1997, đại hội Giáo Hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc lần thứ IV tổ chức tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt- Xô tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội quy tụ gần 500 đại biểu của 49 đơn vị Tỉnh, Thành Hội Phật Giáo trong cả nước. Theo báo cáo tổng kết của Hội Đồng Trị Sự thì những hoạt động của Ban HDNNCSPT có những bước tiến như sau:

Thực hiện tinh thần tứ chúng đồng tu của người con Phật trong ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, những năm qua, Ban HDNNCSPT Trung ương, Tiểu ban HDNNCSPT các Tỉnh, Thành hội đã triển khai Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ II, đặc biệt là nhiệm kỳ III, với Hiến chương Giáo hội đã được tu chính cũng như chương trình hoạt động và Nội quy của Ban HDNNCSPT Trung ương, các Nghị quyết, Thông bạch 455, 570, 577 của Trung ương Giáo hội về việc củng cố và ổn định sinh hoạt GĐPT dưới sự lãnh đạo chung của Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo.

Được sự chỉ đạo của ngành HDNNCSPT và các Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo, với sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng tại địa phương theo Thông tư 01 của Ban Tôn Giáo Chánh Phủ, tổng kết sơ khởi đã có khoảng 650 đơn vị GĐPT đăng ký với Tỉnh, Thành hội Phật giáo, với 44.407 đoàn sinh và 5.409 huynh trưởng sinh hoạt trong Giáo hội. Đồng thời, chương trình sinh hoạt GĐPT được triển khai có hệ thống như ra quyết định tạm thời công nhận GĐPT, mở các khóa huấn luyện Huynh trưởng, Đội-Chúng trưởng, Đầu-Thứ đàn, trại sinh hoạt hè, trại truyền thống v.v…tại các Tỉnh, Thành hội như: Tp. Hồ Chí Minh, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Đăk-Lăk , Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Bà Rịa-Vũng Tàu, Kiên Giang, Bình Dương, Cà Mau v.v…với hàng chục ngàn đoàn sinh tham dự.

Cũng trong Đại hội nầy, đại biểu Phật Giáo Tp. Đà Nẵng có bài tham luận nói về GĐPT như sau:

GĐPT đã được hình thành tại đất Đà Thành từ trước năm 1950 đến nay đã gần nửa thế kỷ. Trong suốt 50 năm qua, GĐPT đã gắn bó với Giáo hội trong mọi sinh hoạt như: tu học, hoằng dương Phật pháp, công tác xã hội từ thiện, xây dựng các Phật sự văn hóa, lễ lược v.v…

Nói chung, GĐPT đã cung cấp nhiều đoàn viên ưu tú nay trở thành Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni cho Giáo hội trên toàn quốc và đã đào tạo được nhiều cư sĩ tham gia và lãnh đạo các cơ sở Giáo hội phường, xã, Ban Đại diện Quận, Huyện và Ban Trị sự Tỉnh, Thành.

Nhưng, đáng kể nhất là tổ chức GĐPT đã giúp đào tạo bao thế hệ trẻ trở thành người con ngoan trong gia đình, người công dân tốt cho Tổ quốc, người cư sĩ hộ đạo cho Giáo hội hiện nay. Do đó, Ban Trị sự chúng tôi nhận thấy:

Để xây dựng nền thống nhất lãnh đạo của Giáo hội một cách toàn vẹn, Ban Trị sự Phật giáo Thành phố Đà Nẵng trân trọng đề đạt lên Chư Tôn Đức và Đại hội:

  • Về pháp lý: đưa tổ chức GĐPT Việt Nam vào Hiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
  • Về pháp nhân: xác định vị trí của GĐPT trong cơ cấu tổ chức các cấp Giáo hội từ Trung ương xuống các tỉnh như là một ngành hoạt động trong điều 19 và có một Trưởng Ban Hướng dẫn GĐPT như điều 20 của Hiến chương GHPGVN. Vì hiện nay trên toàn quốc có nửa triệu đoàn viên với nề nếp sinh hoạt khá hoàn chỉnh, chương trình tu học giáo dục đặc thù phù hợp với văn minh thời đại Tổ chức Gia Đình Phật Tử đã có mầm mống từ những năm 30 của thế kỷ XX; từ thời kỳ đầu của phong trào Chấn hưng Phật giáo, đã phát sinh, phát triển và tồn tại qua nhiều chế độ chính trị khác nhau. Qua nhiều danh xưng của Giáo hội như An Nam Phật Học Hội (1932-Huế), Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam (1951), Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc (1952), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1964) và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (1981). Trong quá trình đó, GĐPT vẫn nguyên vẹn danh xưng của nó, càng khẳng định được tác dụng giáo dục tầng lớp Phật tử trẻ và thế đứng trong lòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

(…) Từ hai nhiệm kỳ trước, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chưa quan tâm đúng mức đối với sinh hoạt GĐPT, chưa đặt vấn đề về quản lý và tổ chức GĐPT. Cũng có thể chính vì thế mà xảy ra việc một số cựu huynh trưởng GĐPT phục hồi hoặc tự thành lập tổ chức hoạt động GĐPT ngoài phạm vi của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Tháng 8-1984, Ban HDNNPT Trung ương mới đề ra phương án hoạt động. Tuy phương án này còn quá đơn giản lại không được triển khai một cách chu đáo, nhưng bước đầu cũng đã tạo tiền đề cho một số Ban trị sự có cơ sở nghiên cứu để ứng dụng vào sinh hoạt GĐPT tại địa phương mình.

Nhưng thật sự làm chỗ tựa về mặt pháp lý để GĐPT sinh hoạt đi vào nề nếp và phát triển là nhờ Thông bạch 455 ngày 21-7- 1995 của HĐTS-GHPGVN với nội dung hướng dẫn thực hiện quản lý sinh hoạt GĐPT. Trung ương Giáo hội đã khẳng định: “Đây là một trong những Phật sự quan trọng mà Giáo hội có trách nhiệm hướng dẫn và quản lý”.

(…) Vậy, đã là một Phật sự quan trọng mà chưa tổ chức thực hiện chu đáo, thì nhân Đại hội Đại biểu Toàn quốc GHPGVN kỳ IV lần này,phải đầu tư trí tuệ và vật lực để thực hiện cho kỳ được.

Đoàn đại biểu Tỉnh Quảng Ngãi phát biểu với các nội dung như sau:

  1. Đưa danh hiệu GĐPT vào Hiến chương GHPGVN, bổ sung vào điều 19, có thể với tên gọi Ban Hướng Dẫn GĐPT.
  2. Tiếp tục quán triệt Thông bạch 455 đối với Ban trị sự các tỉnh ,thành hội chưa triển khai thực hiện.
  3. Bổ sung hoàn thiện dự thảo Nội quy GĐPT và Điều lệ Huynh trưởng GĐPT mà Thông bạch 547 ngày 19-12-1995 của Ban Thường trực HĐTS-GHPGVN đã hướng dẫn góp ý, tu chính.

Bài tham luận kết luận:
Có như vậy, GĐPT mới trở thành một ngành hoạt động chuyên môn hóa thực hiện được mục đích “Đào luyện thanh, thiếu, đồng niên thành Phật tử chân chính theo giáo lý, đạo đức Phật giáo mang tính đặc thù, thực hiện khẩu hiệu “Phong trào nào thì cán bộ ấy”.

Sau 3 ngày làm việc, Đại hội đã đem lại nhiều kết quả, trong đó có:

  • Danh xưng chính thức Ban Hướng dẫn Phật tử (bỏ 2 từ Nam, Nữ). Ban HDPT có hai phân ban là: Phân ban Cư sĩ và Phân ban GĐPT.

Bằng cách thiết lập Phân ban GĐPT trực thuộc Ban HDPT Trung ương GHPGVN, từ nay lịch sử GĐPT bước vào một chương mới trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Bản Nội quy GĐPT được ban hành ngày 29-01-2002 là văn kiện căn bản cho tổ chức GĐPT thuộc GHPGVN.

  • Ngày 15-9-1998, Nội quy Ban Hướng dẫn Phật tử GHPGVN được Ban Thường trực Hội đồng Trị sự thông qua và duyệt y.
  • Ngày 01-10-1998 Hội đồng trị sự ra Quyết định số 187/QĐ- HĐTS v/v chuẩn y thành phần nhân sự Ban hướng dẫn Phật tử Trung ương GHPGVN:

– Hòa thượng Thích Thiện Duyên làm Trưởng ban
– Hòa thượng Thích Minh Thành, Trưởng PB Cư sĩ PT
– Thượng tọa Thích Khế Chơn, Phó Phân ban CSPT
– Cư sĩ Nguyễn Thắng Nhu, Trưởng Phân ban GĐPT

Theo thống kê của Phân ban GĐPT trong năm 1998 như sau:

  • Thừa Thiên-Huế có 117 Gia đình sinh hoạt với 1081 huynh trưởng
  • Dak Lak có 60 Gia đình sinh hoạt
  • Bà Rịa-Vũng Tàu tổ chức hội thảo chuyên đề, có 153 huynh trưởng tham dự. Mở trại Hạnh ngành Nữ, có 200 trại sinh tham dự.
  • Kiên Giang mở liên trại huấn luyện Lộc Uyển – A Dục. Có 60 trại sinh tham dự
  • Lâm Đồng có 26 đơn vị GĐPT sinh hoạt
  • Gia Lai có 19 Gia đình đang sinh hoạt
  • Đà Nẵng mở trại huấn luyện Anoma – Ni Liên, có 320 trại sinh tham dự
  • Đồng Nai có 12 đơn vị GĐPT sinh hoạt
  • TP.Hồ Chí Minh tổ chức trại Dũng có 250 trại sinh; trại Hạnh có 164 trại sinh; trại Lục Hòa có 424 trại sinh tham dự.
  • Quảng Trị có 170 đơn vị GĐPT sinh hoạt với hàng chục ngàn huynh trưởng và đoàn sinh.

Ngày 27, 28 và 29 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm, Huế đã diễn ra các sự kiện trọng đại của Gia Đình Phật Tử Việt Nam như sau:

  • Lễ kỷ niệm 50 năm ra đời danh xưng Gia Đình Phật Tử rất quy mô và hoành tráng dưới sự chứng minh, chủ trì và tham dự của Chư Tôn Giáo phẩm Tăng, Ni, chính quyền các cấp, Chư Tôn Giáo phẩm thuộc các Ban, Ngành, Viện Trung ương, Ban trị sự Phật giáo các Tỉnh hội từ Quảng Trị đến Cà Mau, các tỉnh nơi có GĐPT sinh hoạt; Chư Tôn đức Tăng, Ni xuất thân từ GĐPT, Chư Tôn đức Ta9ng, Ni các tự viện, tịnh xá, tịnh thất và hơn 10.000 huynh trưởng, cựu huynh trưởng, Ban bảo trợ cùng đông đảo Phật tử, khách mời và hơn 5.000 trại sinh trại họp bạn Lục Hòa 3 của GĐPT tỉnh nhà tham dự.
  • Hội nghị Huynh trưởng cấp Dũng và cấp Tấn GĐPT Việt Nam cùng nhau xác định vị trí, quan điểm, lập trường cố hữu của GĐPT là luôn sinh hoạt trong khuôn khổ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, nhằm đưa sinh hoạt GĐPT thống nhất và ngày càng phát triển.
  • Khai mạc trại huấn luyện huynh trưởng cấp 3 Vạn Hạnh II, cấp toàn quốc do huynh trưởng cấp Dũng Nguyên Hùng Võ Đình Cường làm trại trưởng (trại cấp 3 Vạn Hạnh I tháng 12/1973 tại Đà Lạt do huynh trưởng Nguyên Hùng Võ Đình Cường làm trại trưởng). Có 306 trại sinh và 14 huynh trưởng cấp Tấn dự thính của 14 tỉnh thành tham dự.
  • Trại họp bạn Lục Hòa 3 tổ chúc tại đồi chùa Trúc Lâm-Huế, có 5.157 trại sinh thuộc 157 đơn vị GĐPT trực thuộc Thừ Thiên-Huế.
  • Gặp gỡ Tình Lam giao lưu nhiều thế hệ từ ngày thành lập cho đến nay cùng các vị xuất thân từ GĐPT nay đã là chức sắc trong Giáo hội, cùng nhau hội ngộ thân thiết trong cuộc gặp gỡ này.
  • Ngày 29/01/2002, HĐTS-GHPGVN ra Quyết định số 045/QĐ-HĐTS về việc ban hành Nội Quy GĐPT thuộc Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương GHPGVN.

Năm 2003 theo đề nghị của hai Huynh Trưởng cấp Dũng Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, sáng lập viên GĐPTVN, cố vấn Phân ban Hướng dẫn GĐPT Trung ương, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN thành lập Hội đồng xét xếp cấp Dũng cho 5 Huynh Trưởng: Thiện Điều Nguyễn Thắng Nhu, Tâm Duệ Nguyễn Đức Châu, Tâm Hướng Lê Bá Chí, Nguyên Tú Trần Hạp và Nguyên Trừng Nguyễn Văn Quýnh. Lễ trao cấp hiệu được thực hiện tại Hội nghị kỳ 2 khóa V của Trung ương Giáo hội dưới sự chứng minh của Đại Tăng 2 Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và 46 tỉnh thành trong cả nước, đánh dấu một bước trưởng thành của GĐPT trong lòng GHPGVN.

b) Ở nước ngoài:
Các Huynh Trưởng di tản ra nước ngoài, lần lược thành lập Gia Ðình Phật Tử, từ các trại tị nạn cho đến những nước đã định cư như Mỹ, Gia Nã Ðại, Úc, Pháp, Ðức…

Năm 1976, tại Mỹ, có lẽ Gia Đình Phật Tử đầu tiên được thành lập là GĐPT Cựu Kim Sơn do Huynh Trưởng Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà thành lập tại Chùa Từ Quang San Francisco vào mùa Hè năm 1976, kế đó là GĐPT Long Hoa được Huynh Trưởng Tâm Khởi Hoàng Phấn và Hằng Nga thành lập tại chùa Việt Nam ở Los Angeles, lễ ra mắt ngày 12-12-1976, tiếp theo là GĐPT Hoa Thịnh Đốn tại Washington DC, kết hợp và quy tụ từ năm 1976, nhưng lễ ra mắt chính thức ngày 21-8-1977, GĐPT Vạn Hạnh tại San Diego…

Năm 1978, do sự vận động của các Huynh Trưởng Đặng Đình Khiết (nguyên TTK BHD Miền Vĩnh Nghiêm), Quảng Khoái Trần Ngọc Lạc (cựu Ủy viên BHD Miền Vĩnh Nghiêm), Nguyên Sơn Văn Hưng (Đoàn Trưởng Ngành Thiếu) và Minh Lượng Trần Văn Thọ (Cựu LĐT GĐPT Cổ Thành, Quảng Trị) đã mở Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Sơ Cấp Lộc Uyển và Cấp I A Dục được tổ chức tại Oklahoma vào dịp Lễ Độc Lập 4-7-1978.
Ban Tổ chức:

Cố vấn: TT. Thích Mãn Giác nguyên TVT Tổng Vụ VHGD/GHPGVNTN
Cố vấn: TT. Thích Giác Đức nguyên Quyền TVT Tổng vụ TN/GHPGVNTN

Trưởng Ban: Htr. Thiện Thanh Đặng Đình Khiết
Phó Nội vụ: Htr. Minh Lương Trần Văn Thọ
Phó Ngoại vụ: Htr. Nguyên Sơn Văn Hưng
Thư Ký: Ht. Nguyên Kim Nguyễn Đóa
Thủ Quỹ: Htr. Nguyễn Thị Bích Quyên

Ban Quản Trại:
Trại Trưởng: Htr. Quảng Khoái Trần Ngọc Lạc
Trại Phó Nam: Htr. Nguyên Kim Nguyễn Đóa
Trại Phó Nữ: Htr. Diệu Quỳnh Nguyễn Thị Hồng Loan
Đời sống Trại: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành

Ban Giảng Huấn:
TT. Thích Mãn Giác
TT. Thích Giác Đức
Gs Vũ Khắc Khoan
Nhà văn Mai Thảo
Cụ Nguyễn Đình Thư

Đặc biệt trong đêm lửa trại liên hoan bế mạc đã hình thành một tổ chức “Ủy Ban Liên Lạc Trung Ương” có nhiệm vụ:

  1. Tổ chức Đại Hội Huynh Trưởng lần thứ nhất để bầu Ban Hướng Dẫn Trung Ương cho tổ chức GĐPTVN tại Hoa Kỳ.
  2. Đệ nạp, Dự thảo Quy chế Huynh Trưởng và Chương trình tu học các cấp.

Thành phần Ủy Ban Liên Lạc Trung Ương:
Trưởng Ban: Htr. Quảng Khoái Trần Ngọc Lạc
Phó TB Miền Tây: Htr. Quảng Thành Đoàn Thanh Nam
Phó TB Miền Đông: Htr. Nguyên Kim Nguyễn Đóa
Phó TB Miền Trung: Htr. Phúc Hòa Lư Văn Hiếu
Tổng Thư Ký: Htr. Thiện Thanh Đặng Đình Khiết
Phó Tổng Thư Ký: Htr. Nguyên Sơn Văn Hưng
Thủ Quỹ: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
UV Liên Lạc Cựu Htr.: Htr. Nguyên Mãn Nguyễn Đức Côn

Năm 1982, Đại Hội Huynh Trưởng Miền Trung nước Mỹ tổ chức tại chùa Phật Quang, Houston, Texas, từ 3 đến 5-9-1982, dưới sự chứng minh của TT. Trí Hiền, TT Giác Tâm và ĐĐ Thích Từ Lực Đặc Ủy Thanh Niên THPGVN tại HK, Ủy Ban Liên Lạc Trung Ương Chủ Tọa, Đại Hội đã thành công viên mãn với một Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Trung Mỹ gồm có:

Trưởng Ban: Htr. Như Thông Phan Duy Thanh
Phó TB Ngành Nam: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
Phó TB Ngành Nữ: Htr. Diệu Xuân Trần Thị Yến
Tổng Thư Ký: Htr. Cát Tường Nguyễn Văn Thụy
Thủ Quỹ: Htr. Viên Giác Quách Văn Hạnh

Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Bắc California được hình thành trong một buổi họp ngày 24-10-1982 tại chùa Từ Quang, San Francisco, gồm các Gia Đình Phật Tử Cựu Kim Sơn, Kim Quang, Lam Sơn, Đức Viên, Vạn Hạnh, Giác Minh.

Trưởng Ban: Htr. Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà

Năm 1983, Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Nam California được hình thành trong Đại Hội Huynh Trưởng các GĐPT miền Nam Cali vào các ngày 1, 2-1-1983.

Trưởng Ban: Huynh Trưởng Tâm Chánh Trần Kim Đạt
Sau khi đã có các Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Trung Mỹ (nay là Miền Tịnh Khiết), Miền Bắc Cali (nay là Miền Thiện Minh), Miền Nam Cali (nay là Miền Quảng Đức), trong phiên họp của ba Miền này vào ngày 16-4-1983, tại chùa Kim Quang Sacramento dưới sự chủ trì của TT. Thích Thiện Trì và Từ Lực, đã quyết nghị tổ chức một Trại Họp Bạn Ngành Thiếu trên toàn nước Mỹ vào các ngày 5,6,7-8-1903 tại Regional O’Neil Park, Nam Cali và khóa Hội Thảo Huynh Trưởng toàn quốc Hoa kỳ.

Dự định khóa Hội thảo trên đây về sau thành Đại Hội Huynh Trưởng toàn quốc Hoa kỳ lần đầu tiên, tổ chức vào các ngày 3, 4, 5-9-1983 tại Trung Tâm Phật Giáo Khuông Việt, Grand Prairie, Texas. Đại Hội này đã hình thành Ban Điều Hợp Trung Ương GĐPT Việt Nam tại Hoà Kỳ.

Thành phần gồm có:
Trưởng Ban: Htr. Lệ Từ Nguyễn Thị Thu Nhi
Phó TB Ngành Nam: Htr.Tâm Chánh Trần Kim Đạt
Phó TB Ngành Nữ: Htr. Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà
Tổng Thư Ký: Htr. Như Thông Phan Duy Thanh
Thủ quỹ: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
UV Nội Vụ Điều Hành: Htr. Nguyên Tịnh Trần Tư Tín
Ủy viên Ngoại Vụ: Htr. Diệu Thọ
Ủy viên Doanh Tế: Htr. Minh Hòa Nguyễn Văn Bình
Ủy viên Nghiên Huấn: Htr.Minh Dũng Phú Toàn Cương
Ủy viên Tu Thư: Htr. Tâm Quang Phan Huy Thanh
UV Tổ Chức Kiểm Soát: Htr. Nguyên Hạnh Cao Văn Hậu
UV Thanh Thiếu Nam: Htr. Tâm Nghĩa Ngô Văn Quy
Ủy viên Oanh Vũ Nam: Htr. Nguyên Tú Nguyễn Quốc Hưng
và một số Ủy viên khác cũng đã được đề nghị bổ sung

Năm 1986, Đại Hội Huynh Trưởng GĐPT toàn quốc Hoa Kỳ kỳ II tổ chức vào các ngày 4, 5, 6, 7-7-1986 tại chùa Linh Sơn, Houston, Texas của ĐĐ Thích Trí Huệ. Quy tụ 25 phái đoàn, 120 Đại Biểu. Đã chính thức công cử Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam Tại Hoa Kỳ đầu tiên, để đánh dấu cho sự liên tục nên gọi là nhiệm kỳ II (1986-1989)

Thành phần Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam Tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ II (1986-1989):

Trưởng Ban: Htr. Lệ Từ Nguyễn Thị Thu Nhi Phó
TB Ngành Nam: Htr. Minh Hòa Nguyễn Văn Bình
Phó TB Ngành Nữ: Htr. Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà
Tổng Thư Ký: Htr. Tâm Nguyên Nguyễn Văn Ngại
Phó Tổng Thư ký: Htr. Nguyên Hạnh Cao Văn Hậu
Thủ quỹ: Htr. Tâm Chánh Phạm Thị Hoài Chân
UV Nội Vụ Điều Hành: Htr. Nguyên Tịnh Trần Tư Tín
UV Tổ Chức K. Soát: Htr. Nguyên Siêu Trương Phán
Ủy viên Nghiên Huấn: Htr. Minh Dũng Phú Toàn Cương
Phụ tá UV Nghiên Huấn: Htr. Giác Tánh Lê Quang Định
Ủy viên HĐTNXH: Ht. Nguyên Kim Nguyễn Đóa
Ủy viên Doanh Tế: Htr. Nguyên Thuận Trương Văn Vinh
Phụ tá Ủy viên Doanh Tế: Htr. Minh Trực Mã Việt Hùng
Ủy viên Tu Thư: Htr. Tâm Quang Phan Huy Thanh
UV Giáo Dục và VMN: Htr. Viên Giác Quách Văn Hạnh
PT UV Giáo Dục và VMN: Htr. Tâm Luợng Trần Tử Lương
Ủy viên Nam Phật Tử: Htr. Như Thông Phan Duy Thanh
Ủy viên Nữ Phật Tử: Htr. Diệu Lan Đặng Thị Xuân Hương
Ủy viên Thiếu Nam: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
Ủy viên Thiếu Nữ: Htr. Tâm Phùng Đoàn Thị Bướm
Ủy viên Oanh Vũ Nam: Htr. Trí Quang Đỗ Vương Tân
Ủy viên Oanh Vũ Nữ: Htr. Nguyên Nhơn Ngô Thị Thu
Năm 1993, Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVNTHK tổ chức lễ Kỷ niệm 50 năm thành lập Gia Đình Phật Tử Việt Nam (tổ chức tại San Jose, California, Hoa Kỳ ngày 27,28,29 và 30/8/1993). Nhằm đáp ứng nguyện vọng của các thành viên GĐPTVN tại Hải ngoại, thống nhất Cơ cấu Tố chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở các châu lục và quốc gia, cung ứng hiệu năng yểm trợ và phục hoạt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quê nhà, Ban Điều Hợp Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hải ngoại đã chính thức được thành lập.

Trưởng Ban: Htr. Tâm Huệ Cao Chánh Hựu

Năm 1994, vào tháng 10 năm 1994 Ban Điều Hợp GĐPT Miền Đông được hình thành, nhân sự gồm có
Cố vấn: Htr. Tâm Huệ Đoàn Thị Kim Cúc
Trưởng Ban: Htr. Đồng Thân Huỳnh Văn An
Tổng Thư Ký: Htr. Chúc Mỹ Lâm Tú Phương

Năm 1997. nhằm kiểm điểm quá trình hoạt động trong nhiệm kỳ qua và hoạch định đường hướng cho nhiệm kỳ tới Ban Điều Hợp Trung Ương GĐPTVN tại Hải Ngoại đã tổ chức Hội nghị GĐPTVN Hải Ngoại kỳ I, được tổ chức tại Chùa Vạn Hạnh, Thành phố San Diego, Tiều Bang California, Hoa Kỳ trong những ngày 3-4-5 tháng 7 năm 1997.

Tổng cộng có: 30 Đại biểu Chính thức 02 Dự khuyết và 02 Dự thính

Hội nghị đã cải danh BAN ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG GĐPT VN HẢI NGOẠI

Thành ra BAN HƯỚNG DẪN LÂM THỜI GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM HẢI NGOẠI.

Thành phần nhân sự BHD Lâm Thời GĐPTVN Hải Ngoại
Trưởng Ban: Htr TÂM HUỆ Cao Chánh Hựu
Phó Trưởng Ban: Htr LỆ TỪ Nguyễn Thị Thu Nhi
Tổng Thư Ký: Htr TÂM KIỂM Bạch Hoa Mai
Phó Tổng Thư Ký: Htr TÂM ĐĂNG Nguyễn Văn Pháp
Thủ Quỹ: Htr TÂM CHÁNH Phạm T. Hoài Chân
Ủy Viên Giáo Dục: Htr HUỆ KHA Khu Thêm Đóng
Ủy Viên Xã Hội: Htr TÂM TRÍ Tư Đồ Minh
Ủy Viên NC – KH: Htr NGUYÊN MẪN Lê Viết Lâm

– Đại Diện BHD GĐPT VN tại Hoa Kỳ: Htr NGUYÊN TỊNH Trần Tư Tín
– Đại Diện BHD GĐPTVN tại Âu Châu: Htr THỊ LỘC Võ Văn Mai
– Đại Diện BHD GĐPTVN tại Úc Đại Lợi: Htr NGUYÊN MẪN Lê Viết Lâm
– Đại Diện BHD GĐPTVN tại Canada: Htr TÂM TRÍ Tư Đồ Minh

Phụ Tá Trưởng Ban: Htr ĐỒNG TRÚC Thái Văn Bá

Trưởng Nhóm Cải Tiến Tu Học: Htr HỐNG LIÊN Phan Cảnh Tuân, Htr TÂM VINH Đoàn văn Lộc

Trưởng Nhóm Tương Trợ: Htr TÂM DUY Phan Duy Chiêm, Htr TÂM NHUẦN Trần Văn Nhuận

Năm 1998, trong Đại Hội Huynh Trưởng Miền Thiện Minh vào các ngày 3, 4-4-1998 tại chùa Cổ Lâm, Seattle, Washington State dưới sự chứng minh và chủ tọa của chư Tăng giáo phẩm GHPGVNTNTHK là:

Hòa Thượng Thích Giác Lượng, TT. Thích Huyền Việt, Thích Chơn Thành và Thích Nguyên An

Đại Hội đã bầu Ban Hướng Dẫn Miền Thiện Minh nhiệm kỳ VIII đã biến thành Đại Hội bầu Ban Hướng Dẫn Liên Miền Liễu Quán – Khuông Việt trực thuộc GHPGVNTNTHK. Đó là chủ trương của Giáo Hội, Nhưng BHDTW/GĐPTVNTHK không thể tuân hành vì BHD điều hành nhiều GĐPT thuộc các Giáo Hội khác nhau. Do vậy, GĐPTVN Tại Hoa Kỳ bước vào thời kỳ phân hóa.

Năm 1999, Ban Điều Hợp GĐPT Miền Đông đã có từ năm 1994 nhưng phải đến 24-8-1999 mới tổ chức được Đại Hội Huynh Trưởng vào các ngày 26 đ ến 28-11-1999 tại chùa Từ Hiếu, Buffalo, New York. Dưới sự chứng minh của Sư Ông Thích Trí Hiền và có sự hiện diện của Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương Trần Tư Tín. Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Đông được hình thành và cải danh thành Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Thiện Hoa, đã bầu cho nhiệm kỳ I (1999-2003):

Trưởng Ban: Htr. Tâm Tựu Sử Thành

Năm 2003, Ban Hướng Dẫn TW/GĐPTVN và Ban Hướng Dẫn GĐPT Hải Ngoại đã hình thành Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử VIỆT NAM Lâm Thời Trên Thế Giới.

Trưởng Ban: Htr. Nguyên Tín Nguyễn Châu

Thấy được sự phân hóa GĐPTVNTHK bắt nguồn từ năm 1998 tại Đại Hội Huynh Trưởng Miền Thiện Minh, Hòa Thượng Thích Hộ Giác Phó Viện Trưởng GHPGVNTN đã tổ chức một Bữa cơm thân mật vào chiều ngày 24-9-2003 tại chùa Diệu Pháp, Nam Cali.

Trong bữa cơm thân mật này, HT Thích Hộ Giác đã phát biểu “Giáo Hội không đặt vấn đề trực thuộc, chỉ mong cầu anh em một khối cố kết, để cùng nhau đóng góp hữu hiệu cho đại Phật sự Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn tại quê nhà.”

Năm 2004. Khởi nguồn từ bữa cơm thân mật trên, Ban Tổ chức đã tiến hành Đại Hội Hợp Nhất GĐPTVN Tại HK tổ chức vào hai ngày 10 và 11-4-2004 tại chùa Diệu Pháp, 311 East Mission Dr. San Gabriel, CA 91776.

Nhưng thay vì bàn việc Hợp Nhất, thì một số Huynh Trưởng đề nghị, được chư Tăng hỗ trợ đặt thành vấn đề tiên quyết là BHD Hợp Nhất phải trực thuộc GHPGVNTN Tại HK, cho nên Ban Hướng Dẫn TW GĐPTVNTHK tuyên bố không tham gia, không phát biểu, đã rời khỏi Hội Trường trước khi bỏ phiếu.

Sau đó, Đại Hội tiến hành bỏ phiếu cho 4 giải pháp, giải pháp được tán đồng 101/167 là: Thành lập Ban Hướng Dẫn chung cho các Đơn vị đã sẵn sàng trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và ai chưa muốn thì đợi sau.

Do đó Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVNTHK thuộc GHPGVNTNTHK ra đời ngay trong Đại Hội này, các Đại biểu đã bầu cho nhiệm kỳ 2004-2008 gồm có:

Ban Thường Vụ:
Trưởng Ban Hướng dẫn: Htr Tâm Kiểm Bạch Hoa Mai
Phó TB Q. Trị Điều Hành: Htr Tâm Tựu Sử Thành
Phó TB Truyền Thống XH: Htr Nguyên Siêu Trương Phán
Phó TB N. Cứu H. Luyện: Htr Tâm Minh Vương Thúy Nga
Tổng Thư Ký: Htr Tâm Đăng Nguyễn Văn Pháp
Phó Tổng Thư Ký: Htr Nguyên Từ Ng~ Quốc Hưng
Tổng Thủ Quỹ: Htr Diệu Liên Nguyễn Thị Huế
Phó Tổng Thủ Quỹ: Htr Diệu Ngọc Cao Ngọc Điệp
Ủy Viên Quản Trị Htr.: Htr Tâm Hòa Lê Quang Dật
Ủy Viên Tổ Kiểm: Htr Nguyên Thanh Ng~ Văn Hà

Các Ủy Viên:
Ủy Viên Lịch Sử: Htr Minh Quang Lê Văn Thẩm
Ủy Viên Tương Tế: Htr Nguyên Lợi Ng~ Thị Huế
UV Nghi Lễ & Giao Tế: Htr Tâm Thông Trần Chí Trung
Ủy Viên Cựu Đoàn Viên: Htr Tâm Quang Võ Cân
Ủy Viên Xã Hội & Ái Hửu: Htr Nguyên Chánh Võ Văn Bằng
Ủy Viên HĐTN: Htr Giác Chơn Đỗ Quang Hưng
Ủy Viên Văn Mỹ Nghệ: Htr Tâm Nghĩa Lê Viết Đắc
Ủy Viên Doanh Tế: Htr Nguyên Thuyết Lê Minh Thi
Ủy Viên Ngành Nam: Htr Tâm Nghĩa Lê Hửu Đàng
Ủy Viên Ngành Nữ: Htr Trí Hải Ngô Quỳnh Lâm
Ủy Viên NC&KH: Htr Tâm Duy Phan Duy Chiêm
Ủy Viên Giáo Dục: Htr Quảng Nghiêm Ng~ Kim Ngân
Ủy Viên Huấn Luyện: Htr Trí Minh Lê Văn Chiếu
Ủy Viên Tu Thư: Htr Quảng Pháp Trần Minh Triết
Ủy Viên Chuyên Năng: Htr Nhật Liên Dũng Lê Minh Dũng

Các Phụ Tá:
Phụ Tá UV Quản Trị Htr.: Htr Quảng Hoàng Lê Hữu Minh Huy
Phụ Tá UV Huấn Luyện: Htr Quảng Dũng Hồ Chí Cường
Phụ Tá UV Chuyên năng 1: Htr Huệ Cảnh Hồ Đăng Dũng
Phụ Tá UV Chuyên năng 2: Htr Nguyên Túc Nguyễn Sung
Phụ Tá UV Tu Thư: Htr Diệu Tánh Trần Kim Khánh
Phụ Tá Ủy Viên Doanh Tế: Htr Quảng Hải Phan Trung Kiên

Do đó, kể từ ngày 11-4-2004 GĐPTVNTHK có hai Ban Hướng Dẫn Trung Ương, một do Trần Tư Tín làm Trưởng Ban, điều hành các GĐPT của nhiều Giáo Hội Phật Giáo và một trực thuộc GHPGVNTNTHK thuộc VPII/VHĐ do Bạch Hoa Mai làm Trưởng Ban.

Lễ Hội Huynh Trưởng GĐPT Việt Nam tại Trung Tâm Viên Giác ở Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ, vào các ngày 7, 8, 9 -11-2004 dưới sự chứng minh của:

1. Thích Viên Lý Phó Tổng Thư Ký VHĐ kiêm TTK/HĐĐH/GHPGVNHNTHK VP II VHĐ
2. Thích Như Điển TTK/GHPGVNTNAU
3. TT. Thích Nguyên Siêu Tổng Vụ Trưởng TVVH/GHPGVNTNTHK

Các Phái đoàn tham dự gồm có:
– Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Hải Ngoại
– Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Hoa Kỳ
– Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Âu Châu
– Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Úc Đại Lợi
– Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Canada
– Phái đoàn cựu Huynh Trưởng GĐPTVN tại Hải Ngoại
– Phái đoàn Ban Bảo Trợ GĐPTVN tại Hải Ngoại.

Trong Lễ Hội cơ chế Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN Trên Thế Giới được Đại Hội thông qua và một Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Trên Thế Giới được công cử.

THÀNH PHẦN NHÂN SỰ BHD GĐPT VN TRÊN TG. Nhiệm Kỳ I: ( 2004-2008 )

Cố Vấn: Htr cấp DŨNG NGUYÊN NGỘ Nguyễn Sỹ Thiều, Htr TÂM LẠC Nguyễn Văn Thục

Trưởng Ban: Htr Cấp DŨNG NGUYÊN TÍN Nguyễn Châu

Phó Trưởng Ban Quốc Nội: Htr Cấp DŨNG NHƯ THẬT Nguyễn Công Minh

Phó Trưởng Ban Hải Ngoại: Htr Cấp DŨNG TÂM HUỆ Cao Chánh Hựu

Tổng Thư Ký: Htr Cấp TẤN TÂM KIỂM Bạch Hoa Mai

Phó Tổng Thư Ký: Htr Cấp TẤN NGUYÊN HOÀNH Lê Văn San

Tổng Thủ Quỹ: Htr Cấp TẤN TÂM VINH Đoàn Văn Lộc

Phụ Tá: Htr Cấp TẤN DIỆU THUẬN Phạm Thị Xuân Hòa

Ủy viên Nghiên Cứu / Kế Hoạch: Htr Cấp TẤN NĂNG QUANG Nguyễn Hữu Thạnh
Phụ Tá: Htr Cấp TẤN TÂM DUY Phan Duy Chiêm

Ủy viên Giáo Dục: Htr Cấp TẤN NGUYÊN TỪ Nguyễn Đức Thương
Phụ Tá: Htr Cấp TẤN TÂM MINH Vương Thúy Nga

Ủy viên Xã Hội: Htr Cấp TẤN TÂM TRÍ Tư Đồ Minh
Phụ Tá: Htr Cấp TẤN NGUYÊN HẠNH Phạm Phước Hùng

Đại Diện BHD tại Quốc Nội: Sẽ mời sau
Đại Diện BHD tại Hải Ngoại: Sẽ mời sau

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới, do Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu ký ban hành Giáo chỉ số 241/VP/TT ngày 28-11-2004 thành lập Hội Đồng Điều Hành Lâm Thời Gia Đình Phật Tử Việt Nam Trên Thế Giới. Thành phần gồm có:

Cố Vấn GH: Hòa Thượng Thích Trí Hiền
Cố Vấn GH: Thượng Tọa Thích Quảng Thanh

Chủ Tịch: Huynh Trưởng Nguyên Kim Nguyễn Đóa

Phó Chủ Tịch: Huynh Trưởng Minh Hòa Nguyễn Văn Bình

Tổng Thư Ký: Huynh Trưởng Tuệ Linh Nguyễn Công Sản

Tổng Thủ Quỹ: Huynh Trưởng Nguyên Kim Nguyễn Đóa (kiêm)

Năm 2008, Hoà Thượng Thích Hộ Giác Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNTHK ký Quyết định Số: 2008002/VPTT/HĐĐH/QĐ/CT ngày 10-2-2008 giải nhiệm toàn Ban Hướng Dẫn Trung Ương do Htr. Bạch Hoa Mai làm Trưởng Ban và sau đó ký Quyết định ngày 6-10-2008 bổ nhiệm thành phần Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVNTHK

Quyền TBHDTW: Hòa Thượng Thích Huyền Việt
Phó TB QTĐH: Htr Trí Hải Ngô Thị Quỳnh Lâm
Phó TB TTXH: Htr Nguyên Hòa Trần Đình Minh
Phó TB NCHL: Htr Trí Hải Ngô Thị Quỳnh Lâm (k)
Tổng Thư ký: Htr Nhật Liên Dũng Lê Minh Dũng
Phó Tổng Thư ký: Htr Tâm Phước Nguyễn Xuân Phước
Tổng Thủ quỹ: Htr Nguyên Thọ Hoàng Phước
Ủy viên Tổ kiểm: Htr Thiện Thanh Châu Ngọc Thạch
UV Tu thư, HL: Htr Nguyên Hậu Tôn Tiên
Ủy viên Truyền thông: HTr Thiện Thanh Châu Ngọc Thạch (kiêm)
Ủy viên NC, Kế hoạch: Htr Nguyên Thọ Hoàng Phước (kiêm)
UV LL miền TN H.Kỳ: Htr Tâm Tri Hoàng Văn Nuôi
UV LL miền Đông HK: HTr Nguyên Viễn Ng~ Ngọc Mục

Năm 2016
Vào thời điểm năm 2016 Gia Đình Phật Tử Việt Nam Trên Thế Giới có 2 Ban Hướng Dẫn:
1. Hội Đồng Điều Hợp Trung Ương thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trên Thế Giới do HT. Thích Tâm Châu lãnh đạo.
Chủ tịch Hội Đồng: Htr. Nguyên Kim Nguyễn Đóa

2. Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN Trên Thế Giới do Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lãnh đạo.
Trưởng Ban HDTW: Htr. Nguyên Tín Nguyễn Châu

Cấp quốc gia, tại Việt Nam có 4 Ban Hướng Dẫn Trung Ương:

  1. Trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do HT. Đệ Ngũ Tăng Tống Thích Quảng Độ lãnh đạo. Trưởng Ban BHDTW: Htr. Nguyên Chánh Lê Công Cầu
  2. Trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do HT. Đệ Tam Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ lãnh đạo. Trưởng Ban BHDPB GĐPT: Htr. Thiện Điều Ng~ Thắng Nhu
  3. Trực thuộc Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Quyền Trưởng Ban BHD: HT. Thích Tâm Trí
  4. Tuyên bố thuộc GHPGVNTN, nhưng Giáo Hội không thừa nhận. Trưởng Ban BHDTW: Htr. Nguyên Tín Nguyễn Châu

Tại Hoa Kỳ cũng có 4 Ban Hướng Dẫn Trung Ương

  1. Ban Hướng Dẫn Trung Ương lâu đời nhất, không thuộc Giáo Hội nào: Trưởng Ban BHDTW: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
  2. Trực thuộc Văn Phòng II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN: Quyền Trưởng Ban BHDTW: HT. Thích Huyền Việt.
  3. Thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ: Trưởng Ban BHDTW: Htr. Tâm Duy Phan Huy Chiêm
  4. Không thuộc Giáo Hội nào, Ban Hướng Dẫn GĐPTVN Tại Hải Ngoại: Trưởng Ban BHDTW: Htr. Tâm Đăng Nguyễn Văn Pháp

Gia Đình Phật Tử Việt Nam nói chung có nhiều Ban Hướng Dẫn, tức nhiên là có nhiều đơn vị GĐPT, nói khác hơn là có nhiều thành viên Huynh Trưởng cũng như Đoàn sinh, đáng mừng là số lượng càng ngày càng đông hơn, nói lên mục đích giáo dục của Gia Đình Phật Tử Việt Nam sau vài thập kỷ đã gặt hái được kết quả tốt đẹp trong nhiệm vụ giáo dục, các thành viên trở thành những Phật tử chân chánh hữu ích cho Đạo và đời, nhưng có nhiều Ban Hướng Dẫn để phục vụ khắp mọi nơi cho được hữu hiệu hơn, hay là để cho Huynh Trưởng có chức vụ cũng như cấp bậc ?!

III. Hiệu quả
Mục đích của Gia Ðình Phật Tử là đào tạo Thanh, Thiếu, Ðồng niên trở thành Phật Tử chân chính và góp phần cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo.

Nhiều thành viên Gia Đình Phật Tử có người là Đoàn sinh, có người là Huynh Trưởng đã xuất gia như Hòa Thượng Tâm Thanh ở Đại Ninh, Hòa Thượng Thích Chơn Kim ở Đơn Dương, Sư Bà Hải Triều Âm ở Đại Ninh… ở Hải ngoại có Thượng Tọa Thích Từ Lực, viện chủ chùa Phổ Từ ở Bắc Cali, Đại Đức Thích Phổ Hòa, Sư cô Huệ Tâm, Tịnh Ngọc, Khánh An…

Ngoài xã hội nhiều thành viên đã giữ những chức vụ của chánh quyền như Trần Quang Thuận Bộ Trưởng Bộ Xã Hội, Cao Chánh Hựu Chánh án toà án mặt trận, Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, Nguyễn Thanh Quang, Phó quận trưởng Quận Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, quận Đức Tôn tỉnh Sa Đéc. La Thành Tỵ Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Đà Nẵng…

Qua những lần Pháp nạn, thành viên của Gia Ðình Phật Tử từ Ðoàn sinh cho đến Huynh Trưởng, Gia Trưởng đã đem thân mạng của mình ra để góp phần tranh đấu cho Tự do, Ðộc lập, Hòa Bình cho Ðạo pháp và Dân Tộc. Họ đã để lại tên tuổi như Nguyễn Thị Ngọc Lan, Huỳnh Tôn Nữ Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Phúc, Lê Thị Kim Khanh, Trần Thị Phước, Nguyễn Thị yến, Nguyễn Văn Ðạt, Ðặng Văn Công, Quách Thị Trang, Ðào Thị yến Phi, Phan Duy Trinh, Nguyễn Ðại Thức, Phạm Gia Bình.

Năm 1960, Đoàn Huynh Trưởng GĐPT Thủ Đô được thành lập thuộc Ban Hướng Dẫn GĐPT Nam Việt do Trưởng Phan Cảnh Tuân làm Đoàn Trưởng, Nguyễn Hữu Huỳnh làm Đoàn Phó quy tụ hầu hết Huynh Trưởng các GĐPT tại Thủ đô Sàigòn tham gia sinh hoạt. Đó là hạt nhân đến Pháp nạn 1963, Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh với chức vụ Trưởng Ban Chỉ Đạo GĐPT trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, anh đã điều động các Huynh Trưởng và các Gia Đình Phật Tử tại thủ đô Sàigòn tham gia các công tác do UBLPBVPG đề ra, góp phần vào việc tranh đấu đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho Phật Giáo và xây dựng nên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất năm 1964.

Năm 1961, Ban Hướng Dẫn GĐPT thuộc Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt Tại Miền Nam thành lập Trường Đào Tạo Huynh Trưởng, khóa trình đào tạo trong 2 năm, về sau cải tiến lại còn 1 năm. Khóa đầu tiên khai giảng vào ngày 10 tháng 12 năm 1961 và khóa cuối cùng khai giảng vào ngày 12 tháng 4 năm 1964.

Qua 3 khóa, tổng số khóa sinh tham dự là 129 khóa sinh, tốt nghiệp là 46 Huynh Trưởng, được phân bổ đi sinh hoạt trong các GĐPT của Giáo Hội.

Sau Đại Hội Huynh Trưởng Toàn quốc năm 1964, Trường A Dật Đa tự giải thể cho phù hợp với Nội Quy.

Năm 1967, chánh quyền thành phố Đà Lạt – Tuyên Đức cấp cho GĐPT tỉnh Tuyên Đức một lô đất dùng để làm Trại Trường Huấn Luyện của GĐPT, đến tháng 1 năm 1961, chánh quyền cho phép xây dựng Đài Lục Hòa, ngày 19-1-1969 làm lễ đặt viên đá đầu tiên, khởi công xây dựng ngày 28-3-1970 đến ngày 25-12-1973 lễ Khánh Thành Đài Lục Hòa của Trại Trường.

Cũng tại nơi Trại Trường nầy đã khai giảng khóa Huấn Luyện Huynh Trưởng Vạn Hạnh đầu tiên vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1973, do các Huynh Trưởng Nguyễn Văn Thục và Nguyễn Khắc Từ tổ chức.

Nơi đây năm 1995 các Huynh Trưởng GĐPTVN đã bầu lại Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam.

Tại Hải Ngoại có Trung Tâm Huấn Luyện và Tu Học Thích Quảng Đức tại 1383 W. Baseline St., San Bernardino, CA 92411 thuộc Ban Hướng Dẫn GĐPTVNTHK. Là một cơ sở thuộc chủ quyền của Gia Đình Phật Tử, không thuộc Giáo Hội, Hội hay Tự, Viện nào hết.

Đó là những hoạt động là những mô hình độc đáo đáng được triển khai, nhân rộng ra chứng tỏ hiệu quả, sự lớn mạnh vững chắc của GĐPT qua các thời kỳ.

Gia Ðình Phật Tử đã, đang và sẽ luôn luôn cố gắng làm tròn sứ mệnh của mình. Mặc dù hiện nay tổ chức đang gặp nhiều khó khăn, trong nước không được chính thức hoạt động, không thể tập họp để bầu một Ban Hướng Dẫn Trung Ương cho đủ người có tài đức đảm nhận nhiệm vụ, các nơi thiếu ban Hướng Dẫn địa phương để trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và đôn đốc mọi hoạt động nhằm phục hồi và phát triển tổ chức.

Ở nước ngoài, vẫn còn thiếu người lãnh đạo, thời gian qua có những thử thách, làm cho người ta có dịp đánh giá được lãnh đạo ở mặt đạo đức và tài năng. Hơn nữa, đời sống ở nước ngoài hiện nay có những suy tư, nhận thức khác biệt giữa Huynh Trưởng thế hệ trẻ được đào tạo ở nước ngoài và thế hệ già đã không bắt kịp những tiến bộ của thời đại. Mặc cảm và tự tôn chính là trở ngại lớn cho đà tiến thủ.

Những khó khăn đó làm cho Gia Ðình Phật Tử chậm bước, dĩ nhiên rồi cũng vượt qua nhưng phải có thời gian, người ta tưởng chừng như nó đang nằm yên trong giấc ngủ mùa đông, thật ra không phải vậy, nó vẫn hoạt động, như một ngọn lửa đang âm ỉ cháy, chờ cho ngọn gió đến thổi bùng lên.

Ghi chú:
(1) Theo như anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục cho biết, anh vào Nam khoảng tháng 10 năm 1949, sau đó anh sống bằng nghề dạy kèm, có tiền anh mới mở trường tư thục Gia Ðình Bổ Túc Học Vụ Chân Tri ở Bàn Cờ Sàigòn. Từ trường nầy, một số học sinh trở thành Ðoàn sinh, thầy cô giáo trở thành Huynh Trưởng của Gia Ðình Phật Hóa Phổ Chân Tri, sinh hoạt tại chùa Sùng Ðức ở Chợ Lớn, sau dời về chùa Phật Quang của thầy Huyền Dung, thầy đổi tên là Gia Ðình Phật Tử Chánh Giác.

(2) Anh Nhật Minh Nguyễn Hữu Huỳnh nguyên là Phó Tổng Thư ký Hội Phật Học Nam Việt, anh cho biết khi Gia Ðình Chánh Tâm dời từ nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ về chùa Phước Hòa sinh hoạt, anh định lấy pháp danh của gia trưởng mới, để đặt lại tên của gia đình nầy là Gia Ðình Phật Tử Chánh Trí, nhưng bác ấy không muốn vậy, nên bác đổi ra là Gia Ðình Phật Tử Chánh Tín.

Tài liệu tham khảo:
– Kiêm Ðạt Lịch sử Gia Ðình Phật Tử Việt Nam, Phật Học Viện Quốc Tế, USA, 1981
– Nhiều tác giả Gia Ðình Phật Tử Việt Nam – 50 năm xây dựng, Hương Quê Xuất Bản, USA, 1986
– Thích Thiện Hoa 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam Phật Học Viện Quốc Tế, USA, 1987
– GÐPT Vĩnh Nghiêm Khóa tu học ANOMA, Việt Nam, 1993
– Nguyễn Văn Thục Lược sử Gia đình Phật Tử Việt Nam, Australia, 1994
– Ái Hữu Gia Ðình Phật Tử Vĩnh Nghiêm Hải Ngoại Ðặc San Vĩnh Nghiêm, USA, 1995
– Nguyễn Hữu Huỳnh Thử Tìm Hiểu Nguồn Gốc Gia Ðình Phật Tử, Việt Nam 1995
– Thích Quảng Trí Tiến trình hình thành và phát triển Gia Đình Phật Tử Việt Nam, http://gdptkiengiang.com

Nguồn: https://thuvienphatviet.com/phuc-trung-huynh-ai-tong-luoc-su-gia-dinh-phat-tu-viet-nam/

2. Gia Đình Phật Tử Việt Nam Tại Hoa Kỳ
Lời thưa: Một bài viết đã cũ lắm, của cố trưởng niên Tâm Hoà Ngô Mạnh Thu, nhưng “note’ vào đây để anh chị em áo lam tham khảo. Bài viết tất nhiên cần được cập nhật theo tiến trình thăng trầm của phong trào… và đang đợi anh-chị-em chúng ta cùng làm việc đó, trong thực tiễn hành động. Mong lắm thay!
Trong các sinh hoạt của Cộng Ðồng Người Việt hải ngoại, đặc biệt tại Hoa kỳ, người ta thường thấy có sự hiện diện của một đoàn thể trẻ đồng phục gần giống với tổ chức Hướng Ðạo. Ðó là Gia Ðình Phật Tử, một phong trào Thanh niên của Phật giáo Việt-nam. Ðể rõ hơn về một đoàn thể từ lâu đã có những đóng góp âm thầm trong việc hình thành một cộng đồng Việt-nam, thiết nghĩ cũng cần lược qua tiến trình hình thành của Gia Ðình Phật Tử từ những ngày khởi đầu.

Bối cảnh lịch sử:
Vào những thập niên đầu thế kỷ 20, cùng với các phong trào vận động canh tân đất nước, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt nam cũng sôi nổi trên cả nước từ Bắc đến Nam. Các bậc chân tu, các nhà trí thức đều lưu tâm, tham gia chấn chỉnh lại niềm tin cùng phát huy tinh thần đạo Phật như một phương cách bảo tồn truyền thống văn hóa Việt nam. Trong bối cảnh lịch sử thời đó, việc năng cao dân trí, cũng như tìm về nguồn cội, bản sắc văn hóa dân tộc là điều cấp thiết. Ðạo Phật từng gắn bó với dân tộc suốt chiều dài lịch sử từ trước khi bị Tàu cai trị, cho đến những ngày khôi phục lại quyền tự chủ. Thịnh suy của đất nước cũng là thịnh suy của Phật giáo. Chấn hưng Phật giáo không chỉ là phục hồi một sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Mà cũng là công cuộc vận động tái tạo Con Người Việt Nam có truyền thống Từ hòa Nhân ái.

Giai đoạn hình thành:
Tái tạo Con Người Việt Nam không chỉ riêng những người lớn tuổi, mà kể cả lớp con cháu cũng được lưu tâm. Ðó là tương lai, là sinh mệnh đất nước. Vì vậy, từ cuối thập niên 1930, tại Huế và Hà nội, các em bé nhi đồng cũng đã cùng cha mẹ, ông bà đến chùa. Các em được đoàn ngũ hóa một cách đơn sơ thành những ban Ðồng Ấu Phật Giáo.

Việc đoàn ngũ hóa này hoàn toàn có tính cách tự phát. Tùy sáng kiến từng địa phương mà có các cách thức sinh hoạt khác nhau. Tại Hà-nội, quý Thượng Tọa và một số cư sĩ trong ban quản trị đã lập một đoàn gồm con em của hội viên Phật tử gọi là ban Ðồng Ấu để làm lễ dâng hương hoa trong các ngày đại lễ. Các em vừa sử dụng nhạc cụ dân tộc vừa hát các bài cổ truyền bằng lời ca mới do cụ Thiều Chửu (tức là cư sĩ Nguyễn Hữu Kha) soạn. Tuy nhiên, thông thường các em được hướng dẫn lễ Phật, nghe kinh và dâng hương hoa trong những ngày lễ lớn. “Ban đồng ấu, áo dài the xanh, đeo băng vàng ghi câu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng tôi vừa theo xe hoa vừa hát bài điệu Ðăng Ðàn Cung… vui mừng gặp ngày nay mồng tám tháng tư, là khánh tiết Phật Thích Ca Ngài, hiện về Ca Tỳ La Vệ…). Ðầu thập niên 1940, một số cư sĩ ở Huế tập hợp con cháu trong dòng tộc, thân thuộc sinh hoạt tại nhà riêng mang tính cách gia đình. Do đó có tên gọi là Gia Ðình Phật Hóa Phổ. Ðây là tiền thân của Gia Ðình Phật Tử ngày nay.

Giai đoạn kiện toàn:
Năm 1946, chiến tranh toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Mọi sinh hoạt tạm ngưng. Năm 1948, mọi người hồi cư. Cùng với các tổ chức Phật giáo trong vùng quốc gia, tại Hà-nội và Huế vài Gia đình Phật hoá Phổ đầu tiên phục hoạt. Các sinh hoạt vẫn chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương. Giai đoạn này, có các huynh trưởng gốc Hướng đạo (Trần Ðiền, ở Huế, Trần Trung Du ở Hà-nội) tham gia sinh hoạt. Gia đình Phật hóa Phổ vốn chưa có nền nếp, nên mô phỏng theo tổ chức Hướng đạo khá nhiều. Từ hình thức đồng phục đến phân chia chương trình huấn luyện. Nhất là kỹ thuật sinh hoạt, dường như rập khuôn Hướng đạo.

Giai đoạn phát triển:
Năm 1951 các tập đoàn Phật giáo Nam Trung Bắc thống nhất thành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Gia dình Phật hóa Phổ, một bộ phận của Tổng Hội, có danh xưng mới: Gia đình Phật tử. Năm 1954, đất nước chia đôi. Một phần Gia đình Phật tử Miền Bắc di cư vào Nam. Tiếng súng tạm ngưng nổ, dất nước tạm yên bình. Gia đình Phật tử phát triển mạnh mẽ. Nhất là từ năm 1964, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập. Ðầu thập niên 1970, toàn miền Nam có trên nửa triệu đoàn viên Gia đình Phật tử sinh hoạt thường xuyên. Việc hướng dẫn thanh, thiếu, đồng niên thành những Phật tử chân chính, không chỉ giới hạn trong khuôn viên nhà chùa mà còn tạo cho các em ý thức liên đới xã hội. Gia đình Phật tử hướng hoạt động của mình vào những công tác xã hội. cứu trợ. Trên khắp nước, người đồng phục Áo Lam, cờ Hoa Sen Trắng lăn mình vào làm công tác xã hội. Họ ước mong xoa dịu bớt thương đau của đồng bào đang phải gánh chịu trước cuộc chiến vô cùng tàn khốc.

Nổi trôi theo vận nước:
Biến cố 1975 ảnh hưởng nặng nề trên toàn thể người dân Việt nam Cộng hòa. Phật giáo cũng như Gia đình Phật tử không là ngoại lệ. Chế độ Việt nam Cộng hòa sụp đổ. Người dân hỗn loạn di tản ra khắp nơi hải ngoại. Ngay ngày đầu tiên trong các trại tạm cư trên đất Hoa Kỳ, Gia đình Phật tử đã kết hợp công tác giúp ổn định đời sống cho đồng bào. Cùng với những đợt người vượt biển tìm tự do, tại các trại tị nạn vùng Ðông và Nam AÙ, Gia đình Phật tử có mặt để tự giúp và giúp người đồng cảnh vượt khó.

Gia đình Phật tử Việt nam tại Hoa Kỳ:
Ðến năm 2000, có thể nói khắp năm châu nơi nào cũng có người Việt nam cư ngụ. Hoa kỳ là quốc gia đông người Việt nhất. Trên hơn 30 tiểu bang Hoa kỳ có chùa hay niệm phật đường.

Mùa hè năm 1976, tại hai miền cực Ðông và Tây Hoa kỳ đã có hai đơn vị Gia đình Phật tử tiên khởi tự phát. Gia đình Giác Hoàng do các trưởng: Phúc Thiện Ngũ Duy Thành và Thiện Thanh Ðặng Ðình Khiết (nguyên Tổng Thư Ký Ban Hướng Dẫn GÐPT miền Vĩnh Nghiêm) thành lập tại chùa Giác Hoàng Washington DC. Gia đình Cựu Kim Sơn do trưởng Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà thành lập tại chùa Từ Quang San Francisco. Tính đến mùa hè năm 2000, trên toàn quốc Hoa kỳ có trên 60 đơn vị Gia đình Phật tử sinh hoạt đều đặn mỗi cuối tuần. Trong số đó, hai đơn vị tiên khởi Giác Hoàng và Cựu Kim Sơn vẫn còn sinh hoạt mạnh mẽ. Sĩ số mỗi đơn vị thường thường có trên dưới 100 đoàn sinh và huynh trưởng. Một số đơn vị, sĩ số đó đạt đến 3 hay 4 trăm.

Trên quê hương mới, Gia đình Phật tử phải thích nghi với tập quán, văn hóa mới. Ðồng thời vẫn phải gìn giữ truyền thống của mình. Duy trì và phát huy tín tâm đối với đạo pháp là điều tất nhiên. Hợp lực với đồng hương, cộng đồng bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc là trách nhiệm mới của Gia đình Phật tử hải ngoại nói chung, Gia đình Phật tử Việt-nam tại Hoa kỳ nói riêng. Hướng dẫn đoàn sinh các nghi thức tụng niệm, các sinh hoạt tu tập là công việc quen thuộc. Nhưng hợp lực với đồng hương, cộng đồng bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc nơi xứ người là trách nhiệm mới và lạ đối với một đoàn thể quen khép kín sau cánh cổng chùa. Ngoài nhận thức, còn cần tinh thần dấn thân tích cực. Qua thời gian đầu bỡ ngỡ, Gia đình Phật tử quen dần và tổ chức các sinh hoạt thích hợp hội nhập xã hội mới.

Năm 1978, trại huấn luyện Huynh trưởng toàn quốc đầu tiên được tổ chức tại Oaklahoma. Trại quy tụ trại sinh từ nhiều tiểu bang về dự. Từ trại huấn luyện này, một ban Liên Lạc được thành lập để vận động thống nhất sinh hoạt Gia đình Phật tử tại Hoa kỳ. Năm 1983 Ðại hội Huynh trưởng đầu tiên diễn ra tại chùa Pháp Quang tiểu bang Texas mở đầu cho sự kết hợp sinh hoạt chung của Gia đình Phật tử Việt nam tại Hoa Kỳ.

Ra khỏi cổng chùa:
Về tinh thần đã được kết hợp. Về hình thức và phương cách sinh hoạt đã đồng nhất. Nhưng tuỳ theo điều kiện địa phương và vị Thầy trụ trì cố vấn giáo hạnh mà các đơn vị có lịch trình sinh hoạt khác nhau. Sống trong một đất nước năng động, thời gian tính bằng giây, Gia đình Phật tử cũng phải chuyển mình, thích nghi để tồn tại và phát triển. Họ tích cực tham dự vào mọi sinh hoạt của cộng đồng. Là một tổ chức lấy giáo dục làm phương châm nên dù không ồn ào, họ có mặt trong hầu hết các sinh hoạt văn hóa, xã hội, giáo dục và cả đấu tranh nữa của cộng đồng. Trước nhất là giữ gìn tiếng nói và chữ viết. Mỗi đơn vị Gia điụnh Phật tử cũng là một Trung tâm Việt ngữ. Hai sinh hoạt này song hành và tương tác nhau. Hàng ngàn thanh thiếu niên, nhi đồng khắp nơi được các anh chị Trưởng cũng là thầy giáo, cô giáo dạy hát, dạy nói, dạy chữ Việt mỗi cuối tuần.

Các em đoạt được nhiều phần thưởng cao của giải Khuyến Học tổ chức hàng năm cũng như các cuộc thi viết văn thơ dành cho tuổi trẻ. Tại Nam California, có trên 10 Trung tâm Việt ngữ của Gia đình Phật tử và sẽ còn gia tăng cùng với sự phát triển các đơn vị mới. Hầu hết Gia đình Phật tử đều có đội múa Lân, giúp vui trong các dịp lễ lạc của Phật giáo và các lễ hội công cộng do cộng đồng tổ chức như mừng Xuân, giỗ Quốc Tổ, tết Trung Thu & góp phần bảo tồn truyền thống văn hóa Việt. Gắn Hoa Hồng, một nghi thức không thể thiếu trong dịp lễ Vu Lan hay Lễ Hiếu. Nghi thức này do Gia đình Phật tử thực hiện và quảng bá thể hiện lòng hiếu kính đối với cha mẹ. Ðến nay Lễ hội Hoa Hồng Vu lan đã trở thành của đại chúng. Châm ngôn vui hát, vui học được tích cực ứng dụng. Vì vậy, các Gia đình Phật tử đều hướng dẫn các em sinh hoạt văn nghệ. Ðặc biệt hình thái văn nghệ dân tộc rất được chú trọng. Từ mấy chục năm nay, đoàn vũ của Gia đình Phật tử Long Hoa (chùa Việt nam Los Angeles California) dẫn đầu về thể loại vũ dân tộc. Từ những năm đầu thập niên 1990, trong khi bộ môn cải lương bị bỏ quên ngay cả tại quốc nội, Gia đình Phật tử Chánh Pháp (chùa Dược sư Orange County California) đã sáng tác, dàn dựng và công diễn tuồng cải lương. Các vở Phật Thành Ðạo, Quan Âm Diệu Thiện, Lưu Bình Dương Lễ rất được đồng hương và Phật tử tán thưởng đã được thâu băng vidéo phát hành rộng rãi khắp nơi. Chỉ vài năm trở lại đây, cải lương mới được nhắc nhở trong cộng đồng qua các cuộc thi hát Vọng cổ. Sau hai chục năm, một thế hệ huynh trưởng trẻ lớn lên và trưởng thành. Sự tham gia của lớp huynh trưởng trẻ này đã phần nào thay đổi bộ mặt sinh hoạt của Gia đình Phật tử. Họ sát cánh với các đoàn thể trẻ khác thực hiện các công tác xã hội. Ði bộ cho thuyền nhân Pallawan, Cứu trợ bão lụt miền Trung Việt nam và Trung Mỹ, Rửa xe gây quỹ tặng bữa ăn cho người vô gia cư, Xuống đường quyên góp cứu trợ thiên tai trong nước &. Ðây là những sinh hoạt hoàn toàn mới lạ với Gia đình Phật tử. Nhưng lòng nhiệt thành và tính cách năng nổ, tháo vát của tuổi trẻ giúp họ tích cực tham gia không chút bỡ ngỡ. Ý thức trách nhiệm của những người mang danh tị nạn, lòng luôn hướng về quê hương còn nhiều khổ đau, Gia đình Phật tử cũng có mặt trong những lần biểu dương sức mạnh Cộng Ðồng Người Việt như Diễn Hành Mừng Xuân, Vận động Bầu cử Hoa kỳ&. Ðặc biệt, vụ Trần Trường năm 1999, họ đã góp công không nhỏ để đạt được sự thành công hoàn toàn trong việc dẹp cờ cộng sản và hình Hồ Chí Minh trong tiệm Hi-Tech trên đường Bolsa.

Gia đình Phật tử là một phong trào tuổi trẻ mới thành lập trên 50 năm và 25 năm nơi hải ngoại. Tuy thành tựu khích lệ. Song thời gian quá ngắn để họ lớn lên vững vàng. Hướng tới, đường đi tuy rõ ràng. Mà kinh nghiệm, chắc chắn không đủ đáp ứng sự phát triển quá nhanh. Ðôi khi họ cũng bị chao đảo, phân vân. Nhưng may mắn, họ luôn luôn có Thầy bên cạnh nhắc nhở: Việt nam lên đường. Họ biết sống xứng đáng là người Việt-nam và phát huy tính cách của người con Phật. Mùa xuân này, lại thêm một dịp để họ chứng tỏ tấm lòng thiết tha với văn hóa dân tộc. Năm mới sắp về thêm thời gian cho họ kiên cố tình người hăng say phục vụ.

Nguồn: https://sentrangusa.com/2021/10/21/tam-hoa-ngo-manh-thu-2000-gia-dinh-phat-tu-viet-nam-tai-hoa-ky/

Kết luận:
Gần 200 năm trôi qua, Đạo Phật VN đang bị các thế lực chính trị thủ đoạn – đoanh vậy – thao túng, chính trị hóa Phật Giáo, phá vỡ tinh thần đại đoàn kết, đẩy lùi nhân bản, tự do dân chủ – tự do tín ngưỡng – tự do tôn giáo, chìm nghĩm giữa đêm đen, đánh rơi tinh thân giác ngộ – giải thoát. Trước nỗi đau thương nghiệt ngã kéo dài triền miên, ai sẽ là người tri thức, có tâm huyết với tiền đồ Phật Giáo – dân tộc, là ánh sao rực sáng giữa muôn sao lấp lánh – là ánh đuốc giữa đêm đen. Với tinh thần vô úy – vị tha – vô ngã, mạnh dạn nhận lãnh sứ mệnh truyền đăng, thắp sáng – đánh thức lương tri, làm cho Đạo Phật vươn mình trỗi dậy, tạo nên sức sống Đạo Phật kỳ vĩ, khỏi nhục bản hoài xuất thế cao thượng ! Trong phong trào chấn hưng Phật Giáo, nhiều Danh Tăng Thạc Đức, nhiều Thiện Sĩ Tri Thức đã có công đức lớn, dốc lòng phát triển – hộ đạo đi vào lịch sử Việt Nam bất diệt.

Vì phong trào chấn hưng Phật Giáo, Nhiều Cao Tăng Thạc Đức, nhiều Thiện Sĩ Tri Thức vô úy đứng lên, nhiều tổ chức Phật Giáo, nhiều trường giảng dạy Phật học, nhiều trại huấn luyện GĐPTVN, được liên tục tổ chức ở khắp ba miền, nhằm mục đích đào tạo nhiều Tăng – Ni, nhiều Huynh Trưởng tài ba, đóng góp nhiệt huyết cho phong trào – cho dân tộc Việt Nam.

Tất cả đều tập trung vì công cuộc chấn hưng Phật Giáo Việt Nam ./-

Sưu tập và biên soạn




CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC

CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC
– Phan Văn Huy Tâm –

Chánh niệm tỉnh giác – Satisampajanna, thuật ngữ nói đến nếp sống tỉnh thức an lạc. Thực tâp chánh niệm “quán thân trên thân – kàye kàyànupassanà”, tĩnh tâm – sáng suốt nhận thức tiến trình sinh hoạt thường nhật (làm việc – ăn uống – ngủ nghỉ) an trú chánh niệm ngộ nhập tri kiến.

Tu Phật là tu lấy cái tâm của mình, làm việc Phật là làm cái việc giải quyết cái thâm sâu – cái thăm thẳm khúc mắc của nội tâm. Với cái tâm lăng xăng – vọng niệm, với việc làm lòng vòng của thế tục để làm việc Phật – tìm trâu, thì nó cứ mãi trược dài, khó mà tìm thấy được dấu trâu – thấy được chân tâm.

Gia Đình Phật Tử là một dòng tu, các sinh hoạt: Hoạt động thanh niên – văn nghệ – thủ công – nữ công – gia chánh… là những phương tiện hóa thành chuyển hóa chúng sanh tham mê ngũ dục vượt thoát nhà lửa, bước vào tỉnh thức vươn đến cứu cánh “chánh niệm tỉnh giác”.

“… có các pháp, này các Tỳ kheo, làm trú xứ cho niệm giác chi. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời đây là món ăn khiến cho niệm giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay đối với niệm giác chi đã sanh khởi kiến cho được tu tập, làm cho viên mãn…” – Siddhãrtha Gautama-

Huynh trưởng GĐPT tinh tấn thực tập Tu – Học đạt đến giác ngộ – Giải thoát.
Tam độc, ba trạng thái tinh thần vô minh: Tham – Sân – Si.

  • a. Tham: Xuất phát từ ái dục, giác quan (sáu giác quan: mắt – tai – mũi – lưỡi – thân – ý) tiếp xúc với Lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) – Lục dục:

Lục dục, sáu sự ham muốn:

  • 1. Sắc dục: Thấy những màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng… Thấy sắc đẹp của nam – nữ… đem lòng ham muốn si mê.
  • 2. Hình mạo dục: Thấy hình tướng tốt đẹp – vẽ mặt khôi ngô… đem lòng ham muốn – đắm mê.
  • 3. Oai nghi tư thái dục: Thấy hình dạng đi – đứng – ngồi – nằm, những nụ cười – duyên dáng đoan trang – xinh đẹp… đem lòng ham muốn tham đắm.
  • 4. Ngữ ngôn âm thinh dục: Nghe lời nói dịu dàng – êm ái ngọt ngào sanh lòng thích thú, nghe câu ca tiếng hát thanh tao đem lòng ham mê đắm đuối.
  • 5. Tế hoạt dục: Va chạm làn da mịn màng trơn láng – trắng trẻo, đem lòng thích thú say mê.
  • 6. Nhơn tướng dục: Thấy tướng mạo xinh đẹp đáng vẽ yêu kiều đem lòng ham muốn đắm say.
  • b. Sân: Chạm vào tự ái làm cho không vui – không bằng lòng – bất toại nguyện – bất mãn – ác ý – thù hận – chống phá.
  • c. Si: Trạng thái ảo tưởng, mê mờ lầm lạc. Tâm si mê – mù quáng.

Qua trạng thái tiếp xúc sanh ra luyến ái ưa thích bám víu dính mắc “Khổ”. Dùng trí tuệ giản trạch – phân biệt, tỉnh táo sáng suốt, tâm cởi mở hỷ xả, đó là Biết Tu.
Người Huynh trưởng Phật tử cư sĩ tại gia quy y Tam Bảo: Thọ trì Năm giới –

Thập thiện giới – Bồ tát giới tại gia chưa biết dừng lại – mãi miết vọng tâm rong chơi điên đảo – thả lòng viễn vọng – tạo nghiệp bất thiện.

Biết sửa đổi những tật xấu bất thiện trở thành tốt đẹp thiện lành gọi là tu. Muốn giải khổ được vui – an lạc hạnh phúc – hoàn thiện nhân cách, người Huynh trưởng Phật tử cư sĩ tại gia phải biết tu – tu hoài – tu cả cuộc đời.

Phật hỏi các thầy Tỳ-kheo:

  • Nếu trong tịnh thất của các ông có ba con rắn độc chui vào, các ông có ngủ yên được không ? Các thầy thưa:
  • Bạch Thế Tôn, chúng con ngủ không yên. Phật hỏi:
  • Làm sao các ông ngủ mới yên ? Các thầy thưa:
  • Muốn ngủ yên chúng con phải đuổi ba con rắn độc ra khỏi tịnh thất.

Tu là chuyển hóa tam nghiệp “Thân – Khẩu – Ý” từ tiêu cực sang chiều hướng tích cực, từ chưa thiện lương sang toàn thiện. Tu là biết kềm chế những suy nghĩ – hành vi sai trái, thực hành đúng đắn chân lý – chánh pháp “Tam vô lậu học:

Giớí – Định – Tuệ”:

  • Giới là đạo đức – là phương cách sống đối nhân xử thế: Đối với ông bà – cha mẹ – đối với xã hội theo chuẩn mực đạo đức nhất định.
  • Định là làm chủ tâm ý vào chánh niệm, làm cho thân – tâm được thanh sạch.
  • Tuệ là tỏ sáng – là nhận thức đúng đắn – đúng chân lý.

“Thế giới ta bà dẫy đầy hầm hố – chông gai, đức Phật ấn chân xuống mặt đất – tịnh độ hiện ra. Tịnh độ là Thường Tịch Quang – là thế giới thiền định”‘Kinh Duy Ma Cật’.

Thiền – Tịnh song tu:

  • Tịnh độ: Chuyên tâm tụng kinh – niệm Phật – làm lành lánh dữ – gieo duyên tạo phước – trồng căn lành hồi hướng vãng sanh.
  • Thiền định: Thiền là phương tiện chuyển hóa tâm thức – là thực tập chú ý giảm căng thẳng – xua tan những mối bận tâm – không suy luận phân tích phán xét khoảnh khắc hiện tai. Thiền là trạng thái tâm ý tĩnh tại – chánh niệm tràn đầy năng lượng – nhận chân bản chất thực tại – kiểm soát hành vi – điều chỉnh thay đổi tích cực đời sống – nuôi dưỡng an lạc thực tại.

Thực tập Thiền định “Tứ Thiền”:

Sơ thiền:

Ngồi yên lặng tâm thư giãn buông xả – an trú vào hơi thở tự nhiên ‘số tức hoặc tùy tức’ – hoặc niệm một Phật hiệu. Thầm lặng không cố găng, nhưng không lơ đễnh – giãi đãi. Những trang thái hôn trầm thụy miên ‘buồn ngủ’ xảy ra, những cảm giác tinh tế: Nghứa ngáy – âm thanh – mùi vị – nóng lạnh – hờn giận – buồn phiền xuất hiện, tập trung vào hơi thở hay câu niệm Phật lập đi lập lại nhiều lần, chúng giảm dần và qua đi, đần dần an tịnh, tâm quân bình an trú nhất tâm ‘xả’.

Đây là nền tảng sơ thiền sắc giới ‘tầm – tứ – hỷ – lạc – nhất tâm’.

Đức Phật dạy: “Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo ly dục, ly bất thiện pháp… chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ, với hỷ lạc do ly dục sanh. Vị ấy thấm nhuần – tẩm ướt, làm cho sung mãn – tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh. Không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ kheo, như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, vị Tỷ kheo thấm nhuần – tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.”

Theo Thanh Tịnh Đạo Luận: “Ly dục” có nghĩa là thoát ly những đối tượng dục, là thân được viễn ly. “Ly bất thiện pháp” là từ bỏ những cấu uế của tâm thức tức là dục vọng, hoặc từ bỏ tất cả bất thiện pháp, tâm được viễn ly. Ly dục là từ bỏ khoái lạc giác quan, xa lìa ái dục’. “Ly bất thiện pháp là viễn ly khoái lạc – xa lìa ái dục cấu uế của tâm”. Ly dục là từ bỏ cái nhân của tham – ly bất thiện pháp là từ bỏ cái nhân của si. Ly dục là thanh tịnh thân nghiệp – ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp.

Trong sơ thiền, hành giả từ bỏ được năm triền cái ‘năm chướng ngại’: Tham dục – Sân hận – Hôn trầm– Trạo cử – Hoài nghi’:

  • Hôn trầm: Là mệt mỏi – buồn ngủ.
  • Trạo cử: Vi Diệu Pháp Tập Luận của Vô Trước định nghĩa: Trạo cử là trạng thái không yên ổn của tâm, là dẫn xuất của tham chấp – theo đuổi các đối tượng dễ chịu, tác động làm trở ngại thiền định.

Và thành tựu năm thiền chi: Tầm – Tứ – Hỷ – Lạc – Nhất tâm:

  • Tầm: “Tầm là tâm sở đánh thức tâm hướng đến đề mục thiền định. Giống như con bướm tìm thấy bông hoa – hăng hái bay về huớng có hoa. Nhưng nếu tâm cứ trầm trệ – giãi đãi – bỏ rơi đối tượng, giống như con bướm chưa tới được cành hoa đã lười biếng bỏ cuộc. Tức là tầm chưa đủ tinh cần nỗ lực để vượt qua trạng thái buông xuôi tiêu cực. Khi tầm không đủ lực hướng đến đối tượng thì bị hôn trầm – thụy miên chế ngự”.

Thụy miên: Gọi tắt là Miên tên của một tâm sở ‘1 trong 75 pháp của Câu xá, 1 trong 100 pháp của Duy thức’. Thụy miên là bản chất mờ tối sẵn có trong tâm, dưới trạng thái lười mệt – chểnh mảng.

Khi đang ngủ ‘thụy miên’ thì sự quan sát đối với thế giới bên ngoài mất hết tác dụng, tâm thức tối tăm – mơ hồ – vô ý thức.

  • Tứ: “Tứ là tâm sở giữ tâm vững chãi đề mục thiền định. Giống như con bướm đã bay đến đóa hoa liền tìm cách giữ thăng bằng để đậu lại trên hoa. Nhưng nếu tâm chưa dừng yên vào đối tượng còn lưỡng lự bất quyết, giống như con bướm đã đậu xuống đóa hoa mà vẫn chưa bám chắc lại hẳn nên còn chớp cánh chờ bay đi, tức là tứ chưa vững vàng dừng lại trên đề mục. Nhưng khi tứ đã vững thì không còn trạng thái phân vân do dự của Nghi”.
  • Hỷ: “Trạng thái xuất hiện cùng với sự đoạn trừ năm triền cái. Khi quán xét thấy năm triền cái đã được từ bỏ – trong thân hân hoan khởi lên, nhờ hân hoan hỷ được phát sanh. Khi đã có hỷ, thân trở nên khinh an. Như con bướm hứng thú thưởng thức mật hoa. Nếu tâm chưa phát sinh hỷ, còn căng thẳng hay cố gắng quá mức, giống như con bướm chưa vừa ý vì chưa hút được mật hoa. Khi tâm đã tìm thấy sự hoan hỷ thích thú vào đề mục thiền định thì Sân được chế ngự”.
  • Lạc: “Thế nào là lạc ? Sự sảng khoái về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, cảm giác sảng khoái và dễ chịu do tâm Xúc phát sanh, Trạng thái cảm thọ sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm Xúc gọi là lạc.

Là trạng thái tâm sở bình yên – an ổn vào đề mục thiền định, giống như con bướm đã hút mật đầy đủ, không còn lo lắng hay tìm kiếm lăng xăng, lạc chế ngự được Trạo hối: ‘hối hận việc đã làm – làm cho tâm không yên ổn’.

  • Nhất Tâm: Nhất tâm hướng đến toàn thiện, ngăn ngừa những ảnh hưởng bất thiện, đặc biệt là tham dục triền cái.

Khi các triền cái vắng mặt, nhất tâm tích tụ một sức mạnh đặc biệt trong thiền dựa trên nỗ lực tập trung được duy trì trước đó.

Mỗi thiền chi có chức năng và nhiệm vụ chế ngự và đoạn trừ mỗi triền cái: Tầm chế ngự đoạn trừ hôn trầm thụy miên – Tứ đoạn trừ nghi – Hỷ đoạn trừ sân – Lạc đoạn trừ trạo hối – Nhất tâm đoạn trừ tham dục.

Nói như thế không có nghĩa là mỗi thiền chi chỉ duy nhất đoạn trừ mỗi triền cái tương ứng. Ngoài chức năng và nhiệm vụ chính nó còn trợ duyên lẫn nhau đoạn trừ năm triền cái.

Kinh Mahāvedalla, thuộc Trung bộ 43 dạy:
“Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ kheo thành tựu Thiền thứ nhất, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thùy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm – tứ – hỷ – lạc – nhất tâm.”

Trong Sơ thiền, lìa bỏ được các ham muốn thế gian, niềm an vui nội tâm đầy đủ – thanh khiết. Toàn thân luôn ở trong trạng thái vui vẻ hỷ lạc nhè nhẹ và tràn đầy. Sự thành tựu công phu tạo nên kiến giải Phật Pháp hoạt bát dễ dàng đối đáp trôi chảy, say sưa diễn thuyết lưu loát. Sơ thiền rất vĩ đại nhưng ẩn chứa nhiều nguy cơ về mặt đạo đức. Đức Phật khuyến nhủ không nên an trú – đắm say trong tầng thiền này quá lâu.

Nhị thiền:
Kinh Sa-môn Quả – Samannaphala Sutta, đức Phật dạy về nhị thiền: Hỷ lạc do định sanh, tỷ kheo thấm nhuấn, tràn đầy không sót chỗ nào trên thân hình.

Hỷ và lạc là hai niềm vui tinh thần luôn đi đôi với nhau. Nhị thiền sử dụng tâm Hỷ làm nền phía sau, và Lạc làm nền phía trước. Trong thiền tâm từ thường nói “cần phải tự làm tràn đầy niềm vui từ đầu đến chân”. Nếu làm được như thế, sẽ dẫn lối vào các tầng thiền định.

Đức Phật đưa ra một ẩn dụ cho nhị thiền: Ví như một hồ nước dâng lên phương: Đông – Tây – Nam – Bắc, thỉnh thoảng lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước phun ra thấm nhuần – tắm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước – thấm nhuần mát lạnh . Cũng vậy, tỷ kheo thấm nhuần – tắm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định phát sanh. (Câu 78).

Tam Thiền:
Sau một khoảng thời gian cần phải buông bỏ hỷ lạc, dẫu cảm thấy nó thoải mái – dễ chịu thấm đẫm tự tại vô cùng. Hai tầng thiền đầu tiên cảm thấy xảy ra bên trên, với tầng thiền định thứ ba, cảm thấy tâm sâu lắng hơn.

Đức Phật đã dạy về tầng thiền thứ ba:
Lại nữa, tỷ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là “xả niệm lạc trú, chứng và an trú thiền thứ ba”.

Tính chất của tam thiền là ‘xả’. Trước tiên là ly hỷ lạc. Nếu không, khó thể tiếp tục hành thiền. Thực tập buông bỏ có chủ đích sau khi đã hoàn toàn thấm đẫm hỷ lạc. Xả ly niềm vui nội tại bằng cách không chú tâm đến nó nữa, nó tự biến mất.
Đức Phật đưa ra một ẩn dụ cho tam thiền:

Ví như trong hồ: sen xanh – sen hồng – sen trắng lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, từ đầu ngọn đến gốc rễ đều thấm nhuần tắm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh, không một chỗ nào của toàn thân thể mà không được thấm nhuần nước mát lạnh. Cũng vậy, tỷ kheo thấm nhuần – tắm ướt, làm cho sung mãn – tràn đầy thân mình với Lạc – Thọ không có Hỷ, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ thấm nhuần. (Câu 79).

Tứ thiền:
“Tỷ kheo, xả lạc – xả khổ – diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư không khổ – không lạc – xả niệm thanh tịnh”. -Kinh Sa Môn Quả – đoạn 81-

Đây là mức thiền cuối cùng và cao nhất trong bốn cấp độ để đạt được trạng thái “xả lạc – xả khổ – xả niệm thanh tịnh”

Muốn “xả lạc – xả khổ – xả niệm thanh tịnh” thì phải trú tâm vào một đối tượng duy nhất vào hơi thở dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ thân hành thì xả lạc – xả khổ – xả niệm thanh tịnh sẽ đạt được kết quả.

Lạc – khổ và thanh tịnh là ba trạng thái của thọ, tức là cảm thọ:

1. Thọ lạc.
2. Thọ khổ.
3. Thọ bất lạc bất khổ tức là niệm thanh tịnh.

Trong phần cảm thọ có hai:

1. Cảm thọ thuộc về thân.
2. Cảm thọ thuộc về tâm.

Lạc và khổ thuộc cảm thọ về thân, còn hỷ và niệm thanh tịnh thuộc cảm thọ về tâm. Như vậy ly hỷ – xả lạc – xả khổ và xả niệm thanh tịnh là xả cảm thọ về thân và tâm. Xả cảm thọ về thân và tâm là tịnh chỉ các hành trong thân và tâm. Cho nên người nhập Tứ Thiền toàn thân tâm bất động, thân tâm không còn rung động thì hơi thở tịnh chỉ.

Theo Đại thừa A-tỳ-đạt-ma Tạp tập luận 9 thì: Thiền định câu hữu với bốn chi là: Xả thanh tịnh – niệm thanh tịnh – bất khổ bất lạc thọ và tâm nhất tánh cảnh. Thiền định lìa thoát trạng thái diệu lạc của tam thiền, cho nên gọi là “Xả thanh tịnh”, có thể tu dưỡng công đức nên gọi là “Niệm thanh tịnh” nên trụ vào cảm thọ không khổ không vui. Định có khả năng đối trị được năm loại: Hơi thở ra vào – tham – lạc – tác ý lạc – định hạ liệt tánh của đệ tam thiền định, làm chướng nạn cho việc tu tập.

Tứ thiền nhiếp thu: Tầm – tứ – hỷ – lạc, các chi Tịnh lự. Theo Tạp A-hàm 17 (Đ. 2, tr. 121b) thì thứ tự: Vào chánh thọ Sơ thiền là đình chỉ ngôn ngữ – Vào chánh thọ nhị thiền thì đình chỉ giác quán (tầm, tứ) – Vào chánh thọ tam thiền thì đình chỉ tâm hỷ – Vào chánh thọ tứ thiền thì đình chỉ hơi thở ra vào.

Thiền là một thuật ngữ dùng để chỉ những phương pháp thực tập khác nhau, nhưng với một mục đích duy nhất là: Đạt đến kinh nghiệm “Tỉnh giác” – “Giải thoát” – “Giác ngộ”.

Thiền là một hoạt động thực hành mà người hành thiền sử dụng một kỹ thuật như: Giác sát hoặc tập trung tâm trí vào một đối tượng, suy nghĩ hoặc hoạt động cụ thể để rèn luyện sự chú ý và nhận thức, đồng thời đạt được trạng thái tinh thần minh mẫn và cảm xúc bình tĩnh và ổn địn, đạt đến tâm thức an tĩnh.

Thiền làm giảm căng thẳng – lo lắng – trầm cảm và đau đớn, và tăng cường sự bình an – nhận thức – quan niệm về bản thân và hạnh phúc thực tại hướng thượng ./-

Houston, 0:00h, 08082024.




CON NGỰA HOANG TRONG ĐẦM LẦY

CON NGỰA HOANG TRONG ĐẦM LẦY

Ở ngóc ngách thâm sâu nào đó nơi đáy tận cùng xã hội vẫn còn đây vẫn tồn tại thế giới ngầm đen tối được dựng xây bởi thế lực tạo nên đào luyện nhuộm đen loài ngạ quỉ ăn đêm đa mưu quỉ kế hóa thân thành nàng hoa hương sắc sáo trúc ngâm ca đàn múa quay cuồng tâm hồn dối gian não loạn gầm gừ cám dỗ cơn mê tóm thân thế lực phó mặc đoanh vây phá rối ngầm gậm nhấm bào mòn rút tỉa dần hồi sức sống thương tổn thịt da chuyển hướng thành thui chột mãi ngây hoan tanh tửi đầm lầy hoang dại mơ hồ khờ khạo ảo tưởng hoa

Có còn đâu đồng cỏ non xanh ngát lưng trời ánh sáng ban mai không còn rồi tắt ngắm vết hằn trên lưng oằn nặng bầy ngựa hoang lạc lõng cơn giông âm thầm ngầy ngụa bóng tối đen ngòm mông muội hoang sơ Ôi ! một thời quang huy làm nên sức sống trên thế giới huy hoàng mở hội đoàn viên để bây giờ biến động triền miên uất nghẹn bởi bời một phút sơ tâm hời hợt mềm lòng tạo nên kẻ hở cho bàn tay thô bạo nham nhúa thò vào làm tan tác mỗi phương trời dậy sóng tình cảm khói hương truyền thống bổng chốc nhạc phai xa mặt cách lòng

Ôi ! đau đớn thay xót xa biết bao công đức chư lịch đại tổ sư những tiền nhân đi trước nằm gai nếm mật cân nảo dựng xây tâm huyết bổng chốc tàn phai bởi thế hệ kỷ nguyên đen Cả thế giới ba ngàn đổ mồ hôi sôi nước mắt thấm đẫm máu xương lương tri nhút nhối thôi rồi một thời vàng son còn đâu nữa biết bao người ra đi và nằm xuống bèo dạt mây trôi lễnh đênh cùng vận nước để mà tiếc nuối hoài thương mộng vỡ tan rồi !…

Houston, 16072024




CẢM NIỆM

CẢM NIỆM
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Hôm nay, ngày 22 tháng 05 năm Giáp Ngọ, thay mặt BHD và toàn thể lam viên Bình Thuận, đang hướng vọng về – tề tựu trước linh đường, tâm thành hướng lòng về anh, người Huynh trưởng Cấp Dũng GĐPTVN, nguyên Phó trưởng BHD Bình Thuận.

Anh Bổn Đồng PHẠM LỢI thương kính!

“Xuân Hạ Thu Đông bốn mùa luân chuyển
“Kiếp nhân sinh hiển hiện một thân người
“Thuyền ngược xuôi qua biển khổ đầy vơi
“Nương bến giác rời xa khổ ải”

77 năm mang thân phận phù hư, anh đã sớm giác ngộ hồng trần là huyển mộng. anh mạnh dạn dấn thân vào nẻo đạo. 54 năm liên tục sinh hoạt GĐPTVN, hy hiến cả cuộc đời, kề vai cùng BHD Bình Thuận gánh vát sứ mệnh nhà lam. Có những năm tháng dầu sôi lửa bỏng, đã nuôi dưỡng – tôi luyện ý chí kiên trung, giữ vững khí tiết cao cả, bất chấp nguy nan, anh tĩnh tại vô úy để thành toàn đạo nghiệp.

Những năm cuối đời, dù thân lâm trọng bệnh, anh vẫn thao thức miệt mài lo toan cho tổ chức – vì tiền đồ áo lam, anh đã góp phần công đức to lớn trong sự nghiệp giữ vững – duy trì và phát triển nền văn hóa giáo dục xã kỷ – vị tha – GĐPT tại địa phương. Anh đã hy hiến trọn đời phụng sự cho đạo pháp – cho dân tộc và cho lý tưởng GĐPTVN.

Dù thân tứ đại đã hết duyên, dù giữa dòng đời thuận nghịch bôn ba, anh nhẹ nhàng thong dong trả về cho giả hợp. Nhưng đại nguyện của anh vẫn còn đây, được tiếp nối qua biết bao kỳ trại huấn luyện, biết bao lễ truyền đăng, thế hệ đàn em hôm nay, tiếp tục hoài bảo, thắp sáng ánh đuốc vô tận đăng truyền thừa mai hậu.

“Trang sử Việt sáng bừng thêm sức sống
“Đòng sử lam lan tỏa mãi truyền ghi”

Cuộc đời của anh Bổn Đồng PHẠM LỢI là vầng nhật nguyệt tinh khôi, hạnh nguyện của anh luôn luôn là dấu ấn khắc ghi tồn tại mãi mãi trong mỗi trái tim lam thổn thức, là niềm tự hào – là bài học lung linh sáng ngời cho toàn thể lam viên Bình Thuận noi dấu thực tập – tu học.

“Đài liên quyện tỏa khói trầm hương
“Bát nhã trăng soi sáng dặm trường”

Trước hương đàn linh nghiêm, BHD và toàn thể lam viên Bình Thuận, thành kính thắp nén hương lòng, cầu nguyện Tam Bảo phóng quang tiếp độ, chơn linh Huynh trưởng Cấp Dũng GĐPTVN Bổn Đồng PHẠM LỢI, nhẹ nhàng siêu thoát, an trú vững chãi trong lý tưởng giác ngộ.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật




BỒ TÁT HẠNH Ý NHỊ UYÊN THÂM

BỒ TÁT HẠNH Ý NHỊ UYÊN THÂM

Đạo đức dân tộc tha hóa – hỗn loạn, Phật Giáo Việt Nam suy thoái – tan tác, Gia Đình Phật Tử Việt Nam đang từng bước bị bức hại. Người Huynh trưởng GĐPTVN có tâm huyết với tiền đồ tổ chức – đạo pháp – dân tộc, xót xa đau đớn đến vô cùng!

Đứng trước bối cảnh lịch sử thương đau, trên hành trình thực tập Bồ tát hạnh ý nhị uyên thâm, nối tiếp chí nguyện truyền đăng mà Chư Tôn Đức Cố Vấn và các anh – chị trưởng bối đi trước truyền trao. Ý thức sứ mệnh thiêng liêng, phát đại nguyện thị hiện dấn thân, vững bước nhập thế đem đạo vào đời, góp phần tích cực hướng dẫn tuổi trẻ – Đoàn sinh GĐPTVN, phát khởi tín tâm, hướng tới thiện hóa cuộc sống. Từ tục đế, Huynh trưởng GĐPT tu học tư tưởng đại thừa Duymacật. Bằng trí tuệ siêu việt và nghị lực tự thân vững chãi, vân dụng bất tư nghì giải thoát, đạt đến vô thượng bồ đề – hoa khai bát nhã – nhất chân phi sắc phi không, nhập thế chuyển hóa xã hội, kiến lập trường tồn cảnh giới tòng lâm GĐPTVN – tịnh độ Phật quốc ngay tại uế độ ta bà này

Tư tưởng Duymacật được hình thành trên tinh thần Bát nhã – tánh không, bàng bạc lý diệu hữu Hoa nghiêm. Hiện tượng có chi phối bởi quy luật vô thường, nhưng chân như vẫn vĩnh hằng tồn tại – bất biến

“Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
“Đêm qua sân trước một nhành mai”
– Mãn Giác thiền sư –

Mặc dù mùa Xuân đã đi qua, hoa kia có rụng hết. Nhưng có ngờ đâu, còn có một nhành mai!

Chúng ta may mắn thay! diễm phúc còn có sự hiện diện hi hữu của một thực thể trẻ trung, đó là Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Đang nhận sứ mệnh thiêng liêng, làm công tác thuần túy văn hóa – giáo dục – đạo đức tâm linh. Được các anh các chị trưởng bối đi trước dày công truyền thừa, qui tụ nhiều thế hệ Huynh trưởng Phật tử, ắp đầy nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến – hi sinh bảo tồn – duy trì mạng mạch Như Lai

Đứng trước phong ba bảo táp, thốc vào cuộc sống cuồng loạn, làm xáo trộn thuần phong – đạo đức, nếp sống dịu hiền – trầm tĩnh vốn có của dân tộc Việt Nam. Thế hệ hôm nay phải biết quay về, tìm lại cội nguồn truyền thống tâm linh, tinh thần văn hóa của Tổ tiên xưa, mà hãnh diện, mà xót xa trân quí !

Nếp sống trãi nghiệm tốt đẹp của bao lớp tiền nhân, kinh qua biết bao thời đại, các thiền sư – thiện sĩ tri thức. Phật giáo Việt Nam luôn luôn xả kỉ – vị tha, kề vai gánh vác nguy nan, cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, hi sinh xả thân vì đại nghĩa, cứu nguy đất nước – đạo pháp trong dầu sôi lửa bỏng, đưa dân tộc thoát khỏi ách xiềng gông – nô lệ bị trị, đem yên vui – thanh bình cho thế hệ con cháu mai sau

Đứng trước làn sóng cuồng loạn của nền văn minh khoa học, đang khủng bố tinh thần nhân loại, đẩy con người chênh vênh bên hầm lửa tự hủy diệt. Phập phòng âu lo, không biết rồi đây, lò lửa to lớn ấy sẽ bùng nổ, phủ trùm – hủy diệt cả thế giới này thành tro bụi

Hãi sợ trước sự tàn phá kinh khủng, sẽ xảy ra bất cứ lúc nào. Các nhà khoa học đang ráo riết tìm kiếm phương cách lấp liếm, vá lại những sai lầm đã bị rách nát tồi tệ…

Bất lực trước tinh thần đạo đức xuống cấp trầm trọng, nhân loại có nguy cơ đi dần đến thoái hóa diệt vong. Đa số những nhà tri thức phương Tây, đang thiết tha nhìn về phương Đông, kì vọng ở đây có một ánh sáng mới, làm chỗ dựa tinh thần, có căn bản đạo đức kì vĩ, đủ năng lực huyền nhiệm chuyển hóa – tạo nên một nền tảng mới mẻ về cuộc sống cao đẹp hơn, có í thức cộng động hơn. Con người sống mà “biết sống” cho mình và sống cho mọi người, thì chắc chắn con người ấy, sẽ tìm ra một “ý nghĩa sống” trọn vẹn, biết trân trọng – yêu quí cuộc sống vị tha

“Phụng sự chúng sinh, là thiết thực cúng dường chư Phật”

“Hoàn thành nhân cách đạo đức, tức là Phật Đà”.

Văn hóa Phật giáo há không phải là một cuộc dấn thân, tạo nên một nền tảng khai phóng, giáo dục đạo đức kì vĩ – tuyệt bích ! Những đóa hoa Ưu Đàm rực rỡ tươi đẹp của các thiền sư – thiện sĩ thời Lý – Trần, đem lại cho dân tộc những hạt châu long lanh, đã được cọ xát giữa dòng đời, tạo nên một dòng sống, một nguồn văn hóa đạo đức tỏa sáng hào quang rực rỡ, từ nguồn tinh hoa này, đã định hướng cho toàn thế giới. Nhân loại được diễm phúc tắm mình trong nguồn Phật chất vô biên, sẽ được an lạc hoàn toàn, nhân gian này sẽ trở thành tịnh độ vĩnh cữu

Phan Chu Trinh rất tin tưởng ở sự đóng góp tích cực to lớn của Phật giáo cho nước nhà: “Nước Đại Nam chúng ta, ngày nay sở dĩ yếu hèn, là vì thiếu tinh thần tôn giáo. Tôn giáo luôn cho ta đức hy sinh, coi nhẹ tính mạng, phá sản vì đạo. Không có tinh thần tôn giáo, chúng ta không biết cương cường, xả thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ cái lối sống của mình. Nay bà con thử xét, đời Trần, sao dân tộc ta hùng dũng như vậy, chẳng phải là nhờ đạo Phật ở ta, thời đó rất thịnh ư ? Nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư ?”

han Khôi không phải là Phật tử, nhưng ông đã đồng tình: “Vào thuở nhà Lý, nhà Trần, đạo Phật tràn ngập cả nước, chùa chiền khắp nơi, thầy tu làm dân tráng. Nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược như hồi Lê trung hưng hay Nguyễn thống nhất, là thời Nho học thịnh hành. Trái lại, nhà Lý – nhà Trần mạnh lắm, dân khí còn hăng lắm, mấy phen giặc Tàu sang, chúng ta đuổi như đuổi vịt. Lịch sử là cái chứng minh lắm, không ai cải được. Nó đã làm bằng chứng cho Phật giáo. Không phải là một thứ như thuốc phiện, làm mòn yếu con người” ./-




HỒI KÝ CUỐN THEO CHIỀU GIÓ – MENU




LỜI VÀO ĐẦU

“ I have forgot much, Cynara! gone with the wind,
“ Flung roses, roses riotously with the throng,
“ Dancing, to put thy pale, lost lilies out of mind…”

– Non Sum Qualis Eram Bonae sub Regno Cynarae – Thơ của Ernest Dowson: –

‘ Tôi đã quên nhiều rồi, Cynara! cuốn theo chiều gió,

‘ Tung hoa hồng, hoa hồng náo loạn giữa lòng đời,

‘ Khiêu vũ, để quên đi những bông hoa loa kèn lạc lối, nhợt nhạt trong đời em…’

Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

Tôi rất yêu thích viết văn – làm thơ – viết hồi ký. Tiếc rằng những bài văn – bài thơ trước đây đã bị lưu lạc theo chiến tranh. Sau 1975, trở về lại quê nhà, nghiệp tầm nhã tơ – tôi lại tiếp tục viết. Vì tính chất công việc và sinh kế phải di dời đi nhiều nơi, tôi rất trân quý cất giữ cẩn thận, nhưng không hiểu vì lý do nào đó mà nó lại thất lạc thêm một lần nữa, làm cho tôi tiếc nuối đến vô cùng. Những sáng tác về các thể loại văn – thơ – hồi ký trong thời gian qua, đến giờ phút này lên đến hàng trăm tác phẩm. Có lẽ đây là nghiệp dĩ – nợ văn chương, nếu sức khỏe còn dài – hơi thở chưa mỏn tôi vẫn tiếp tục chấp bút…

Tâm niệm của chúng tôi là sống thật thà, không quanh co – dấu diếm – tránh né. Không ưa bất công – yêu chuộng tự do – có đời sống tĩnh tại. Những bài viết hầu hết đều mang tính tả chân – lột trần như thật, hướng đến làm mới cách nhìn – cách làm việc. Có lẽ ít nhiều cũng làm chạm lòng những ai đó có tâm sự – ganh tị – hơn thua hèn mọn, nếu có chạnh lòng, thì mong rằng xem đây là phản quang tự kỷ, giúp chúng ta mạnh dạn nhìn lại – cùng nhau chuyển hóa – hướng đến hoàn thiện. Và có những bài viết mang tính lịch sử, mạnh dạn ghi lại những biến cố như thật – theo đúng lương tri của người cầm viết – của nhà viết sử, góp phần giúp cho thế hệ mại sau nhận chân được những bước đi đúng – sai của cha ông. Nếu có làm cho ai đó thiên tả phật lòng – chê trách – không vừa ý, thôi thì xin hãy chờ đó, cái gì rồi cũng có giá trị nhân – quả, thời gian rồi lịch sử sẽ trả lời !

Tại những kỳ đại hội GĐPTVN trên thế giới, quý anh chị áo lam từ các châu lục – quốc gia hội tụ về đông đảo, chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Đêm về cùng ngồi quay quần bên nhau – sách tấn nhau. Anh Tâm Đăng – Nguyễn Pháp (Trưởng BHD GĐPTVN tại hải ngoại lúc bấy giờ) và quý anh chị tình cảm tâm sự: Huy Tâm là nhà văn mà cũng là nhà thơ. Chúng tôi rất thích những bài viết của HT, rất hay – có ý nghĩa – có giá trị. Mỗi lần đọc thấy những bài văn hay bài thơ nào của HT là chúng tôi đều lưu giữ lại.

Nghe được những lời tâm sự chân tình này, đã làm cho chúng tôi bồi hồi xúc động, đây là niềm khích lệ lớn lao, giúp cho ngòi bút tôi thêm mạnh dạn – cố gắng tiếp tục chảy mực, hy vọng có thêm nhiều nét văn hoa, dệt nên nhiều tấm lụa vàng óng ả để lại cho đời – để không phụ lòng quý anh chị thương kính – bạn bè bốn phương mến yêu. Chân thành cám ơn rất nhiều !

Và chúng tôi cũng được Chư Tôn Đức Tăng – Ni, nguyên là Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT cho biết, quý Ngài cũng đã đọc và lưu lại làm tư liệu những tác phẩm của Huy Tâm.

Xin phép ghi lại nguyên văn lời Thầy Giải Ngộ nhắn nhủ:

“Thưa anh Phan Văn Huy Tâm ! Thầy đã kịp thời đọc được những bài viết của anh, hiểu được tâm sự của anh trước tình hình tổ chức và đạo pháp. Thầy chưa kịp có í kiến mà bài viết đã vội gỡ xuống. Thầy biết anh đang bị áp lực đâu đó, đáng tiếc thật !

“Nhớ một thời chư tôn đức trưởng lão đã dạy: “Thành phần tri thức trong Phật Giáo thì không nhiều, chỉ bàn bạc ít ỏi trong các vì sao, nhưng nó sáng chói long lanh như ánh sao mai rực rỡ, nhưng chỉ xuất hiện trong thoáng chốc rồi mất hẵn” tại sao ???

“Dưới ngòi bút của anh, sắc bén: “Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà…” Anh dám nghĩ, dám nói và dám viết. Một cây viết hiếm hoi ít thấy xuất hiện trên các diễn đàn trước quốc phá gia vong, đạo (tổ chức) nhược ma cường.

“Ước gì phải có những nhà lãnh đạo tài tình, không sợ hiểm nguy ít ra như vậy, may ra tổ chức, đạo pháp sớm vén màn tăm tối, đổi mới, khơi sắc …

Nghe biết được những lời tâm sự chân tình này, làm cho chúng tôi bồi hồi xúc động, đây là niềm khích lệ lớn lao, giúp cho ngòi bút chúng tôi thêm mạnh dạn – cố gắng tiếp tục chảy mực, hy vọng có thêm nhiều nét văn hoa, dệt nên nhiều tấm lụa vàng óng ả để lại cho đời – để không phụ lòng Chư Tôn Đức Tăng – Ni và quý anh chị thương kính – bạn bè bốn phương mến yêu. Xin chân thành cám ơn sự ưu ái quan tâm của chư vị rất nhiều !

Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

“Một trong những bi kịch lớn nhất của bản chất con người mà tôi biết là: tất cả chúng ta có khuynh hướng hoãn sống. Chúng ta thường mơ về những vườn hoa hồng huyền diệu xa xăm ở cuối chân trời mà không biết thưởng thức những đóa hồng đang nở rộ hôm nay ngay bên ngoài cửa sổ” -Dale Carnegie-

Nhận chân cuộc sống không phải tài sản vật chất giả tạm, mà là những khoảnh khắc sống – những trải nghiệm – những ký ức dòng đời như thật.

Trân trọng những lẽ sống giản dị, những niềm vui trải qua. Xin mượn bàn phím ghi lại tài khoản – những khoảnh khắc sống đong đầy ý nghĩa !

Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

Dẫu biết rằng “Đạo bổn vốn vô ngôn – Thế gian là huyển mộng”. Không phải viết để xưng tán cá nhân. Nhưng xin mượn ngòi bút diễn đạt lưu lại những dư âm ấn tượng dòng chảy quanh đời.

Nhưng dòng đời vốn thuận thì ít mà nghịch ý thì nhiều, nếu có những thiển ý sơ sót làm phiền lòng.

Kính xin chư thiện hữu tri thức bốn phương niệm tình hỷ xả!

Lam Nhã Thảo Am. Viết xong nửa khuya, 20 tháng 8 năm 2023.

                                                                                                            CẨN BÚT !




DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

Đời là một dòng chảy, có không – còn mất – sinh diệt đến vô cùng.

Bàu Thiêu (thuộc quận Hòa Đa – Tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ), đây là địa danh của một mật khu thời kháng chiến chống Pháp, nằm sâu trong rừng thẳm, tựa mình bên dãy Trường Sơn. Vào lúc nửa đêm, không giờ, ngày 25 tháng 5 năm 1950, giữa những tiếng gầm hống của chúa sơn lâm, tôi cất tiếng tu oa báo tin vào đời.

“Thảo nào khi mới chôn nhau
“Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”
– Ôn Như Hầu –

Tiếng khóc báo hiệu bước đi đầu tiên của một sinh linh bé nhỏ vào dòng sống khổ.

“Vừa sinh ra thì đà khóc chóe
“Trần có vui sao chẳng cười khì ?”

Sự ra đời của một sinh linh mơn mởn nhỏ bé làm chan chứa biết bao niềm hạnh phúc vỡ òa ngọt ngào của cha mẹ. Ngoài những giờ quy định sì sụp bên vú mẹ, tôi được các chú bộ đội chuyền tay nhau từ trại này qua trại khác. Tôi bụ bẫm – trắng hồng mơn mởn – xinh xắn – đễ thương được các chú gọi cưng bằng biệt danh “bé cục bột”.

“Nghĩ thân phù thế mà đau
“Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”
– Ôn Như Hầu –

Dòng đời tôi lớn lên ngụp lặn trãi dài trong biển khổ, hết chiến tranh Pháp – Nhật rồi nối tiếp nội chiến ý thức hệ – nồi da xáo thịt đau đớn đến tột cùng. Và cứ mãi miết như thế, kiếp nhân sinh ngụp lăn triền miên trong biển trần ai, thay đổi liên tục từ hiện tượng bên ngoài đến trải nghiệm suy tư Tứ thánh đế tìm ra ý nghĩa phong cách sống bên trong, nó liên kết tác động lên nhau cấu thành một hành trình đi tìm hướng sống vươn lên, tạo nên động lực lý giải bốn chơn lý giải thoát ra khỏi bản chất “khổ” nghiệp quả luân hồi.

“Bể khổ mênh mông sóng ngập trời
“Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi !
“Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
“Ngoảnh lại cùng trong biển khổ thôi !”
– Đoàn Như Khuê –

“Tạc nhật xoa tâm,
“Kim triêu Bồ tát diện.
“Bồ tát dữ Dạ xoa,
“Bất cách nhất điểu tuyển.”
‘Hôm qua lòng Dạ xoa,
‘Sáng nay mặt Bồ tát.
‘Bồ tát và Dạ xoa,
‘Chẳng cách một kẻ tóc.’
– Tục Truyền Đăng, quyển 31 –

Dạ xoa hay Bồ tát, hung ác hay từ bi cũng từ tâm mà hiển hiện. Không vọng tưởng tìm kiếm lang thang, thức tỉnh “hồi đầu bỉ ngạn”, quay trở về với bản tâm thanh tịnh chính mình, là bến bờ nương tựa, không phải hổ thẹn mai sau.

“Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
“Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
“Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
“Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thinh.
“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
“Nhật viễn gia hương vạn lý trình.”
‘Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
‘Liền trái không sanh nhận có sanh.
‘Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
‘Mắt mờ chúng sắc, tai đuổi thinh,
‘Lang thang làm khách phong trần mãi,
‘Ngày cách quê hương muôn dặm trình.’
– Trần Thái Tông –

Đang sống trong vô niệm, vọng tâm khởi niệm vô minh, liền rơi vào hữu niệm, rơi vào sanh tử, mê mãi buông mất bản tâm, lang thang trong sáu trần, xa rời “thể vô sanh” đáng thương cho chính mình.

“Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh,
“Thú hướng chân như tổng thị tà.
“Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
“Niết bàn sanh tử đẳng không hoa.”
‘Phá trừ phiền não càng thêm bệnh,
‘Tìm đến chân như cũng là tà.
‘Tùy thuận các duyên không quái ngại,
‘Niết bàn sanh tử thảy không hoa.’
– Tú tài Trương Chuyết –

Còn thấy có phiền não – có đến chân như, tức là là còn nhị nguyên – là tâm chưa bất nhị “không hai”, là chưa thấy được đạo “chân tâm” “thấy tánh”.

“Các ông phải chân thật trong mọi việc, không có gì chân thật trong đời mà không chân thật trong Phật pháp, và không có gì không chân thật trong Phật pháp, lại chân thật trong đời.”
– Thiền sư Thiên Quế –




KÝ ỨC TUỔI THƠ

KÝ ỨC TUỔI THƠ

“Cha là vầng thái dương bạch ngọc
“Ngọn Thái sơn sừng sửng hướng con đi
“Tình yêu cha cao qúi tựa thân cây
“Tỏa bóng mát cho đời con khôn lớn

Nhớ về Ba, là nhớ về những năm tháng êm đềm dưới mái gia đình ấm cúng, thuộc thị trấn Lương Sơn – Bắc Bình – Bình Thuận. Nhà chúng tôi nằm nép mình dưới tán lá cây sung, vươn cành dài ra dòng sông quanh năm lặng lờ mãi miết về xuôi. Trong đôi mắt tuổi thơ, cây sung thật vĩ đại, làm cho trí tưởng tượng của chúng tôi nhân cách hóa – xem nó như là một con tàu giữa trùng dương dậy sóng, cho chúng tôi nhiều trò chơi kỳ thú bên dòng sông xanh ngát. Có lần chúng tôi, năm – sáu đứa, nối vòng tay nhau, mà chưa giáp nỗi bụng cây sung.

Bên kia sông là cồn cát trắng phau, chảy dài bên hông làng Mã Lăng. Tôi nghe người lớn tuổi kể lại câu chuyện truyền miệng: Ngôi làng này một thời là thành lũy Chăm Pa (Chiêm Thành), họ thường đưa ngựa ra tắm sông, sau khi tắm xong, ngựa lên bãi cát lăn mình khô ráo, cho nên làng có tên là Mã Lăng. Trước đây, hầu hết là dân tứ xứ, theo ghe Bầu vào cửa biển Phan Rí, ngược dòng sông Lũy, có lẽ thấy ở đây đất đai trù phú, họ dừng chân lại, tập hợp nhau sinh sống hình thành nên làng xã. Khi chiến tranh nổ ra, đường quốc lộ 1 được mở thông thương từ Nam ra Bắc, người Pháp lập đồn, đưa dân tập trung về bên này.

Làng thì di dời sang bên này (thị trấn Lương Sơn – quận Hòa Đa – tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ), lập ấp chiến lược, đào hầm – đặt chông quanh làng. Nhưng trường học thì ở bên kia sông – làng Mã Lăng. Tất cả học sinh hằng ngày phải lội sông sang bên ấy học. Đường đến trường có hai ngã, một ngã đi bên hông nghĩa địa, gần hơn. Còn một ngã thì đi qua xóm nhỏ, nhưng xa hơn. Có những lúc chúng tôi rủ nhau đi qua hướng có nghĩa địa, thì các bạn đi bên hướng vào xóm nhỏ hát to lên:

“Tôi đi bên này có bông có hoa
Ai đi bến đó có ma chận đường”

Thế là chúng tôi hét vang, ùa nhau chạy về bên này, hướng vào xóm nhỏ.

Hai bên đường đi, cây bồn bồn chen chúc mọc đầy, tới mùa trổ hoa, chúng tôi hái từng nụ hoa – xâu chỉ kết thành vòng, đặt lên đầu – choàng vào cổ – hoặc đeo vào tay cho nhau, nhất là tặng cho các bạn gái, ai nấy đều cười vui thích thú.

Gia đình Nội tôi thuộc loại khá giả nhất nhì trong làng, làng có câu thơ diễn tả 4 dòng Họ khá giả nổi bật nhất làng:

“Nhất Trần, nhì Phan, tam Hoàng, tứ Nguyễn”

Họ Trần là Họ bên Dượng, chồng của Cô Hai, Cô là chị của Ba chúng tôi. Làng chúng tôi, thời chiến tranh, tranh tối – tranh sáng, ban ngày là Quốc gia, ban đêm thì Việt cộng. Lúc bấy giờ Dượng được bên kia cử làm Chủ tịch xã. Cô có 3 người con, 2 người thì thoát ly vào chiến khu, tham gia kháng chiến, 1 anh thì bị tử trận, dưới nồng pháo của chiến hạm từ ngoài biển bắn vào. 1 anh, sau 1975 tham gia công tác tại huyện. Anh quan hệ với chị Dung, chị là con của nguyên là trung tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa, sau khi hồi hưu, ông xuống tóc, cải gia vi tự, tu Phật. Sau thời gian vận động không được, anh bị khai trừ ra khỏi Đảng, cho thôi việc, về lập gia định với chị. Còn anh thứ 3, đến tuổi quân dịch, nhập ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, tử trận tại cao nguyên.

Họ Phan, là Họ của chúng tôi. Có những lần qua làng, chúng tôi rủ nhau đến thăm lại khu vườn xưa, nơi mà tuổi thơ của chúng tôi bi bo – chập chững – xúm xít – bu quanh bên Nội. Ở đây chỉ còn trơ trụi nền nhà xây bao quanh bằng đá, có diện tích trên 300 mét vuông, có chiều cao trên 1 mét.

Họ Hoàng là Họ của Thím, Thím là vợ của Chú họ chúng tôi. Chú tham gia kháng chiến, tử trận trong trận quân lực Việt Nam Cộng Hòa tiến quân càn quét vào sâu chiến khu.

Họ Nguyễn, là Họ của một gia tộc đứng hàng thứ tư trong làng.

Ba của chúng tôi: Phan Ơn, năm sinh1924, thuở thành niên đị học ngoài Huế, (lúc bấy giờ, trong làng chỉ có 2 người có đủ điều kiện ra Huế học: 1 là Ba của chúng tôi, còn 1 là anh họ (đồng tuổi ba tôi), con ông Bác. Sau này anh thoát ly ra chiến khu, sau 1975 về làm Bí thư huyện ủy). Sau 4 năm lấy bằng Thành chung (Cao đẳng Tiểu học – Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène), Ba về lại quê nhà. Ba tôi vừa là Hiệu trưởng, vừa là giáo viên đứng lớp. Thờì bấy giờ giáo viên không nhiều (trong thời gian này, Ba của chúng tôi được kết nạp vào Đảng CS). Tôi còn nhớ có năm tôi học cùng lớp do Ba tôi dạy. Các bạn trong trường đều nể nang – nhường nhịn tôi, bởi vì tôi là con của thầy giáo – của hiệu trưởng.

Tôi nhớ như in lời Ba dặn dò với Mẹ trước giờ phút lâm chung:

– “Phải cho các con ăn học đến nơi đến chốn, nếu cần bán hết bày bò, hết ruộng đất để cho các con thành danh – nên người thì cũng nên bán”.

Nhớ lời Ba dạy, chúng tôi luôn luôn nỗ lực học tập – tích cực làm việc – để nên người – để xứng đáng là con của Ba.

Vào những tháng gần Tết, gió từ biển đông thổi về, đây là lúc làng chúng tôi tổ chức thi thả diều. Bãi cát trắng phau là điểm thi, có những cánh diều to tướng đủ mọi hình dáng, nhiều mầu sắc sặc sỡ, bay lượn làm rợp mát cả bầu trời, mang theo nhiều tiếng sáo vi vu cao vút làm xao động cả tầng không. Ba cũng làm cho tôi một con diều xinh xắn để bay lượn – reo hò cùng chúng ban. Những con diều nhỏ thì tà tà bay thấp hơn là diều của chúng tôi.

Nhớ về Ba là nhớ về một thời chiến tranh ý thức hệ dữ dội ác liệt – nồi da xáo thịt, một thời đất nước chia cắt hai bờ vĩ tuyến. Bị các thế lực ngoại lai thao túng, cùng dòng máu đỏ – da vàng mà cha con, anh em xem nhau như kẻ thù.

Cuộc chiến đã làm tổn thất từ 2-4 triệu người chết (tính cả binh sĩ và thường dân), chưa nói đến số lượng tổn thất các nước ngoại quốc tham chiến.

Tham khảo từ nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95n_th%E1%BA%A5t_nh%C3%A2n_m%E1%BA%A1ng_trong_Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam

Sau 1950, Chú tôi: Phan Châu, là một bộ đội Việt minh, được lệnh tập kết ra Bắc. Năm 1964 hồi kết, làm Tiểu Đoàn Trưởng, xua quân vào Nam. Hầu như cả ông và đoàn quân đều tử trận phơi thây tại Đồng Xoài.

Ba tôi là một cán bộ cách mạng. Trước 1950 phụ trách Đoàn Thanh Niên CSHCM, sau làm Bí thư Liên Khu. Sau 1950 được cài cắm lại miền Nam hoạt động bí mật, làm kinh tài gây quỹ cho mật khu. Tôi còn nhớ, có những lần vào đêm – khuya lơ khuya lắc, mấy chú – mấy bác từ trong rừng về rất đông, ngồi kín cả căn phòng khách, Ba bảo tôi ra đầu ngõ cảnh giới.

Ba tôi còn là một cầu thủ bóng đá, sau một trận giao tranh sôi nổi, ba bị đối phướng đá trái banh hạng nặng, vì rất gần, bất ngờ rơi trúng vào ngực, bật ngửa giữa sân cỏ. Sau thời gian dài chữa trị, ba mất sức từ đó. Nhưng ba không quên nỗi đam mê, những lần theo đoàn cổ vũ đấu giao hữu với các đội bạn ở các địa phương khác, ba thường dẫn tôi đi theo. Ba thì mãi mê với những trận đấu bóng đầy hào hứng, còn tôi thì la cà bên những dãy hàng quán, hay những thùng kem bán dạo quanh sân bóng ./-




HÀNH TRÌNH VÀO ĐỜI

HÀNH TRÌNH VÀO ĐỜI

Sau khi qua đại học – tốt nghiệp Đại học Văn khoa Đà Lạt năm 1972. Trước khi bắt tay vào nghề – lập nghiệp. Thực hiện mơ ước ấp ủ từ lâu, với chiếc Honda 50cc, chúng tôi gói gém hành trang, không quên mang theo bộ đồng phục GĐPT, độc hành vân du ra miền Trung, nơi nào có thắng tích – thắng cảnh thì dừng chân thăm thú, nơi nào có bạn bè một thời đi học, thì tìm đến thăm viếng hàn huyên tâm sự. Vào những ngày chủ nhật, thì ghé lại chùa, với bộ đồng phục trên mình chúng tôi hòa hợp – hoan hỷ tham gia sinh hoạt GĐPT cùng bè bạn tình lam.

Trên hành trình, vào đêm, hầu hết đều tìm đến Chùa nương náu qua đêm. Nhờ duyên kỳ ngộ – chúng tôi diện kiến đảnh lễ các bậc chân sự, được Chư Tôn thạc đức khai thị, thẩm thấu nguồn triết lý chân đế tuyệt bích, thức ngộ cuộc sống, làm hành trang tư lương vào đời, góp phần hy hiến – nhiệt thành phụng sự tổ chức – đạo pháp – dân tộc.

Có những chuyến vui nhất là đặt chân đến, từ Quảng Trị đổ ra, ngôn ngữ vùng miền mới lạ làm khó nghe – khó hiểu, phải nhờ đến bạn bè địa phương thông ngôn. Ra đến Do Linh, chúng tôi vượt lên dốc núi cao dựng đứng vào làng Cùa bạt ngàn cây mít. Đến tận Khe Sanh vùng phi quân sự, đồn quân dẫy đầy chằng chịt.

Rời miền Trung, chúng tôi vượt lên Tây Nguyên đồi núi chập chùng – những sáng sớm tinh sương mây giăng đầu núi trắng xóa. Trên đường hướng về Gia Nghĩa, bắt gặp một đàn voi (ước chừng trên 20 con) đang qua đường, chúng tôi dừng xe chờ đợi. Ngỡ rằng từ Gia Nghĩa sẽ về được Sài Gòn, nhưng đoạn đường này do Việt cộng chiếm đóng. Bạn bè và quý anh chị Huynh trưởng địa phương khuyên tôi nên quay trở lại.

Chúng tôi ngược về Quy Nhơn, ở đây có nhiều bạn bè, các bạn rủ tôi ở lại. Tôi vào dạy 1 trường trung học, tuổi đời còn rất trẻ (đâu như 23-24 tuổi), học sinh thì 17-18 xắp xỉ gần bằng tuổi nhau, chúng xem mình như bè bạn. Vào những chiều tan học, bọn chúng, trai – gái tập trung lại khu nhà nghỉ của giáo sự, tổ chức hát cho nhau nghe, có nhiều bạn – có giọng hát hay, những bài hát Bolero truyền cảm – làm gợi nhớ quê hương da diết. Thì thoảng nhằm ngày chủ nhật, rủ nhau lên Quang Trung – vào những khu vườn sắn, có những trái sắn dịu ngọt – mát rượi, hay ra biển – hòa mình vào dòng nước trong xanh – ngụp lặn chập chùng theo từng làn sóng, hoặc lên đồi Hàn Mặc Tử – trầm ngâm thả lòng theo từng dòng thơ suy tưởng…

“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
“Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
“Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
“Anh lại đây tôi thối chữ thơ.”
– Trăng vàng trăng ngọc – Hương thơm – Hàn Mặc Tử –




CÔ BÉ BÊN CỬA SỔ

CÔ BÉ BÊN CỬA SỔ
Nhớ thuở nào 30/4

Kể từ khi về đây, hôm nào cũng vậy, vừa bước ra sân, là tôi đã thấy em ngồi bên song cửa sổ nhìn sang. Chúng tôi bỡ ngỡ nhìn nhau. Không biết thời gian trôi qua và đã bao lần như vậy. Tôi lân la đến bên cửa sổ làm quen. Chúng tôi thân nhau từ đó. Có một lần tôi hỏi.

– Tại sao em không ra ngoài chơi ?

Em cúi đầu ngấn lệ. Tôi nhìn qua song cửa – bàng hoàng. Phía dưới cặp đùi của em, là một khoảng không trống lổng. Em không có đôi chân! Tôi bùi ngùi hỏi. Em cho biết.

Trước đây, em cũng có đôi chân tung tăng như chim sáo. Một lần trên đường đi học về, mãi mê đuổi theo đàn bướm, em lạc bước vào vùng phi quân sự. Một tiếng nổ kinh hồn, từ lòng đất bật tung lên. Đến khi tỉnh lại, cảm giác đầu tiên của em, là nỗi đau đớn tột cùng. Em cảm thấy hụt hẫng – trống vắng, như thiếu thốn một cái gì đó ở phía bên dưới. Thế là em mất đi đôi chân từ đó.

Rồi tôi tốt nghiệp, vào sư phạm. Trong thời gian này, tôi nhận được thư của em đều đặn. Bẵng đi một thời gian, tôi vắng bặt tín hiệu hồi âm. Ngày tôi về, thì được biết gia đình em tan tác. Sau trận pháo kích ào ạt của phía ngoài kia, ngôi nhà của em đã bị thiêu hủy hoàn toàn, bao người thân yêu mất cả, chỉ còn trơ trụi mình em, giữa cõi đời mù mịt. Trên chiếc xe lăn, em lăn lóc khắp các ngã phố, bán từng tấm vé số, đổi lấy miếng ăn qua ngày. Tôi đạp xe, hộc tốc tìm em, đưa em về, xin cha mẹ cho em được nương náu. Khi nhận được quyết định đi dạy ở một trường trung học ngoài tỉnh, tôi từ giã em, em nghẹn ngào tiễn tôi trong đáy mắt đẫm lệ.

Tôi cứ ngỡ rằng, em sẽ được an ủi – ấm êm trong vòng tay chở che của gia đình tôi. Nhưng luật đời khắc nghiệt, không dung thứ người bất hạnh, “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”. Trong đợt tiến công của người chiến thắng, đã xua đuổi biết bao người dân vô tội xa rời tổ ấm, tan tác lìa đàn, mỗi người mỗi hướng. Vật vã trên chiếc xe lăn, em cũng di tản theo đoàn người hỗn loạn. Đoàn người càng hỗn loạn hơn khi có những tiếng nổ kinh hồn, nổ ra từ bên này – bên kia – phía trước – phía sau, do những nồng pháo ác nghiệt, khạt ra từ trong rừng bắn đuổi theo.Em đã chết trong dòng thác hỗn loạn, trong lúc tuổi của em vừa tròn đôi mươi.

Đó là tội ác của chiến tranh. Dù anh có hoênh hoang nhân danh cho một chủ nghĩa rổng toếch, dù có núp bóng dưới một chiêu bài mĩ miều không tưởng, cũng không che dấu được dã tâm cuồng vọng. Dù anh là bên này hay bên kia, anh là kẻ chiến thắng hay người chiến bại, thì anh cũng là một gã đồ tể sắc máu, một kẻ sát nhân vô hồn, thiếu lương tri, không có tấm lòng nhân ái.

Thế mà có tôn giáo, họ lừa bịp tín đồ cuồng tín, xử dụng vũ khí giết người, mở ra các cuộc thánh chiến, giành giật tín đồ, rồi cho rằng vâng theo ý thánh, mở cửa thiên đàng.

Trên thế giới, có nhiều quốc gia ngông cuồng, tham vọng bá chủ, chế tạo ra hàng loạt vũ khí giết người, rồi tự lừa dối, là vì mục đích hòa bình.

Chiến tranh đã tạo ra biết bao thảm cảnh tang thương, vợ xa chồng, mẹ xa con, anh em trơ tráo ngoảnh mặt với nhau, làng mạc điêu tàn, cửa nhà tan tác, tình người phân ly.

Ai bảo rằng, chiến tranh sẽ đem lại hòa bình ? Thế tại sao, sau khi chiến tranh chấm dứt, cái mà người ta gọi là hòa bình – độc lập – tự do – dân chủ rổng toếch, thì từ mỗi cộng đồng… trong mỗi căn nhà tăm tối, còn có những nỗi ai oán thở dài, những tiếng khóc đắng cay, âm thầm rưng rức, không thốt nên lời, giữa đêm trường khuya khoắt !…




VỀ LẠI CỐ HƯƠNG

VỀ LẠI CỐ HƯƠNG

Tháng bảy – mùa Thu, mùa có từng đợt mưa phùn – mang theo những ngọn gió heo may – thổi bay những chiếc lá vàng rơi rơi phơi đầy sân cỏ. Tháng bảy – mùa Thu làm cho người ta hoài tưởng – ngậm ngùi nhớ về quê hương – nhớ nhiều về công đức sinh thành – dưỡng dục. Dù cho ai đó tha hương biệt xứ tận cuối chân mây. Hoài niệm – canh cánh hướng về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có dòng sông lặng lờ – êm đềm bên lũy tre già – mãi miết chảy dài theo năm tháng, nơi có mái ấm thân yêu – nơi có người mẹ… Mẹ tôi có tên Trương Thị Tuất, pháp danh Bích Ngọc, sinh năm 1923. Mỗi lần về quê Ngoại, tôi nghe những người lớn tuổi nói lại, mẹ chúng tôi, thuở thiếu thời là hoa khôi trong làng. Sau khi ba tôi mất, mẹ thân cò tần tảo mua bán sớm hôm, chăm chút nuôi đàn con thơ dại. Mẹ bây giờ lưng còng – má tóp – tóc trắng giăng mây, cặm cụi bên bếp lửa hồng – cho sợi khói vươn cao vào mỗi buổi lam chiều. Bên bụi chuối sau hè – có chum nước rửa chân – để được sạch bụi đường xa bao nỗi nhọc nhằn vất vã mưu sinh.

“Ngày xưa môi mẹ thắm hồng
“Tóc còn xanh mướt ấm lòng trẻ thơ
“Bây giờ tóc mẹ bạc phơ
“Trán thêm nhăn nhúm con khờ lớn khôn”

Sau 1975, trên đoàn tàu tốc hành vào Nam, chúng tôi trở về lại quê nhà, gặp lại người bạn học thuở thiếu thời, cô có tên là Lê Thị Luông, pháp danh Nguyên Trầm, chúng tôi đều có cùng năm sinh (1950). Rời tuổi học trò, cô mở một tiệm may – là một thợ may chuyên nghiệp, có nhiều học trò theo học lành nghề. Cô xinh xắn – hiền thục – nền nếp, có mái tóc dài đen tuyền xỏa gần chấm gót chân, làm say đắm biết bao chàng trai làng, nhiều sĩ quan trẻ thời bấy giờ đeo đuổi trồng cây si. Năm 1977 chúng tôi kết duyên cùng nhau, lúc bấy giờ chúng tôi cùng chung 27 tuổi. Theo năm tháng thời gian cô hạ sinh được 3 người con, 2 trai – 1 gái:

– Người con đầu lòng: Phan Lê Nam Văn Thiên Chương, pháp danh Nguyên Minh, sinh năm 1979, Huynh trưởng cấp Tín GĐPTVN.

– Người con thứ 2: Phan Lê Nam Văn Thư Vương, pháp danh Nguyên Vũ, sinh năm 1980, Huynh trưởng cấp Tập GĐPTVN.

– Người con gái thứ ba: Phan Lê Nữ Thụy Nhã Thi, pháp danh Nguyên Thơ, sinh năm 1983, Đoàn sinh GĐPT, nghĩ sinh hoạt GĐPT phụ giúp mẹ buôn bán.

Sau khi kết hôn, vợ chúng tôi mở tiệm mua bán tạp hóa tại nhà. Nhờ bàn tay đảm đang mà các Phật sự – tham gia cùng Thầy Thiện Tâm, thường xuyên – bôn ba đi khắp các xã – các huyện thị trong tỉnh vận động Chư Tôn Đức Tăng Ni – Phật tử tái sinh hoạt Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận. Và công tác sinh hoạt GĐPT, đều nhờ cô ân cần quan tâm – sẵn lòng rộng rãi tài trợ – chu toàn cho những chuyến đi xa.
Thầy Tịnh Thông thường ca ngợi: “Anh Nguyên Hoàng (pháp danh của tôi), đang lập hạnh Bồ tát, dấn thân làm công tác giáo dục GĐPT. Còn chị là một Bồ tát hạnh tại gia, nhiệt thành hộ trì Tam bảo – hy sinh hộ trì cho anh, nhờ chị mà anh hoàn thành phật sự”

Nền kinh tế đất nước lúc bấy gờ tụt hậu, đời sống dân sinh lầm than khốn khó cùng cực. Từ một giáo sư, chúng tôi tham gia hợp tác xã, tập tành cày – bừa ruộng, cấy lúa, gặt lúa, đập lúa để có điểm đổi thành chén cơm – manh áo (nghe bạn bè nói lại, còn có những giáo sư – tiến sĩ muốn tự do, phải lên rừng đốt than kiếm sống qua ngày, nhà tù cải tạo chật ních – phân biệt đối xử – khảo tra khốc liệt).

Từ một đời sống sung túc – đầy đủ tiện nghi, ra đường mỗi tấc đất là có xe đưa xe đón, ăn thì gạo trắng nước trong. Bây gờ thì ép lòng ăn cơm độn khoai – độn sắn – độn bo bo, tắm giặt thì bằng nước ngâm tro củi, muốn sang chảnh thì uống bia được chế biến từ nước tiểu, muốn xin việc – học tập thì phải nhẩn nhục câm nín chịu đựng chế độ xin cho – đối xử tệ bạc khắc nghiệt bằng lý lịch. Mua hàng hóa bằng tem phiếu với những món hàng bất như ý. Di chuyển đi đây đi đó – đi công tác – kiểm tra, phải có giấy ưu tiên, đi trên những chuyến xe đò chạy bằng than củi cọc cạch – ì ạch – mệt mỏi ròng rã suốt cả buổi – cả ngày trời mới đến nơi đến chốn ./-




THẢM CẢNH XÃ HỘI

Thảm Cảnh Xă Hội

Sau 1975, Nền kinh tế đất nước tụt hậu, đời sống dân sinh lầm than khốn khó cùng cực. Từ một giáo sư, chúng tôi tham gia hợp tác xã, tập tành cày ruộng, cấy lúa, gặt lúa, đập lúa để có điểm đổi thành chén cơm – manh áo (nghe bạn bè nói lại, còn có những giáo sư – tiến sĩ muốn tự do, phải lên rừng đốt than kiếm sống qua ngày, nhà tù cải tạo chật ních – phân biệt đối xử – tra tấn khốc liệt).

Từ một đời sống sung túc – đầy đủ tiện nghi, ra đường mỗi tấc đất có xe đưa xe đón, ăn thì gạo trắng nước trong. Bây gờ thì ép lòng ăn cơm độn khoai – độn sắn – độn bo bo, tắm giặt thì bằng nước ngâm tro củi, muốn sang chảnh thì uống bia được chế biến từ nước tiểu, muốn xin việc – học tập thì phải nhẩn nhục câm nín chịu đựng chế độ xin cho – đối xử tệ bạc khắc nghiệt bằng lý lịch. Mua hàng hóa bằng tem phiếu với những món hàng bất như ý. Di chuyển đi đây đi đó, đi công tác – kiểm tra, phải có giấy ưu tiên, đi trên những chuyến xe đò chạy bằng than củi cọc cạch – ì ạch – mệt mỏi ròng rã suốt cả buổi – cả ngày trời mới đến nơi đến chốn.

Hợp tác xã được hình thành, mọi công cụ sản xuất đều phải tập trung. Mặc dù mẹ chúng tôi phản đối kịch kiệt, họ vẫn tự động vào vườn khiêng máy bơm nước và dắt đi cặp bò cày. Mẹ tôi xuống Ủy ban lớn tiếng chưởi bới thậm tệ:

  • “Bọn bay là bọn cướp ngày, bọn ăn cháo đái bát”.

Rồi Bà te te – ngang nhiên đến dắt lại cặp bò và nhờ người khiên cái máy bơm nước về lại vườn nhà.
Bà chưởi câu ấy, bởi vì trước 1975, gia đình chúng tôi có mở một đại lý mua bán gạo, những chuyến hàng từ Sài Gòn về là 2 chiếc xe Ba lua (Poids lourd – loại xe tải hạng nặng lúc bấy giờ), 1 xe đưa gạo về nhà – và 1 xe thì đầy gạo – trong đó còn có cất giấu thuốc Tây, chạy thẳng vào rừng tiếp tế nuôi cách mạng, mỗi lần trong rừng nhận hàng chỉ ghi lại 1 cái phiếu. Đến khi đoàn quân từ trong rừng về (giải phóng), thì gia đình chúng tôi cũng cung cấp hàng chục tạ gạo để nuôi quân.

Có lần Ông Chủ tịch đến thăm nhà chúng tôi, bởi vì trước đây, trong chiến khu, Ông là học trò của Ba tôi. Thấy mâm cơm chúng tôi có thịt cá – cơm trắng không độn khoai. Ông nói:

  • Ăn tiệc sang nhỉ, tiểu tư sản có khác !

Bởi vì chúng tôi không quen ăn độn, mỗi lần ăn cơm độn khoai là cổ họng chúng tôi nóng bỏng. Hơn nữa gạo trong kho còn lại cũng khá nhiều.

Tôi có một ông anh họ, tôi gọi ông bằng anh, nhưng tuổi của ông gần bằng tuổi Ba tôi. Sau 1975, từ trong rừng về, ông được phân công làm Bí thư ở một huyện xa. Khi Bác tôi mất, ông có về, nhưng không chịu thọ tang, những người trong gia tộc trách cứ, ông trả lời:

  • Trên đầu tôi chỉ có Bác Hồ ! Ai nấy đều nghẹn lời !

Có lần Cô tôi mời ông lên ăn giỗ (Cô tôi cũng là Cô của ông). Vào dịp giỗ Dượng (chồng của Cô. Dượng cũng là chiến sĩ cách mạng tử trận). Ông nói trước mặt gia tộc:

  • Người chết là mất, chết rồi còn ăn uống được gì, mê tín – bày đặt cúng kiến linh đình, chỉ có ruồi bu kiến đậu.

Cô tôi giận quá, hốt hết tất cả cơm canh bánh trái trên bàn thờ, đổ vào xoong – vào thúng – vào giỏ, gọi xe Lam chở xuống huyện, đổ hết trước cửa huyện ủy.

Tôi có một người Bác họ, sau khi miền Nam thống nhất, ông hồi kết về lại quê nhà, nhưng ông không về thẳng nhà vợ con, mà ông vào ủy ban xã, ăn ở tại đây. Nhiều người thân trong địa phương đến thăm, hỏi ông:

  • Sao không về nhà, về với vợ – con ? Ông nói:
  • Bà ấy theo Mỹ theo ngụy, cho nên mới có được nhà to cửa lớn. Bởi vì theo Mỹ – ngụy cho nên con cái mới được vào đại học, làm việc cho Mỹ cho ngụy.

Ông đâu có biết rằng, vợ ông đã cực khổ quanh năm, thân cò lặn lội nuôi con mới có được ngày hôm nay. Sau thời gian được nhiều người khuyên giải, ông sượng sùng về nhà. Vợ ông thủ thỉ nhờ ông bảo lãnh cho đứa con trai lớn đang cải tạo được về nhà. Ông nói:

  • Thằng đó phản cách mạng, theo Mỹ – theo ngụy quân – ngụy quyền chống phá cách mạng, phải để cho nó ở tù mọt gông

Những đồ đạc – dụng cụ – đồ dùng bày biện trong nhà, ông cho là đồ của Mỹ – của ngụy, nên ông hồng hộc đem bỏ hết ra ngoài vườn, bộ ghế Salon ông mang ra bỏ bên gốc xoài. Vậy mà mấy tháng sau, ông len lén hì hục mang vào lại phòng khách ./-




THẮT RUỘT NHẢ TƠ

THẮT RUỘT NHẢ TƠ

Tôi rất yêu thích viết văn – làm thơ – viết hồi ký. Tiếc rằng những bài văn – bài thơ trước đây đã bị lưu lạc theo chiến tranh. Sau 1975, trở về lại quê nhà, nghiệp tầm nhã tơ – tôi lại tiếp tục viết. Vì tính chất công việc và sinh kế phải di dời đi nhiều nơi, tôi rất trân quý cất giữ cẩn thận, những không hiểu vì lý do nào đó mà nó lại thất lạc thêm một lần nữa, làm cho tôi tiếc nuối đến vô cùng. Những tác phẩm văn – thơ – hồi ký viết trong thời gian qua, đến giờ phút này lên đến vài trăm bản. Có lẽ đây là nghiệp dĩ – nợ văn chương, nếu sức khỏe còn dài – hơi thở chưa mỏn tôi vẫn tiếp tục chấp bút…

Tâm niệm của chúng tôi là sống thật thà, không quanh co – dấu diếm – tránh né. Không ưa bất công – yêu chuộng tự do – có đời sống tĩnh tại. Những bài viết hầu hết đều mang tính tả chân – lột trần như thật, hướng đến làm mới cách nhìn – cách làm việc. Có lẽ ít nhiều cũng làm chạm lòng những ai đó có tâm sự – ganh tị – hơn thua hèn mọn, nếu có chạnh lòng, thì mong rằng xem đây là phản quang tự kỷ, giúp chúng ta mạnh dạn nhìn lại – cùng nhau chuyển hóa – hướng đến hoàn thiện. Và có những bài viết mang tính lịch sử, mạnh dạn ghi lại những biến cố như thật – theo đúng lương tri của người cầm viết – của nhà viết sử, góp phần giúp cho thế hệ mại sau nhận chân được những bước đi đúng – sai của cha ông. Nếu có làm cho ai đó thiên tả phật lòng – chê trách – không vừa ý, thôi thì xin hãy chờ đó, cái gì rồi cũng có giá trị nhân – quả, thời gian rồi lịch sử sẽ trả lời !

Tại những kỳ đại hội GĐPTVN trên thế giới, quý anh chị áo lam từ các châu lục – quốc gia hội tụ về đông đảo, chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Đêm về cùng ngồi quay quần bên nhau – sách tấn nhau. Anh Tâm Đăng – Nguyễn Pháp (Trưởng BHD GĐPTVN tại hải ngoại lúc bấy giờ) và quý anh chị tình cảm tâm sự: Huy Tâm là nhà văn mà cũng là nhà thơ. Chúng tôi rất thích những bài viết của HT, rất hay – có ý nghĩa – có giá trị. Mỗi lần đọc thấy những bài văn hay bài thơ nào của HT là chúng tôi đều lưu giữ lại.

Và chúng tôi cũng được Chư Tôn Đức Tăng – Ni, nguyên là Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT cho biết, quý Ngài cũng đã đọc và lưu lại làm tư liệu những tác phẩm của Huy Tâm.

Xin phép ghi lại nguyên văn lời Thầy Giải Ngộ nhắn nhủ:

“Thưa anh Phan Văn Huy Tâm ! Thầy đã kịp thời đọc được những bài viết của anh, hiểu được tâm sự của anh trước tình hình tổ chức và đạo pháp. Thầy chưa kịp có í kiến mà bài viết đã vội gỡ xuống. Thầy biết anh đang bị áp lực đâu đó, đáng tiếc thật !

“Nhớ một thời chư tôn đức trưởng lão đã dạy: “Thành phần tri thức trong Phật Giáo thì không nhiều, chỉ bàn bạc ít ỏi trong các vì sao, nhưng nó sáng chói long lanh như ánh sao mai rực rỡ, nhưng chỉ xuất hiện trong thoáng chốc rồi mất hẵn” tại sao ???

“Dưới ngòi bút của anh, sắc bén: “Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà…” Anh dám nghĩ, dám nói và dám viết. Một cây viết hiếm hoi ít thấy xuất hiện trên các diễn đàn trước quốc phá gia vong, đạo (tổ chức) nhược ma cường.

“Ước gì phải có những nhà lãnh đạo tài tình, không sợ hiểm nguy ít ra như vậy, may ra tổ chức, đạo pháp sớm vén màn tăm tối, đổi mới, khơi sắc …”

Nghe biết được những lời tâm sự chân tình này, làm cho chúng tôi bồi hồi xúc động, đây là niềm khích lệ lớn lao, giúp cho ngòi bút chúng tôi thêm mạnh dạn – cố gắng tiếp tục chảy mực, hy vọng có thêm nhiều nét văn hoa, dệt nên nhiều tấm lụa vàng óng ả để lại cho đời – để không phụ lòng Chư Tôn Đức Tăng – Ni và quý anh chị thương kính – bạn bè bốn phương mến yêu. Xin chân thành cám ơn sự ưu ái quan tâm của chư vị rất nhiều !




SỰ NGHIỆP NỬA VỜI

SỰ NGHIỆP NỬA VỜI

Bác họ của tôi, dù tuổi đời chênh lệch hơn kém nhau gần 10 tuổi, nhưng vì là dòng trên, nên tôi gọi là Bác. Bác từ trong rừng về, Bác làm Trưởng ban Tuyên giáo. Lợi dụng uy tín của tôi, Bác nhờ tôi vận động triệu tập thành phần trí thức tại địa phương, tập trung học tập đường lối cách mạng. Trong suốt buổi học, trong giọng nói huênh hoang có vẽ khinh thường – miệt thị, Bác gọi chúng tôi là thành phần – là giai cấp “Trí thức tiểu tư sản”. Có lẽ cái học biên kiến – nhồi sọ trong rừng, đã làm cho Bác hiểu nhầm và suy nghĩ sai lạc về trí thức tiểu tư sản – người có học thức học vị cao như là giai cấp hạ lưu, dưới đáy xã hội.

Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa), trước 1975, Sài Gòn được xem là “Hòn ngọc Viễn Đông” hay “Paris của Phương Đông” – có học thức cao – có nhà lầu – xe hơi có đời sống vật chật đầy đủ tiện nghi. Nơi đây là một thiên dường hoa lệ mà Singapore và Nam Hàn lúc bấy giờ mong muốn vươn đến. Oái oăm thay, bị người rừng rú – lạc hậu – ngớ ngẩn ngờ ngệch ngu ngơ kém hiểu biết giải phóng người văn minh. Người giải phóng lúc bấy giờ vào Nam, chiếm dụng nhà Cậu của chúng tôi (cậu là cựu đại tá quân đội VNCH đã về hưu), vào Toilet thấy cái Lavabo (bồn cầu) ngỡ là bồn rửa, họ mua cá thả vào để rửa – mò mẩm mở nước – cá chạy tuộc mất, họ cho rằng người văn minh cài đặt máy ăn cướp ngày. Thấy cái quạt trần treo lơ lửng, họ mày mò mở Contact – quạt quay vù vù, họ vụt chạy tán loạn – la hoảng: máy chém ! ăn thì cơm độn khoai mì – khoai lang – bo bo, đi xe chạy bằng than củi…

“Bà Dương Thu Hương, một trong những nhà văn nổi tiếng hàng đầu ở Việt Nam hiện nay, một người đã ‘’lên đường xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước’’ và khi quân đội cộng sản Bắc Việt của bà chiếm được Sài Gòn thì bà đã khóc vì tỉnh mộng, không phải vì ‘’nhà cao cửa rộng của miền Nam’’ mà vì ‘’vào Nam tôi mới hiểu rằng chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người’’ và bà đã ‘’thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí’’. Do đó, Dương Thu Hương đã nhận thức được rằng bà đã bị lừa và cuộc chiến tranh ‘’giải phóng miền Nam’’ của cộng sản Bắc Việt là một ‘’cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất trong lịch sử dân tộc’’.
Trích dẫn từ nguồn: https://ongvove.wordpress.com/2022/04/26/viet-nam-10-ngay-cuoi-cung-tran-dong-phong/

Vài tháng sau, Bác đến gặp chúng tôi, yêu cầu mở lại cửa trường, vận động học sinh tiếp tục đi học lại. Tôi ngán ngẩm:

Tại buổi học tập cải tao (tư tưởng), Bác tuyên truyền đường lối cách mạng. Bác đánh giá chúng tôi là thành phần trí thức tiểu tư sản – xem thường chúng tôi như hàng hạ liệt !

Bác xuống giọng, và mong mỏi chúng tôi hợp tác với chính quyền cách mạng. Thế là chúng tôi vừa là Hiệu trưởng, vừa là giáo viện đứng lớp. Họ gọi chúng tôi là giáo viên, trong khi đó chúng tôi là một giáo sự giảng dạy tại một trường trung học tại miền Trung. Lương giáo viên hàng tháng của chúng tôi là 13 kg gạo, 1 kg đường và 2 lon sữa ông Thọ…

Chúng tôi vừa quản lý vừa giảng dạy trường trung – tiểu học tại địa phương, được một năm rưỡi là chúng tôi bị “mất dạy”. Vì nhu cầu phát triển ngành giáo dục huyện, tôi bị điều về xây dựng ngành giáo dục tại đây. Vừa làm việc phát triển ngành, vừa phải nhờ viết giúp các bài diễn văn cho Bí thư – cho Chủ tịch huyện đọc trong các phiên họp – hội nghị – lễ lượt của chính quyền – của đảng (vì lúc bấy giờ đa số cán bộ là từ trong rừng về – có lẽ ít học, chúng tôi phải cật lực đổ chất sám, mệt mõi kèm cặp cho học bổ túc mỗi tối, một năm được học 3 lớp, và được chỉ đạo là đến kỳ thi phải đạt kết quả cao. Cho nên ngành giáo dục rất được tôn trọng). Trong giai đoạn phôi thai chưa có điện, chúng tôi phải cặm cụi dưới ngọn đèn dầu leo loét hết ngày này qua tháng khác (có lẽ do thiếu ánh sáng, cho nên ảnh hưởng đến đôi mắt, những năm tháng sau này, mắt của tôi yếu dần – phải mang kính mới thấy được mặt chữ). Trong quá trình viết diễn văn, tôi rút ra những kính nghiệm viết, bài viết nào cũng rập khuông, không đòi hỏi phải suy nghĩ – đầu tư nhiều chất sám, cho nên viết cũng nhanh: Phải viết – phải diễn tả sao cho lời văn kêu thật to – thổi phồng sự việc cho thật lớn – áp đặt người nghe phải tiếp thu – tuân thủ. Do tính chất công việc của huyện – của ngành đổ dồn – bề bộn – nặng nề, nên văn phòng UBND huyện ưu tiên cấp riêng cho tôi một chiếc máy đánh chữ loại nhỏ xinh xắn.

Vì làm việc tại huyện, nên gia đình chúng tôi cũng phải chuyển về huyện. Vợ chúng tôi có duyên buôn bán, nên cô ấy tiếp tục mở một gian hàng tạp hóa mua bán nhỏ tại tư gia, để cải thiện cuộc sống gia đình trong hoàn cảnh bao cấp khó khăn ./-




SINH HOẠT GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

SINH HOẠT GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

Vào dịp Lễ hội Vu Lan, Mẹ dắt em lên chùa từ rất sớm. Em quanh quẩn bên Mẹ. Quý bà – quý cô quây quần xúm xít bên nhau gói bánh. Những chiếc bánh ít – bánh cúng – bánh chưng trắng phau, gói mình trong những chiếc lá chuối xanh, được vớt ra từ những chiếc nồi to bốc hơi nghi nghút, phưng phức thơm tho mùi nếp mới hòa quyện nhân đậu xanh.

Dưới bóng Chân Như – Đức Phật từ bi mỉm cười hỷ xã. Mẹ và em gối quỳ – trang nghiêm, chấp tay sì sụp lễ lạy – dị khẩu đồng âm – trầm lắng hòa quyện theo từng dòng kinh văn cúng dường Đức Từ Phụ.

Em lân la – rụt rè bên gốc Bồ đề nhìn xem quý anh – chị chung cùng một mầu áo khói hương hiền hòa – không phân biệt tuổi tác, tuổi thơ – thiếu niên – trung niên hay người cao tuổi, không phân biệt giai cấp sang hèn, cao học hay ít học, công chức hay thợ thầy – công nhân, giàu có hay khốn khó, ‘Sĩ – Nông – Công – Thương – Dân – Quân – Cán – Chính’ bình đẳng như nhau, cùng chung mầu áo hòa hợp, cùng nhau vỗ tay – hát bài ca “Đây gia đình cùng nhau chung thân ái …” mà lòng thấy nao nao ước muốn.

Tối về, em vòi vĩnh xin Ba cho lên chùa – đến với Gia Đình Phật Tử. Mẹ may cho em chiếc áo lam xinh xắn. Xúng xính trong muồi vãi mới, Ba cầm tay – đưa em lên chùa. Trong đôi mắt dịu hiền – khả ái, chị trưởng dìu dắt em vào Đoàn. Mới tám tuổi bỡ ngỡ – thơ ngây như một tờ giấy trắng nỏn nà. Em được ấm áp trong vòng tay vững chãi từ ái của quý anh – chị trưởng, hướng dẫn – vẽ lên tờ giấy trắng đời em từng nét bút đầu đời – thấm đẫm từng hướng đi thẳng tắp. Em tập tễnh sinh hoạt – tu học từ đó.

Áo lam – quần Short xanh dương – nón Tứ ân trầm hùng tĩnh tại – vững chãi của người Nam Phật tử, chiếc áo dài lam thướt tha – chiếc nón lá xinh xắn dịu hiền thân ái của người Nữ Phật tử. Đàn em – như những cánh chim lam bầu bĩnh trong trắng từ mọi ngã hướng đường đời ùa về, xúm xít quây quần quanh anh – quanh chị, cùng nhau tay trong tay:

“Chúng ta là chim bốn phương bay về đây…
Nguyện đem gieo rắc khắp nơi ánh vàng !”.

Ý nghĩa màu áo lam:
Sau lễ ra mắt chính thức tái sinh hoạt Gia Đình Phật Hóa Phổ ‘ngày 08.12 năm Mậu Tý, tức chủ nhật ngày 06.01.1949’ tại chùa Từ Đàm – Huế. Đến cuối năm 1949, thì tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ ‘GĐPTHP’ đã có mặt, sinh hoạt khắp ba miền Nam – Trung – Bắc, nhưng chưa có đồng phục chính thức.

Năm 1950, Ban Hướng Dẫn ‘BHD’ GĐPHP – Thừa Thiên được hình thành. Chính BHD đầu tiên này đã hội họp nhiều lần và đi đến thống nhất chọn màu lam – màu khói hương trầm, làm màu sắc chính cho màu áo của tổ chức. Trong bản tường trình lên Tổng Hội có viết: “Đây là màu khói hương trầm, tổng thể của mọi màu sắc, nói lên được tinh thần đồng sự, bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật, không phân biệt giàu nghèo – sang hèn – quý tiện – nam nữ, nói lên được chí nguyện xả thân của người Phật tử.”

‘Muốn có màu lam, lấy mực Tàu mài đặc hoặc tán nhuyễn, hòa với màu xanh dương, đun sôi, nhuộm vải màu trắng, giặt sạch, là ra màu lam’.

Bấy giờ chẳng những công nhận cho GĐPHP sử dụng màu lam là màu áo chính thức, mà Tổng Hội còn quyết định đây là màu áo thường ngày ‘nhật bình’ của Chư Tăng – Ni.

Từ khởi đầu bản tường trình lên Tổng Hội Phật Giáo, màu áo lam đã thấm nhuần ý nghĩa:
● Màu Lam là màu khói hương trầm, tượng trưng cho sự thanh khiết – hướng thượng cao cả.
● Màu lam là màu hoại sắc, không loè loẹt, tổng hợp của nhiều màu, nói lên tinh thần bình đẳng tuyệt đối của Đạo Phật.
● Đồng phục màu lam còn toát lên ý nghĩa “đồng sự” của Đoàn sinh GĐPT. Vào GĐPT, gia nhập tổ chức áo lam, luôn giữ gìn nhân cách, phẩm hạnh để tự truyền Phật Đạo, tự thân quật ngã “Cái tôi” trong tinh thần xây dựng tự ngã hoà đồng.

– Luôn tâm niệm màu lam: Thiêng liêng – tôn quý, nhưng gần gũi – hòa đồng. Khoác lên đồng phục màu áo lam, ta thấy tâm hồn cởi mở – phóng khoáng – cao thượng – dễ tha thứ.

– Không mặc đồng phục áo lam trong lúc làm việc mưu sinh. Không mặc áo lam mà ăn mặn, vì đồng phục áo lam là lễ phục của tổ chức GĐPT.

– Quý kính áo lam, quyết tâm tự tiết chế, không vi phạm sai lầm, quyết làm những việc lợi ích cho quần sanh để xứng đáng với ý nghĩa màu lam: Có hiếu với cha mẹ, thuận thảo với anh chị em – bạn bè… sẵn sàng giúp ích mọi người.
( Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549 )

Ý nghĩa quần Short xanh dương:
Màu xanh dương là một trong bảy màu sắc cầu vồng, là một trong ba màu gốc cơ bản: vàng và đỏ. Màu xanh dương còn được gọi là màu xanh lam hoặc màu xanh nước biển, tiếng Anh là blue. Một trong những đặc điểm thú vị là được khúc xạ bởi mắt người, khi nhìn vào một không gian hoặc vật thể có màu sắc xanh dương thì có cảm giác xa hơn – nhỏ hơn và sâu hơn.
Màu xanh dương là màu của tuổi trẻ, nhiệt huyết – sáng tạo, có nhiều ý nghĩa:

– Nhẹ nhàng, biểu hiện cho sự tinh tế – tươi mới – mát mẻ, tạo nên sự phấn khởi.

– Biểu hiện cho lòng tin – giá trị – sự thật – sự an toàn – chính nghĩa, có trách nhiệm – quyết đoán cao.

– Khởi đầu một buổi sáng tươi mới – mênh mông – rộng lớn, cảm thấy bình yên và thoải mái.

– Đại diện cho tình yêu và sự bất tử.

Ý nghĩa nón Tứ Ân:
“Tứ ân” là phạm trù đạo đức, thể hiện ân tình giữa con người với con người.
Trong Kinh Tâm Địa Quán – Phẩm Báo Ân, Đức Phật Thích ca đã dạy: Phàm là con người phải ghi nhớ Tứ ân. Đó là:

Ân cha mẹ – Ân chúng sanh – Ân quốc gia xã hội và Ân Tam bảo.

Trong Tứ ân, đứng đầu là Ân đức của cha mẹ dành cho con cháu. Mỗi người làm con cần phải trân trọng gìn giữ và tìm cách báo đáp. Phải luôn phấn đấu sống, học tập và làm việc thật tốt, báo đáp bằng sự cung kính – vâng lời – siêng năng tu tập những thiện Pháp, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già.

Tứ ân tồn tại hiển nhiên trong cuộc sống mang tính khách quan, chuyển tải được giá trị chân thiện mỹ theo tinh thần Phật giáo, hàm chứa tinh thần đại hùng – đại lực – đại bi – đại trí. Mang sinh khí hòa bình – tự do – bình đẳng cho nhân loại, với hoài bão to lớn là giải phóng mọi ràng buộc khổ đau cho con người và muôn vật.

Ý nghĩa chiếc áo dài:
“Áo dài” là quốc phục, thể hiện bản sắc dân tộc Việt Nam.

Mặc áo dài nhã nhặn – dịu mát, kèm chiếc áo lót màu trắng, tôn vinh vẽ đẹp người con gái, là sự gắn kết không chỉ với những người thân trong gia đình – trong tổ chức mà còn là sự gắn kết với quê hương – dân tộc.

Người phụ nữ Việt Nam khoác lên mình chiếc áo dài, ôm gọn cơ thể, toát lên đường cong hình chữ S, hình dáng uốn lượn tuyệt vời đất nước Việt Nam thân yêu.

Áo dài góp phần làm tôn vinh nếp sống văn hóa của người Việt Nam tin yêu – đoàn kết – hòa nhã – thân ái.

Ái dài nguyên bản từ áo dài ngũ thân lập lĩnh, ra đời năm 1744, sau cải cách trang phục Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Là loại trang phục có cổ cao, thẳng và vuông, tượng trưng cho sự trung trinh – chính trực của người thục nữ. Trải qua năm tháng đã được cách tân – cải tiến – Tây hóa. Với 2 tà áo tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, một thân con nhỏ nằm bên trong, tượng trưng cho người mặc áo. Tà áo càng xuống càng xòe ra, chân – đuôi tà (cuối tà) cong (đường cong hướng lên trên như miệng cười). 5 khuy áo cài bên ngực trái có tác dụng giữ cho chiếc áo ngay thẳng – kín đáo mà còn đại diện cho năm đạo làm người: Nhân – nghĩa – lễ – trí – tín.

Suốt cả dòng đời thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, mãi mãi khắc ghi – nhớ hoài lời ân cần dặn dò của quý anh – chị trưởng:

Có hiếu – kính trọng – vâng lời Ông – Bà – Cha – Mẹ.

Thương yêu quý mến anh – chị – em – người thân trong gia tộc – họ hàng.

Siêng năng – chăm ngoan, chủ động xắp xếp công việc – tự chăm sóc bản thân – học hành cho thật giỏi.

Phụ giúp gia đình – đỡ đần cha mẹ.

Kính trọng – giúp đỡ mọi người chung quanh.

Dành thời gian ưu tiên, luôn luôn thiết tha – tinh tấn duy trì sinh hoạt, đến chùa đúng giờ, dù trời mưa lạnh hay nắng gắt.

Luôn luôn tích cực – nghiêm chỉnh tu học để hoàn thiện bản thân.

Không chối từ gian khó – sẵn sàng nhận lãnh – hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Suốt dòng đời sinh hoạt, chúng em mãi mãi thao thức hướng về mái ấm Gia Đình Phật Tử, mãi mãi nao nao mong chờ, đến mỗi cuối tuần là rảo quanh thôn xóm, gọi nhau í ới, tay trong tay cùng nhau tung tăng lên chùa, gặp lại anh – chị – bạn bè thân thương, kịp giờ Lễ Phật – Lễ Đoàn – tu học Phật pháp.

Sau ba tháng tích cực sinh hoạt, chúng em được tham dự Lễ Quy Y Tam Bảo.

Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo:
Quy y còn được gọi là quy đầu – ngưỡng trượng. Quy y trong Phật giáo có nghĩa là quy y Tam bảo (Phật – Pháp và Tăng). Nghĩa là y thác vào Phật – Pháp – Tăng ba ngôi có thể bảo hộ che chở, cũng gọi là Quy y Tam Bảo.

Chữ Quy có nghĩa là trở về – theo về, Y là nương nhờ hay thuận theo, làm theo lối đã định, tam quy y là quy y Tam bảo. Chữ Quy cũng được viết là 皈 gồm bộ thủ Bạch 白 (“cõi sáng”) và chữ Phản 反, “quay về” là “quay về cõi sáng” – “dốc lòng tin theo”. Trong các bộ Phệ-đà có nguyên nghĩa là “bảo hộ” – “cứu tế” hoặc “chỗ tị nạn” – “chỗ bảo hộ”, là chỗ chúng sinh có thể đến, thân được an toàn – tâm được vô ưu. Quy y Tam bảo của Phật giáo chỉ sự nương vào uy lực của Tam bảo để đạt được an ổn vô hạn của tâm thức, thoát mọi khổ não. Câu-xá luận quyển thứ 14 (Đại Chính 29.76c) nói:

“Nghĩa của Quy y là cứu tế, vì nương vào đó mà người ta có thể vĩnh viễn thoát khỏi mọi khổ ách”.

Người hâm mộ Phật pháp khi nhập môn tất phải thực hiện nghi thức quy y, thệ nguyện quy y Phật – quy y Pháp – quy y Tăng mới chính thức được xem là đệ tử Phật.

Người đã quy y có thể là một Phật tử – cư sĩ tu tại gia hay là xuất gia theo tăng đoàn.

Nếu hành giả muốn thực hiện quy y, tự đặt mình vào con đường tu học của nhà Phật bằng cách giữ giới. Một nguyện vọng tất yếu luôn được thực hiện một cách mặc định khi hành giả quy y Tam bảo là không được sát hại chúng sinh. Tùy theo các tông phái Phật giáo mà phương pháp thực hiện quy y và nguyện vọng có thể khác nhau. Năm giới sau được xem là những thành phần của nghi thức thực hiện quy y:

1. Không sát sinh
2. Không trộm cắp
3. Không tà dâm
4. Không nói dối
5. Không uống rượu

– Quy y Phật, hành giả tiếp cận bậc thầy, tức là đức Phật
– Quy y Pháp, hành giả học hỏi và thực hành Phật pháp
– Quy y Tăng, hành giả kính trọng Tăng già và tu học để đúng với gương của Tăng già.

Hành giả nên cố gắng:
– Điều chế ba cửa ải thân – khẩu và ý, thay vì để các giác quan khống chế. Không nên nói lời thô lỗ – không nên nghi hoặc và cố gắng không phán đoán.
– Sống một cách hoà thuận và giữ giới
– Tôn trọng tất cả chúng sinh
– Thực hiện các nghi lễ đặc biệt: Tham thiền – Tịnh độ – Tụng giới – Sám hối

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_y

Em được dự Lễ vào đoàn – được chính thức là Oanh vũ – Đoàn sinh Ngành Đồng, được nhận châm ngôn và ba điều luật:

1. Em tưởng nhớ Phật.
2. Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em.
3. Em thương người và vật.

Điều 1: Em tưởng nhớ Phật để được gần Phật và học theo tính tốt – hạnh lành.
Điều 2: Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em để tỏ lòng hiếu kính – thương yêu – không phụ công ơn cha mẹ. Anh em hòa thuận – một nhà thương yêu nhau – gia đình hạnh phúc.
Điều 3: Em thương người và vật bởi vì mọi loài đều biết đau đớn. Có yêu thương mới được yêu thương.

Trong buổi làm lễ phát nguyện đeo hoa sen trắng, chúng em nghiêm trang bắt ấn Cát tường kính chào.

Em vinh dự được quý anh – chị cài lên ngực áo chiếc huy hiệu xinh xắn – có biểu tượng hoa sen. Ấn tượng khắc ghi lời anh trưởng hướng giảng:

Hoa sen trắng muốt – tinh khiết vươn lên, không vướng bẩn mùi bùn nhơ tanh tưởi.

Dù giữa lòng đời uế trược – nhờ tu học Phật Pháp – đủ đầy chánh kiến – biết gạn đục lắng trong, mạnh dạn rời xa nơi chốn lao xao xô bồ lộn xộn, nơi có những trò chơi đam mê phồn tạp vô bổ – bê tha – sa đọa, nhiều màu sắc lôi cuốn cám dỗ ngoài xã hội, dễ dàng làm hư thân – mất nết – hủy hoại phẩm hạnh, mạnh dạn bước vào cổng chùa – gia nhập sinh hoạt Gia Đình Phật Tử, mà người Phật tử thuần thành được hướng thiện – luôn luôn tinh khiết sạch trong – không hề ô nhiễm.

Ý nghĩa Huy hiệu hoa sen:
Huy hiệu hoa sen là biểu trưng cho tinh thần của tổ chức GĐPT Việt Nam gần 70 năm qua, và được Hòa thượng Thích Tịnh Khiết Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam thay mặt Tổng Hội công nhận vào mùa Vía Phật Thành Đạo ngày 08 tháng chạp năm Mậu Tý (tức ngày 06 tháng 01 năm 1949) tại Ngôi Chùa Từ Đàm lịch sử, do H.Tr Lê Lừng sáng tác với sự chuẩn hóa kỹ thuật vẽ của H.Tr Phan Xuân Sanh.

Các em sẽ được cài trên ngực áo mình chiếc huy hiệu thiêng liêng chính thức trở thành Đoàn sinh của GĐPT. Việt Nam.

Tổ chức chúng ta chọn hoa sen làm biểu tượng tinh thần mà không phải là một loài hoa nào khác, bởi hoa sen có những đặc tính cao quý như sau:

1. Là loài hoa sống gần bùn mà không bị nhiễm bùn, luôn vươn mình tỏa ngát hương thơm thanh khiết. Đây là biểu trưng cho sự vô nhiễm.

2. Hoa sen không bị các loài ong – bướm – ruồi đến hút nhụy, ngửi hương và không dùng để trang sức. Chính là thể hiện tính ly dục của hoa sen.

3. Hoa sen với thân ngay, ruột rỗng, gương đầy hạt biểu trưng cho tinh thần hành trực, ngay thẳng, hỷ xả và bao dung.

4. Nơi nào ngó sen mọc lên thì bùn nhơ lắng xuống sạch trong thanh khiết, đó chính là đặc tính trừng thanh của Sen.

5. Hoa sen biểu trưng cho nhân quả đồng thời, bởi khi nở thì gương và hột đã thành.

6. Tất cả từ lá sen, ngó sen, tim sen, hạt sen, cánh sen, củ sen đều dùng được là thể hiện sự rốt ráo trong tu tập.

Từ những đặc tính cao quý này, mà Chư Phật – Chư Bồ tát đều chọn hoa sen làm tòa, đây là loài hoa biểu trưng trọn vẹn tinh thần nhất thừa, thành tựu Phật quả. Người Đoàn sinh GĐPT Việt Nam khi cài hoa sen phải tâm niệm sống như những đức tính thanh cao của hoa sen.

Chiếc huy hiệu của tổ chức chúng ta là hoa sen 08 cánh với bố cục 05 cánh trên và 03 cánh dưới, hoa sen màu trắng, trên nền xanh lá mạ, được bao bọc bởi chiếc vòng tròn trắng bên ngoài mang đầy đủ giá trị tinh thần của tu tập:

Năm cánh trên tượng trưng cho năm hạnh lành của người Phật tử, từ ngoài nhìn vào, cánh chính giữa là biểu trưng cho hạnh tinh tấn, thể hiện sự siêng năng không biếng nhác, sự tích cực không mệt mỏi trong hành trì, trong tu tập, trong phật sự mà tổ chức giao phó, không giãi đãi, không thoái xuất chí hướng khi gặp khó khăn, đây là hạnh nguyện được biểu trưng bởi Đức Phật Thích Ca. Bên trái cánh tinh tấn là cánh sen Thanh tịnh, đây chính là sự trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm, thể hiện sự chân chánh của người Phật tử, đây là hạnh biểu trưng của Đức Phật A Di Đà. Bên phải cánh tinh tấn là cánh sen hỷ xã, đây chính là hạnh đức cao quý của Ngài Di Lặc, hỷ xả chính là bao dung, tha thứ trong niềm hoan hỷ không chấp trước, biết thương yêu, biết xây dựng cho nhau, biết mỉm cười để lỗi lầm của nhau tan biến trong tinh thần cầu sám hối. Cánh sen cạnh bên cánh thanh tịnh là từ bi, với hình ảnh tiêu biểu của Bồ Tát Quán Thế Âm, biết học và thực hành hạnh lắng nghe, đem đến cho người niềm vui, làm cho người vơi đi khổ đau đó chính là hạnh từ bi được thực hiện. Cánh sen cạnh bên cánh hỷ xả là Trí tuệ, tiêu biểu cho Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, trí tuệ là chất liệu để tiến tu, trí tuệ là sự hiểu biết chân chánh, cắt đứt mọi cấu uế phiền não, không chất chứa tà kiến.

Ba cánh dưới tượng trưng cho 03 ngôi báu Phật – Pháp – Tăng, nơi quy ngưỡng bền vững, quý báu nhất trên thế gian này.

Từ đó, chúng ta thấy nền tảng Tam bảo đã xuất sanh 05 hạnh lành, người Phật tử quán niệm và thực hành đúng tinh thần này thì thành tựu công đức, con đường đạt đến cứu cánh không xa.

Màu trắng của hoa sen biểu trưng cho sự thanh khiết, vô cấu nhiễm, thanh tịnh giữa cảnh trần nhiều sự nhiễm ô. Màu xanh lá mạ biểu trưng cho sức sống vươn lên của tuổi trẻ đầy hy vọng vào tương lai, biểu trưng cho tổ chức giáo dục Thanh

– Thiếu – Đồng niên GĐPT chúng ta luôn hướng đến con đường hiền thiện.

Vòng tròn trắng bên ngoài chính là thể hiện ý nghĩa Đạo Phật Viên Dung Hoàn Toàn Vô Ngại, tròn đầy tâm nguyện và hạnh đức với con đường hướng đến giải thoát giác ngộ trong hào quang bảo bọc của Tam bảo, quang huy rực rỡ ánh sáng nhiệm mầu, vi diệu.

Với những ý nghĩa cao quý, huy hiệu hoa sen được cài ngay trái tim, khi nào hơi thở còn, nhịp đập con tim còn, thì còn nhiệt huyết cho lý tưởng, sức sống còn chúng ta nguyện giữ tinh thần cao quý cho Hoa sen, nuôi dưỡng hoa sen bằng đất tâm thuần khiết và gìn giữ sức sống, uy danh, sự trường tồn của tổ chức bằng tất cả con tim của mình.

Hãy trân quý huy hiệu hoa sen như quý con ngươi của mình, vì nơi huy hiệu đã chứa đựng tất cả công đức lành với các vị Phật và Bồ tát tiêu biểu, là 03 ngôi báu quý nhất trên thế gian này, là linh hồn của tổ chức, chớ để bừa bãi, chớ quên mất huy hiệu hoa sen trong những lần đến với áo lam. Quên huy hiệu chính là quên bản tâm, phật tánh trong mình. Mất huy hiệu là mất chính mình. Nên các em chớ bao giờ khinh xuất, phải cẩn trọng gìn giữ.
Trích dẫn: Lễ Lượt GĐPTVN
(Phụ bản 1 Đính kèm Quyết định số:13.114/HDTƯ/QĐ/TB ngày 22.11.2013)

Ý nghĩa ấn cát tường:
Gia Đình Phật Tử cũng như các tổ chức khác có cách chào riêng, khi mặc sắc phục, để tỏ lòng thân thiện, biểu lộ sự hoà hợp, nhắc nhau tinh tấn tu học, biết kính trên nhường dưới, và chứng tỏ tinh thần kỷ luật của Gia Đình Phật Tử.

Khi mặc đồng phục, chúng ta chào bằng cách bắt ấn Tam Muội (cũng gọi là ấn Cát Tường – ấn Chánh Định, ngón cái: tâm, ngón trỏ: thân, ngón cái ấn trên ngón trỏ, ý chỉ thân tâm không hai).

Khi chào đứng nghiêm, mặt hướng vào người mình chào, tay phải gập lại, cánh tay song song với thân người, lòng bàn tay hướng về phía trước, cùi chỏ gần sát thân người và ngang bằng với tầm lưng (đừng đưa quá ra phía sau hay phía trước), các ngón tay khép vào nhau, ngón tay cái đè lên ngón tay đeo nhẫn, tay trái xuôi theo người.

Ấn Tam Muội có mục đích làm cho lòng mình lắng lại, chú tâm không tán loạn, phóng ra sự an lành (Cát Tường). Chào theo lối bắt ấn Tam Muội, là nhắc nhở chúng ta lắng lòng hướng về việc lành, tin theo đức Phật, tin vào chánh Pháp, chúc tốt lành cho nhau. Chính đức Phật thường dùng ấn này để phóng hào quang cứu độ chúng sanh.

Chào kính là những quy ước xã hội mang tính văn hoá, nhân bản nhằm thăng tiến cuộc sống tinh thần của con người nên thông thường :

– Người nhỏ chào người lớn trước.

– Khi đi trong hàng, gặp Thầy hay anh chị trưởng, chỉ người hướng dẫn chào mà thôi.

– Khi gặp đám tang, tất cả đều chào.

– Khi đón chào quan khách, hô khẩu hiệu tất cả chào một lần.

– Khi chào cờ sen trắng, hô khẩu hiệu ( tiếng reo) chào xong, đứng nghiêm hát bài ca chính thức Sen Trắng.

– Khi gặp quý Tăng Ni, thì chắp tay như búp sen ngang ngực, cúi đầu chào, khi gặp quý Bác ( đạo hữu ) cũng vậy.

– Khi đi ngang qua nơi tôn nghiêm (chùa, đền thờ…) thì yên lặng để tỏ lòng thành kính.

– Khi mặc thường phục: Cất nón – cúi đầu, vái chào tùy theo trường hợp.

Là đoàn sinh GĐPT, luôn luôn nêu cao tinh thần kỷ luật, danh dự của đoàn thể :
– Gặp Tăng – Ni, chắp tay như búp sen để ngang ngực cúi đầu chào.

– Gặp các anh, chị và bạn đoàn (có đoàn phục), tay bắt ấn Tam Muội (Cát Tường) để tỏ ý vui mừng, nhắc nhở nhau tinh tấn tu học.

– Những lúc đi ngang qua nơi tôn nghiêm nên im lặng, không cười nói múa may, tỏ lòng tôn kính.

– Khi vào nơi tôn nghiêm, xuống xe dẫn bộ để tỏ lòng lịch sự – tôn kính.
(Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549)

Mỗi dịp Xuân về. Từ mùa Đông lạnh giá, nàng Xuân duyên dáng bước ra, mang theo hương sắc trinh nguyên xinh tươi rực rỡ. Cây lộc đầu Xuân được Gia Đình Phật Tử trang trí muôn màu muôn sắc làm rực sáng cả góc chùa. Khách thập phương viếng chùa lễ Phật, ai nấy đều hoan hỷ hái cho mình một cánh lộc, mang những dòng kinh văn chúc phúc đầu năm.

Sau thời kinh lễ Phật chào đón năm mới, chúng em nối bước theo chân Huynh trưởng, thanh tĩnh vào phòng phương trượng, cúi đầu đảnh lễ, khánh chúc trên Chư Tôn Đức bổn tự thêm tuổi đạo – tăng long phước thọ. Chúng em hớn hở sung sướng được thầy chúc mừng cho mỗi người một bao lì xì xinh xắn.

Hằng năm đơn vị đều tổ chức ngày Dũng – ngày Hạnh bằng những đêm hội ngộ quanh đèn, nói lên hạnh nguyện – tinh thần – ý chí dấn thân của mỗi Nam – Nữ Phật tử.

Ngày Dũng ngành Nam GĐPT, vào dịp Lễ Phật Xuất Gia – mồng 8/02 (âm lịch). Ngành Nam GĐPT ý thức:

Tùy theo y báo – chánh báo mà nhân sinh thọ nhận báo thân sinh vào quốc độ thọ nghiệp khổ đau. Bằng tuệ giác kỳ vĩ thái tử Tất Đạt Đa đại hùng – đại lực chối từ thế nghiệp – vượt dòng A Nô Ma, năm năm tầm sư học đạo – sáu năm khổ hạnh rừng già – bốn mươi chín ngày đêm ròng rả hành thiền, Ngài giác ngộ thành Phật.

Đoàn viên ngành Nam GĐPT thức dậy – ý thức cộng sinh – lớn dần dòng suy tưởng xuất thế vị tha, trãi lòng rộng lớn vì tha nhân mà dấn thân phụng sự.

Ngày Hạnh ngành Nữ GĐPT, chọn một trong ba ngày lễ Bồ tát Quán Thế Âm trong năm: 19/02 – 19/06 và 19/09 (âm lịch). Đức Quán Thế Âm chứng đắc “Nhĩ căn viên thông”:

Người Nữ GĐPT nghe hiểu Phật pháp, nhận chân thật tướng như thật, ứng dụng Văn – Tư – Tu, Nghe – hiểu – thực tập hoàn thiện bản thân – ứng dụng vào phật sự giáo dục. Người Nữ GĐPT học hạnh Quán Thế Âm “Xoay cái nghe vào bên trong”, lắng nghe tự tánh thanh tịnh, “phản quang tự kỷ” soi rọi chính mình, dừng lại cái nghe thanh trần phồn tạp đạo đoạn sanh khởi vọng tâm.

“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây hạnh để đời mai sau”
‘Ca dao VN’.

Mùa Phật Đản sinh – Hoa Ưu Đàm rộ nở, bảy đóa sen hồng nâng bước chân thơm – thái tử Tất Đạt Đa ra đời. Dưới sự hướng dẫn của quý anh – chị trưởng, chúng em tập trung thành đoàn. Tùy vào ý tưởng sáng tạo – trước mỗi ghi đông xe đạp – chúng em trang trí hình ảnh Đản sinh – cờ – hoa – bong bóng bay đẹp đẽ. Chúng em – GĐPT dẫn đầu đoàn xe hoa diễu hành qua khắp mọi ngõ phố – cổng chào – tư gia trang hoàng biểu tượng – hình ảnh – cờ hoa rực rỡ đón mừng ngày Phật Đản Sinh.

Ngày Hiếu ngành Đồng (Oanh vũ) GĐPT, được chọn thời gian trước Lễ Vu Lan. Ngày Hiếu được tổ chức nhiều loại hình sinh hoạt thể hiện lòng hiếu thảo dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Chúng em ấn tượng nhất là Lễ Cúng Dường Tứ Ân: Tứ ân là phạm trù đạo đức, giáo dục tinh thần:

“Uống nước nhớ nguồn”
“Ăn quả nhớ kẻ trông cây”.
Kinh Tâm Địa Quán – phẩm Báo ân, đức Phật dạy Tứ Ân:

Ân cha mẹ – Ân chúng sanh – Ân quốc gia xã hội và Ân Tam bảo.
Để thực hiện trang trọng buổi lễ cúng dường này, quý anh – chị trưởng đã thông báo – hướng dẫn từ trước. Chúng em ai nấy đều nức lòng, thể hiện lòng thành, tự để dành – nhín lại một phần tiền – bỏ heo ống những khoản tiền mà Ba Mẹ cho ăn quà vặt hay ăn sáng. Đến gần ngày lễ – chúng em đập bể heo đất, lấy ra những đồng tiền đã để dành được, mua những món quà mà Cha – Mẹ ưa thích.

Đến giờ phút thiêng liêng, được Huynh trưởng MC mời lên, chúng em hàng hàng thẳng tắp – đảnh lễ – tưởng niệm Tứ Ân. Đến nghi thức cúng dường Ân Cha nghĩa Mẹ, được Huynh trưởng tuyên xướng – hướng dẫn đến trước mặt Cha Mẹ đảnh lễ hai lạy, quỳ trang trọng nói:

– “Con kính yêu cha ‘mẹ’ nhiều lắm !”

Rồi hai tay kính cẩn nâng phẩm vật cúng dường dâng lên Cha Mẹ kính yêu.

Trước giây phút trang trọng thiêng liêng này, cả thính phòng âm trầm lắng xuống, từng dòng nước mắt hoen mi, đây đó sì sụt từng tiếng nấc nghẹn ngào, làm cho Thầy chứng minh cũng xúc động lau nước mắt !

Lễ Hội Vu Lan, tháng bảy – mùa Thu, mùa có từng đợt mưa phùn – mang theo những ngọn gió heo may – thổi bay những chiếc lá vàng rơi rơi phơi đầy sân cỏ. Tháng bảy – mùa Thu – mùa Vu Lan báo hiếu Tứ trọng ân, làm cho người ta hoài tưởng – ngậm ngùi nhớ nhiều về công đức sinh thành – dưỡng dục. Dù cho ai đó tha hương biệt xứ tận cuối chân mây. Hoài niệm – canh cánh hướng về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có dòng sông lặng lờ – êm đềm bên lũy tre già – mãi miết chảy dài theo năm tháng, nơi có mái tranh nghèo xơ xác – có người mẹ lưng còng – má tóp – tóc trắng giăng mây, cặm cụi bên bếp lửa hồng – cho sợi khói vươn cao vào mỗi buổi lam chiều. Bên bụi chuối sau hè – có chum nước rửa chân – để được sạch bụi đường xa bao nỗi nhọc nhằn vất vã mưu sinh.

Văn hóa hoa hồng, niệm ân công đức Thầy Tổ – Mẹ – Cha, nhân mùa Lễ Hội Vu Lan người ta cài lên ngực áo tặng nhau những đóa hoa hồng.

Niệm ân Sư trưởng – người ta cài lên ngực áo Thầy đóa hoa Hồng vàng. Nếu Mẹ còn sinh tiền – người ta tặng nhau đóa hoa Hồng thắm. Nhớ về người Mẹ đã qua đời – người ta tặng nhau đóa hoa Hồng bạch.

Tháng 8 – Tết Trung Thu, còn gọi là Tết Thiếu Nhi, bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước. Sau vụ mùa lúa chín vàng óng ả hắt lên nền trời Thu trong xanh. Nông trang nhàn rỗi, người ta bày cỗ thưởng trăng, trẻ thơ hân hoan ríu rít rước đèn lồng – đèn ông sao sắc màu rực rỡ:

“Thùng thình thùng thình
Trống rộn ràng ngoài đình…”

Tuổi thơ Oanh vũ GĐPT cũng háo hức hòa nhịp lòng vui Tết đón Trung Thu dưới ánh trăng Rằm man mác, bên những mâm cổ tràn đầy bánh trái, để rồi ký ức tuổi thơ theo năm tháng ngọt ngào. Chúng em được thưởng thức – hòa mình vui cười thỏa thích vào những hoạt cảnh do anh – chị trưởng đóng vai chú Cuội – chị Hằng, cùng nhau cất cao tiếng hát:

“Bóng trăng trắng ngà có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ…”

Rời tuổi thơ ngây, chúng em được lên Đoàn ngành Thiếu rồi ngành Thanh ‘Nam – Nữ Phật tử’ vào dịp trại lễ Phật Thành Đạo. Chúng em được phát nguyện nhận năm điều luật của Gia Đình Phật Tử:

Ý nghĩa 5 điều luật của Gia Đình Phật Tử:
Trước năm 1951, theo đề cương tám điểm của bác Tâm Minh Lê Đình Thám, điểm thứ tư có ghi

Phật tử sống trong Gia Đình Phật Hoá Phổ phải tuân hành 10 điều luật sau đây :

1. Phật tử học kinh, niệm Phật.
2. Phật tử kính mến cha mẹ và thuận thành với anh chị em.
3. Phật tử sống nhân từ đối với người và vật.
4. Phật tử lựa bạn tốt và mến thương bạn.
5. Phật tử vui buồn cùng chia, nhắc nhở nhau lánh dữ làm lành.
6. Phật tử giữ gìn lời nói ôn hoà, ngay thật.
7. Phật tử thật thà , siêng năng, thứ tự, sạch sẽ.
8. Phật tử sống giản dị và điều độ.
9. Phật tử sống giản dị và lạc quan.
10. Phật tử làm tròn bổn phận .

Đến năm 1951, Đại hội Huynh trưởng GĐPT đã xây dựng nên Nội quy trình gồm 5 chương – 15 điều. Chương thứ nhất – điều thứ tư ghi :

Luật của Thanh Thiếu Niên nam nữ và Huynh trưởng là :

1. Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện.
2. Phật tử mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống.
3. Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật.
4. Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.
5. Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo.

Ngày trước, luật nặng tính cách xây dựng cá nhân con người theo Nhân thừa. Giai đoạn thứ hai nhằm phát triển huệ trí, tiến đến giác ngộ và giải thoát.

– Điều thứ nhất phù hợp với hạnh Tinh tấn của Đức Phật Thích Ca.
– Điều thứ hai thực hiện hạnh Từ bi mà Bồ Tát Quan Thế Âm là biểu tượng.
– Điều thứ ba phù hợp với hạnh Trí tuệ mà Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là biểu tượng.
– Điều thứ tư thực hiện hạnh Thanh tịnh của đức Phật A Di Đà.
– Điều thứ năm thực hiện hạnh Hỷ xả của Đức Phật Di Lặc.

1. Kỷ luật của đoàn thể hay pháp luật của quốc gia chỉ nhằm duy trì trật tự an ninh cho xã hội và con người chứ không nhằm đưa con người đến chỗ giải thoát – giác ngộ. Còn giới luật của đạo Phật, luật của GĐPT là đóng ngõ ác đạo, mở cửa từ bi – trí tuệ, vào căn nhà giải thoát – giác ngộ của Đức Phật.

2. Đọc luật phải giữ tâm thanh tịnh, không khí trang nghiêm để từng lời nói, từng âm thanh vang vọng trong tiềm thức, trong tư duy của chúng ta, nhận ra những sai khuyết mà phát lồ sám hối, cũng như hướng đời mình đến các điều tốt đẹp để nở được bông hoa Phật tánh.

3. Đọc luật là một hình thức tụng giới và phát tâm giữ luật như giữ giới, soi rọi cuộc đời mình. Luật là giáp phục của đoàn sinh GĐPT.

– Hằng ngày, sau khi thức dậy, em nhẩm đọc luật và phát tâm giữ luật hằng ngày.

– Hằng ngày, trước khi đi ngủ, em nhẩm đọc và kiểm lại bản thân nếu có sai phạm tức thì sám hối.

– Giữ luật như giữ gìn hơi thở và sự ăn uống để nuôi dưỡng sinh mạng, để tu tập Phật đạo.
(Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549)

Buổi lễ lên Đoàn sao mà xúc động đến vậy, được anh trưởng dắt tay vượt qua chiếc cầu tre bập bênh để trao tay chúng em vào tay Huynh trưởng trên ngành, nước mắt ai nấy đều đầm đìa luyến tiếc rời xa tuổi thơ được nâng niu chìu chuộng. Mặc dù vẫn chung cùng đơn vị, nhưng sao mà lòng vẫn cảm thấy xa xót rời Đoàn – xa bạn bè thân ái.

Rồi buổi lễ lên đường đầy hào hứng, chúng em mỗi người tay cầm một chiếc gậy – đầu gậy lủng lẳng chùm dây dù, vai mang balô lên đường, được xây dựng bằng một kịch bản trò chơi lớn “Tầm sư học đạo”. Nhận được tín hiệu Morse, theo dấu đi đường đến điềm vượt khó – chúng em dùng gậy bắt cầu vượt suối – băng rừng – bám dây dù leo núi, chúng em nhận từng bảng văn – dịch từng mật thư lắt léo để qua biết bao trạm gian nan – dẫy đầy ma vương mang nhiều nhân dáng kinh hãi, rình rập mọi ngỏ ngách, cám dỗ – quậy phá để vượt qua. Làm cho nhiều ban gái nhát gan – sợ hãi – túm tụm – ôm chầm vào nhau – la chí chỏe suốt quãng đường rừng. Cuối cùng nhận được tín hiệu Semaphore, chúng em cùng nhau quay về lại chùa – đến đích. Đích là cội cây Bồ đề – cành lá xum xuê – che phủ mát rượi, nơi đây một Huynh trưởng hóa thân Đức Phật – đang ngồi tham thiền nhập định, còn chúng em hóa thân làm 5 anh em Kiều Trần Như – ngồi vây quanh nghe Phật thuyết giảng.

Em ấn tượng vui nhất là trến đường hướng về Chùa – đến trạm. Đội chúng em nhận được mật thư: Cấp cứu người bị nạn – gãy chân. Thế là 2 bạn rời hàng – cởi áo – dùng gậy làm cán. 1 bạn ngã xuống – nằm lên cán. Bạn phụ trách y tế mở túi cứu thương – lấy bông băng – tẩm thuốc đỏ, trình tự – cẩn thận băn bó gót chân. Chúng em công kênh nạn nhân lển đường, cả khu phố bàng hoàng túa ra! Qua cổng Chùa, chúng em tìm đến trạm có H.Tr hóa trang bác sĩ, kiểm tra cấp cứu – cứu thương. Đội viên y tế tháo gỡ bông băng, làm cho mọi người hiếu kỳ thấy ra chỉ là trò chơi thực tập, ai nấy đều kinh ngạt ồ lên, đập vui lên vai chúng em, rồi hỷ hả cười giải tán !

Chiếc gậy theo em suốt những kỳ trại thời niên thiếu, mỗi kỳ trại đi qua em đều khắc ghi tên trại – ngày tháng để lưu dấu kỷ niệm. Tiếc rằng chiến tranh – sau những năm tháng loạn ly – chiếc gậy thất lạc từ lúc nào – làm cho mãi tiếc nuối không nguôi !

Đến tuổi trưởng thành, qua trại huấn luyện, em được phát nguyện làm Huynh trưởng. Buổi lễ truyền đăng thiêng liêng, làm cho chúng em ai nấy nao nao dâng trào bồi hồi cảm xúc. Chúng em mỗi người trên đôi tay một cây nến, ánh nến lung linh theo tiếng vọng từ bóng đêm truyền về – đánh thức mê vọng từ lâu mãi mê ngã ái, lương tri bừng sáng, chối từ vị kỷ hèn mọn, phát nguyện dấn thân: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”. Mỗi cây nến truyền đăng còn lại qua các kỳ trại huấn luyên – em vẫn còn lưu giữ mãi đến hôm nay, để mãi mãi khắc ghí nhớ hoài một thời – nhớ hoài những giây phút thiêng được trưởng thành – được lớn khôn thêm.

Ý nghĩa “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”:

Kinh Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội dạy:

Năm sự ô trược ác thế – dơ dáy – xấu ác thiêu đốt thế gian:

– Thời đại biến đổi không ngừng: Kiếp trược.
– Sự thấy biết sai lầm, tà bậy: Kiến trược.
– Những si mê, tham đắm, thù hận: Phiền não trược.
– Sự luân hồi sanh tử không ngừng dứt: Chúng sanh trược.
– Đời thọ mạng ngắn ngủi, vô thường: Mạng trược.

Ngài A Nan phát nguyện: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”, thâm nhập vào ngũ trược ác thế để giáo hóa cứu độ cho chúng sinh.

“Nếu còn một chúng sinh nào chưa thành Phật. Nguyện chẳng tự mình chứng niết bàn. Dù chỉ còn một chúng sinh chưa thành Phật, Con nguyện không nhập niết bàn – không thành Phật – không được công nhận là người đã đạt được quả vị”.

Ý nghĩa truyền đăng:
Pháp truyền Vô Tận Đăng xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật sở thuyết – thời Phương Đẳng – phẩm Đệ tử (Thứ tư) nói về hành trạng Bồ tát Trì Thế:

Một thời cư sĩ Duy Ma Cật là hoá thân của Bồ Tát Tịnh Danh ở cõi Vô Cấu của Phật Bất Động Như Lai, thị hiện xuống Ta Bà làm trưởng giả cư sĩ, ngụ tại thành Tỳ Xá Ly.

Một ngày cư sĩ Duy Ma Cật thị hiện bệnh duyên, nhiều người tới thăm, Ngài tùy duyên thuyết pháp Đại thừa giáo hoá.

Đức Bổn Sư Thích Ca ngụ tại Tịnh xá Kỳ Viên, phân công các vị Đại đệ tử và Bồ Tát hướng dẫn đại chúng đến thăm bệnh Duy Ma, nhưng cả 10 Đại đệ tử Thanh Văn và 4 vị Bồ Tát không ai dám đến thăm bệnh Cư sĩ, vì trong quá trình giáo hoá, quý Ngài đã từng bị Cư sĩ Duy Ma vấn nạn về các mặt sở trường tu chứng, qua các lần Pháp thoại quý Ngài đã không trả lời được. Đến khi Đức Bổn Sư chỉ định Ngài Bồ Tát Trì Thế đến thăm bệnh Duy Ma Cật, Ngài Trì Thế cũng hồi bạch Thế Tôn không dám đến thăm bệnh, vì nhân duyên sau:

Ngày đó khi Bồ tát Trì Thế đang toạ thiền trong rừng, Thiên ma Ba Tuần giả dạng Thiên chủ Đế Thích (Vua cõi trời Đao Lợi), mang theo vô số Thiên nữ kỹ nhạc đến đảnh lễ Ngài Trì Thế. Trì Thế Bồ tát vốn là quốc sư của Đế Thích, nên y theo Pháp Phật mà khuyến tấn:

“Vua Trời Đế Thích không nên đam mê dục lạc mà hãy chú tâm vào việc thanh tịnh thân tâm – tô bồi phước đức – hoá độ chúng sanh”.

Vua Trời Đế Thích xin dâng tặng Bồ Tát Trì Thế 12 ngàn thiên nữ để phục dịch, nhưng Bồ Tát đã y theo pháp Thanh Tịnh vô nhiễm của Thích Tử Như Lai, nên không dám thọ nhận kỹ nữ để hưởng thú vui dục lạc.

Ngay khi đó, giữa không trung có tiếng của cư sĩ Duy Ma Cật khiển trách Bồ tát sao nhận lầm ma Ba Tuần là vua trời Đế Thích, đồng thời nói với ma Ba Tuần rằng:

“Trì Thế không dám nhận ma nữ nhưng ta thì nhận được, vậy ma hãy dâng tặng ma nữ cho ta thì mới đi được”.

Trước pháp lực của cư sĩ Duy Ma Cật, ma Ba Tuần không thể thoát thân đành phải hứa vâng chịu, dâng tặng 12 ngàn ma nữ cho Duy Ma Cật rồi về cung. Cư sĩ Duy Ma Cật nhận 12 ngàn ma nữ liền dạy cho họ các Pháp vui trong chánh Pháp đại thừa:

– Vui tin Phật
– Vui nghe Pháp
– Vui cúng dường Tăng
– Vui làm việc thiện
– Vui giáo hoá chúng sanh…

Chúng ma nữ sau khi nghe Pháp, tín thọ phụng hành, được cư sĩ trả về cung ma và dạy rằng:

“Có pháp Vô Tận Đăng như ngọn đèn không bao giờ tắt, các người hãy đem chánh Pháp truyền dạy cho chúng ma tại ma cung, người này truyền người kia, ánh sáng tiếp nối mãi vô tận mà ngọn đèn đầu tiên vẫn không hao tổn. Chánh Pháp sẽ được tiếp nối mãi và ánh sáng không bao giờ dứt…”

Từ đó mãi mãi cung ma luôn luôn được thắp sáng bằng ngọn đèn chánh Pháp Vô Tận – nhân thiên đều an lạc.

Đời người có hai cuộc sống oằn nặng trên đôi vai. Một vai gánh vát đời sống vật chất:
Vật chất là một thực tại khách quan luôn luôn vận động – vô thường: Công danh – sự nghiệp – gia đình – quốc gia – xã hội.

Một vai trĩu nặng đời sống tâm linh:

Tâm linh là một khái niệm – một hiện tượng tinh thần được phát triển ý thức – tri giác – sinh học, tương tác lên đời sống thực thể. Nhờ tu – học Phật pháp tác động tìm năng – ý chí. Tri thức người Huynh trưởng Phật tử được trưởng dưỡng phát triển, ý thức được bản thân, phẩm hạnh được nâng cao, hình thành nhân cách đạo đức toàn diện, hướng tới toàn mỹ – toàn thiện – toàn chân. Ý thức được rằng: Ngoài tích cực tu học để tự thăng tiến – hoàn thiện bản thân, mà còn có trách nhiệm thiêng liêng cao cả mà tổ chức tin tưởng trao phó, đó là: “truyền đăng – tục diệm”, trao truyền – hướng dẫn đàn em thân yêu.

Tâm linh và vật chất phải được cân bằng trên đôi vai mỗi nhân giả, nếu bên này mà trĩu nặng còn bênh kia mà nhẹ tênh, thì đời sống trở nên dị tật, bước đi khập khiểng – mất thăng bằng – dễ dàng té quỵ giữa đời thường. Người Huynh trưởng có tri thức, có tu – có học, biết ý thức cuộc sống, biết làm chủ bản thân, vững vàng trong cuộc sống không dễ dàng để đôi vai bị xô lệch mất bình thường.

Cuộc đời em gắn liền với màu áo lam hiền hòa thân thương, được tắm mình trong suối nguồn cam lồ ngọt ngào mát rượi. Hằng đêm theo chân Mẹ lên chùa – cùng Mẹ ê a hòa vào những lời kinh trầm hùng trong những đêm tịnh độ. Những buổi cuối tuần – trong màu áo lam lên chùa nhập Đoàn lễ Phật – sinh hoạt. Và cứ mãi miết như thế, cuốn hút em lớn dần theo năm tháng dưới mái chùa làng yên ả, trong tiếng mõ nhịp nhàng cầu kinh – hòa quyện tiếng chuông ngân vang vọng vào thu không.

Tri thức vốn có hôm nay, cứ ngỡ rằng giỏi giắn – tài ba hơn người. Đâu có ngờ rằng, ngoài công đức sinh thành như trời biển bao la, sự nuôi dưỡng gian lao – tận tình dạy bảo của Mẹ – Cha. Ngoài những nỗ lực vật vã dùi mài kinh sử – thu nhặt được từ sách vỡ – Thầy Cô – bạn bè theo năm tháng mài đũng quần trên ghế trường đời – cộng đồng xã hội, chúng em đã tinh tấn – tích cực tu học. Nhờ công đức giáo dưỡng của quý Anh – Chị đi trước hướng dẫn, nâng niu dìu dắt từng bước chân đi, chăm chút tài bồi – truyền tải tri thức – vun xới – gọt tỉa – uốn nắn thân cành – làm mới, để cho chúng em mỗi ngày thêm được lớn khôn.

Biết bao năm tháng thanh tĩnh dưới mái chùa thân yêu chở che hồn dân tộc, trãi qua biết bao bậc học. Tính từ thuở ngành Đồng Oanh vũ: Mở mắt – Cánh mềm – Chân cứng – Tung bay. Đến khi được lên đoàn, ngành Thiếu: Hướng thiện – Sơ thiện – Trung thiện – 2 năm Chánh thiện. Bước lên ngành Thanh: 2 năm bậc Hòa – 2 năm bậc Trực, để rồi được bước lên cao hơn nữa, ngành Huynh trưởng: Bậc Kiên – 2 năm bậc Trì – 3 năm bậc Định – 5 năm bậc Lực, rồi qua các trại huấn luyện: Tuyết Sơn, Anôma Niliên – Lộc Uyển – A Dục – Huyền Trang – Vạn Hạnh và Phú Lâu Na. Cứ mỗi lần thi kết khóa hoàn tất bậc học vào dịp Lễ Phật Thành Đạo. Trong buổi lễ vượt bậc – vượt trại – thọ cấp, chúng em được quý anh – chị trao chứng chỉ – quyết định, gắn lên vai áo phù hiệu bậc học đã qua – cấp đang thọ, làm cho lòng chúng em cảm thấy nao nao, thấy mình được thêm tuổi đạo – được trưởng thành lớn khôn hơn, để rồi nao nức chờ đợi ngày khai khóa bậc học mới vào dịp Lễ Phật Xuất Gia.

Tổ chức trao cấp, là trao một sứ mệnh thiêng liêng trọng đại vào đôi tay vững chãi của Huynh trưởng. Người Huynh trưởng tài năng không dễ dàng cúi mặt – khuất phục trước cam go, mà với nguyện lực to lớn, sẵn sàng gánh vát gian nan để thành toàn trọng trách.

Thiết nghĩ, người lãnh đạo phải mang tâm trạng của một người đi tìm hướng sống, tìm cái hay – cái đẹp, cái chân thiện mỹ cho cuộc đời. Phải thao thức với những khám phá mới lạ một cách nhiệt thành. Không nên có tâm trạng của một lữ hành đi qua rừng trầm hương, mà không thưởng thức được mùi hương. Tắm mình trong dòng ánh sáng phật pháp, mà không nhận thức được chân đế. Hoặc bọc trong mình hạt minh châu, mà không biết là châu ngọc. Không thiết tha trân quí, không thẩm thấu được luồng sinh khí mới mẽ, để mang lại một kết quả tốt đẹp hơn.

Chúng ta sẽ rất thất vọng, nếu là một nhà lãnh đạo, mà không có một nhiệt tâm quên mình vì tổ chức. Không có một kế hoạch, một hướng nhìn sâu sắc. Không vạch ra một phương hướng mới mẽ để hành đạo, để khế cơ phù hợp xác đáng với tình hình. Thấy trầm lắng mà cứ thỏng tay, thấy dậm chân mà cứ chùn bước. Tối ngày chỉ biết loay hoay, đoanh vây trong tháp vàng, với những hương đăng nghi ngút, giữ mãi những hình thái sinh hoạt, không còn đáp ứng phù hợp, với những nhu cầu cấp thiết mới, tức là làm một việc làm vụng dại – ấu trĩ. Nếu cố chấp bảo thủ mãi những hình thức sinh hoạt lỗi thời, tức là vô tình đẩy lùi xã hội, và làm cho tổ chức GĐPTVN thoái hóa, khô héo dần trong xác cũ.

Đến hẹn lại lên, hằng năm tích cực tham gia các cuộc: Hội thảo – hội ngộ quanh đèn – các kỳ trại lễ – trại truyền thống – bồi dưỡng – chuyên năng – dã ngoại – giao lưu… Và cứ mãi miết như thế cuốn hút tuổi hoa niên. Bên ánh lửa trại lưu luyến còn sót lại – hay dưới lều trăng lộng gió, chúng em trao cho nhau từng cuốn lưu bút tình lam – ghị lại cho nhau biết bao cảm xúc thân thương, để rồi sau mỗi kỳ trại:

“Tay cách xa nhưng tim không xa
Gan thép ta chia tay đừng buồn !…”

Để rồi mỗi lần giở lại từng trang lưu bút “Vui tươi ta biết trong lòng nhớ lòng !…” Dưới mái lều chan hòa ánh trăng, chúng em lại gối tay nhau “thức trọn đêm nay…” để mà tâm sự – trao đổi kiến thức Phật pháp, khuyến khích nhau tinh tấn sinh hoạt – tâm huyết hy hiến phụng sự tổ chức, sách tấn nhau Tâm Bồ Đề kiên cố – dũng tiến trên đường đạo. Hứa hẹn với nhau cố gắng gìn lòng son sắc, gắn bó – giữ vững niềm tin tổ chức GĐPTVN, hẹn gặp lại nhau trong những kỳ trại giao lưu kế tiếp. Tiếc rằng cũng vì chiến tranh, sau những lần di tản, những cuốn lưu bút ghi lại biết bao dấu yêu ngày nào đã thất lạc đi theo năm tháng.

Những giai đoạn trước đây, hình ảnh – mầu áo Gia Đình Phật Tử tự do sinh hoạt bất cứ ở đâu – tất cả mọi nơi trên chính quê hương mình, từ mái chùa thanh tĩnh thân yêu, trường học văn hoa, công viên nên thơ, khu du lịch thơ mộng, khu dân cư nhộn nhịp nô nức hay núi – rừng yên ả u tịch.

Em đến với Gia Đình Phật Tử, được tu học – sinh hoạt 4 bộ môn:

– Phật Pháp:

Mục đích của Đức Phật vào đời:
“Khai thị chúng sinh – ngộ nhập Phật Tri Kiến”.

Phật Pháp là chân lý diệu hữu như thật, nhận chân thực thể “bản lai diện mục” hướng đến giác ngộ. Phật Pháp là một hệ thống triết lý sống phổ quát, trên nền tảng trí tuệ – từ bi, thực tập hướng đến đời sống đạo đức – chân hạnh phúc – thoát khổ.

“Phá vi trần xuất kinh quyển”-‘Kinh Hoa Nghiêm’

Thể tính của Kinh ‘Phật Pháp’ rộng lớn cả tam thiên đại thiên thế giới, vo tròn nhét trong hạt bụi nhỏ. Người có tuệ giác nhận chân thể tánh, đập vỡ hạt bụi ôm trọn quyển Kinh. Thế gian mãi mê thân phận lau sậy hèn mọn, hạt cát giữa sa mạc mênh mông, một giọt nước giữa trùng khơi dậy sóng, hời hợt hót suông – khởi niệm phiền não tam độc khổ đau – mãi miết trầm luân, chỉ là “Gã Cùng Tử hạt châu trong bâu áo” khó bao giờ mở mắt tỉnh thức, đập vỡ vô minh – ngộ nhập tri kiến Phật.

– Hoạt động thanh niên GĐPT, nhằm mục đích rèn luyện thân – tâm, giáo dục kiến thức. Ý thức điều chỉnh – hoàn chỉnh nhân cánh – phẩm hạnh. Xây dựng đức tính kiên nhẫn – tự chủ tự lập – không vị kỷ tiêu cực – giao tiếp cởi mở vị tha, cộng tác hòa hợp. Đầy đủ kỹ năng vào đời, thích ứng – an toàn – lành mạnh trong cuộc sống, xử lý tình huống thực tiễn, kiện định lập trường. Có khả năng làm chủ bản thân, biết kiểm soát – thay đổi hành vi, biết giải quyết những những cơn lốc bốc đồng – mâu thuẩn va chạm xung đột những khó khăn thách thức trong đời thường. Có sức khỏe – tháo vát – có bộ óc nhạy bén, phát huy hiệu năng sáng tạo, ứng xử năng động, sáng suốt – biết thiết lập đề án – vạch kế hoạch – đặt mục tiêu, biết tổ chức – điều hành – lãnh đạo.

Văn nghệ: Văn hóa – nghệ thuật là một mô thức sinh hoạt tinh thần – biểu hiện cảm xúc. Văn hóa – nghệ thuật qua lăng kính GĐPT phản ánh hiện thực Phật hóa – bắt nguồn từ tinh thần từ bi – giác ngộ – giải thoát, là phương tiện giáo dục truyền tải giáo lý tác động – chuyển hóa mạnh mẽ lên quan niệm – môi trường nhịp sống sống xã hội. Văn hóa – văn nghệ GĐPT xây dựng tôn vinh nhân bản, chọn con người làm đối trọng định hướng vươn tới giá trị đạo đức chuẩn mực – Phật hóa xã hội toàn diện.

Hoạt động xã hội: Mục đích GĐPT:
“Đào luyện thanh thiếu đồng niên thành Phật Tử chân chánh.
“Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo”.

Với tinh thần giáo dục khai phóng – huân tu thiện hạnh – nuôi dưỡng hạt giống từ bi, GĐPT hòa nhập cộng đồng, phục vụ tha nhân, phụng sự xã hội, làm nhiêu ích nhân loại, thiện hóa xã hội.

Bốn bộ môn sinh hoạt – tu học của GĐPT là những hóa thành diệu dụng, có Học – có Tu, hướng đến cứu cánh giác ngộ – giải thoát toàn diện.

Ôi thân yêu biết bao tình lam ! Cái tình cảm thiêng liêng – ruột rà chung cùng dòng máu lam hiền hòa, mãi mãi thắm thiết khắc ghi khó bao giờ phai nhạt. Trên thế giới, chưa có một tổ chức nào có tinh thần dân chủ – bình đẳng – hòa hợp như Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Ở GĐPT có mối quan hệ đồng hạng, tình cảm anh – chị – em thiêng liêng thắm thiết tình lam. Ở đây không có mối quan hệ thầy – trò, ông – bà, cô – dì, chú – bác, mà chỉ có anh – có chị – có em, ‘anh – chị là Huynh trưởng kiêm Gia trưởng cũng vậy, bởi vì nguyên bản anh – chị là Huynh trưởng’. Dù em là tuổi thơ, tuổi đời mới lên bảy – lên tám, dù anh – dù chị có mái tóc bạc phơ trên bảy – tám mươi tuổi… thì vẫn là anh – là chị – là em, tay trong tay:

“Nào về đây ta họp đoàn cùng nhau …
Anh với em ta về sống vui trọn ngày …”
“Cùng nhau múa chung quanh vòng,
Vui cùng vui múa vui …”.

Để rồi mỗi lần vào dịp Phật Đản – Vu Lan – Tết Nguyên Đán, chúng em tổ chức thành đoàn, đến mỗi tư gia thăm hỏi thân thiết chúc mừng quý Anh Chị trưởng bối cao niên – thân thiết chúc mừng Huynh trưởng Đoàn – bạn bè đồng sự, làm rộn rã cả góc phố. Có ai đó trong chúng em, mỗi gia đình riêng, có cuộc vui, hoặc gặp hoàn cảnh khốn khó – ốm đau bệnh tật, hoặc mãi mãi nằm xuống. Dù có bận bịu – tất bật lo toan vì cuộc mưu sinh, chúng em đều gát lại một bên, không ai bảo ai, nhận được tin hiệu là chúng em nôn nã – vội vã đến với nhau, chung lòng thương yêu – tận tụy lo toan cho nhau.

Dù anh – dù chị – dù em, vì cuộc mưu sinh – nhu cầu công tác hay du học phương xa. Dòng máu lam trong mỗi anh – chị – em vẫn mãi mãi hiền hòa tuông trào trong huyết quản, mãi mãi hoài niệm nhớ về ngôi chùa xưa, nơi có mái ấm Gia Dình Phật Tử, nơi đã trưởng dưỡng đạo tâm cho chúng mình mãi mãi lớn khôn. Rồi một ngày nào đó, rồi anh – rồi chị – rồi em bất chợt trở về, gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, vội vã ôm choàng lấy nhau, trút cho nhau bầu tâm sự qua bao tháng năm dài nhung nhớ. Dù cho có anh – có chị – có em đến với GĐPT sau này, vẫn không cảm thấy xa lạ, anh chị em tình lam thắm thiết trăm trứng nở hoa, cùng nhau nắm tay – cùng hát:

“Đây gia đình cùng nhau chung thân ái !…”

Tôn kính niệm ân công đức Gia đình Phật Tử Việt Nam, một tổ chức giáo dục đạo đức tâm linh hiện đại, đào tạo nên những con người tri thức – tuệ giác, có đời sống văn hóa tốt đẹp thiết thực, được cộng đồng – xã hội nhiệt liệt chấp nhận, dang rộng đôi tay hoan nghênh – tận tình chào đón: Khai phóng – nhân bản – vị tha – giác ngộ – giải thoát. Đã đào tạo cống hiến cho đạo pháp biết bao Phật tử thuần thành – chân chánh, trao lại cho xã hội biết bao công dân tốt – đạo đức – hiền hòa – vị tha – gương mẫu. Dâng hiến biết bao hiền tài ắp đầy nhiệt huyết cho dân tộc – đất nước – Đạo pháp. Tôn kính niệm ân công đức tiền nhân – Huynh trưởng đi trước, những anh – chị có đức hạnh viên dung – có trí tuệ tỏa sáng – nhận chân thực tại như thật – phá vỡ tà kiến – nhiếp phục hàng ma, lợi lạc tiên giác – hậu giác, là long tượng – thạch trụ, là nơi nương tựa – là niềm tin vững chãi cho hàng hậu học, là uống nước nhớ nguồn, là tri ân tôn kính Phật Pháp.

Cương vị Huynh trưởng cao quý:
– Là một nhà giáo mô phạm, có thân – khẩu – ý giáo gương mẫu.
– Là một kỹ sư – chuyên gia bác học nghiên cứu tâm lý – sản xuất ra sản phẩm tâm hồn.
– Là một chiến sĩ xung kích trên mặt trận tâm linh.
– Là một thiền sinh với một công án to lớn – đang đối mặt trước hai bờ sinh – diệt.

Huynh trưởng, đây là trách nhiệm thiêng liêng mà tổ chức tin tưởng trao phó nhiệm vụ giáo dục, vì đàn em thân yêu mà:

“kế vãng khai lai – truyền đăng tục diệm”.

Là chiếc cầu kết nối – trao đuốc – thêm lửa – mở đường – truyền trao tri thức cho đàn em – hàng hậu học nối bước đi sau.

Thế gian luôn luôn bệnh hoạn, Tham – Sân – Si, Tam Độc tìm ẩn thâm sâu trong mỗi con người trần tục, tạo nên biết bao sóng gió đau thương cho nhân loại:

Tham: Lòng tham bất tận kích thích tham muốn chiếm đoạt: Giàu sang như hạt sương đọng trên nhành hoa buổi ban mai. Tiền tài như phấn thổ – vật chất tồn tại khách quan, dễ dàng nhận chìm lương tri, dẫm đạp nhân nghĩa. Người mà nô lệ đồng tiền “Tài”, xem người khốn khó nô lệ hèn hạ.

Lịch sử đã cho thấy, “Sắc” đẹp đã nhận chìm biết bao anh hùng cái thế, làm sụp đổ cả một vương triều. Tình ái là sợi dây xích thằng ràng buộc, làm tái diễn luân hồi khổ đau mãi miết.

“Con là nợ – vợ ‘chồng’ là oan gia – cửa nhà là nghiệp báo”

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.”
‘Truyện Kiều’.

Công “Danh” vinh hiển như bọt nước đầu gành, danh lợi vinh hoa như chiếc hài xinh xắn nâng bước chân đi, một mai đường đời mòn gót, chỉ còn trơ lại chiếc hài rách tươm xơ xác, thế thái – nhân tình ngoảnh mặt làm ngơ, chỉ còn trơ trụi người lữ khách độc hành gỏ bước đường khuya hun hút.

Nhận thức đúng về công danh chân chính là biết sống có lý tưởng, có đam mê, biết giữ lòng tự trọng, luôn luôn gột rửa tâm hồn, nỗ lực phấn đấu, cống hiến tài năng, có đời sống đức độ, có thái độ cư xử hòa nhã, biết lắng nghe – cảm thông, sẻ chia với mọi người bằng tài đức của chính mình.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông”‘Nguyễn Công Trứ’.

Thế hệ Huynh trưởng trẻ hôm nay nhận thức bổn phận – trách nhiệm – có ý chí – nghị lực sẵn sàng đương đầu với khó khăn, vượt qua thử thách dòng đời, cố gắng theo đuổi ước mơ – hoài bão – lý tưởng đến cùng. Với tự tin – bản lĩnh – bầu nhiệt huyết sẵn có, chắc chắn tuổi trẻ làm nên kỳ tích – sang trang lịch sử – tạo nên bước ngoặc lớn – xây dựng thành công – hãnh tiến vinh quang.

Lương “Thực” là món thuốc để chữa cái bệnh nơi thân, không đành nô lệ miếng ăn mà phải ngửa tay xin xỏ, đánh mất nhân phẩm.

“Ăn coi nồi, ngồi coi hướng”
“Miếng ăn là miếng tồi tàn,
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”
‘ca dao – tục ngữ’.

Phần lớn người ta xem trọng những giá trị vật chất, những tác động nhất thời mà nó đem lại, quên đi tính chất thấp hèn, chỉ tạo thỏa mãn giai đoạn. Vật chất là đầu mối khơi lên biết bao tranh chấp, giành giật hơn thua trong xã hội, vì thế mà thế thái nhân tình “mất đi một miếng lộn gan lên đầu”.

Một giấc ngủ sinh học tự nhiên – đúng lúc, sẽ giúp đầu óc tỉnh táo – thân thể thư giản sảng khoái, tái tạo lại nguồn năng lượng đã bị hao hụt trong ngày – tái sinh tràn đầy sức sống . Nhưng dung dưỡng mê ngủ “Thùy”, dẫn đến mụ mẫm, uổng phí thời gian vàng ngọc.

Sân: Bản chất sân si – nóng nảy làm nảy sinh đố kỵ – thù ghét – căm hận – giận dữ, không tự chủ – không kềm chế được ngã ái bản thân, dễ dàng mắc phải sai lầm, đào thêm hố ngăn cách – nhận chìm tình cảm thiêng liêng, không còn tỉnh táo kiểm soát hành vi – nhận biết được đạo lý – sự việc. Sân hận tạo nên nhiều thiệt thòi, làm cho mọi người chê trách – khó gần – xa lánh, làm ảnh hưởng đến sức khỏe – đến hệ tim mạch, nguy hiểm hơn là dẫn đến tai biến mạch máu não.

Kinh Hoa Nghiêm có dạy:
“Một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng mở ra.” Và:
“Một đốm lửa sân, có thể đốt cháy muôn ngàn cánh rừng công đức.”

Đức Phật khuyến nhủ:
“Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não không đến”.

Si: Thiếu ý thức, để cho mù quáng – mê muội dẫn dắt sai lạc – làm lu mờ lý trí – tri kiến, không nhận thức đúng sai – ảo tưởng không thực tế.

Tôn giáo có còn đủ tư cách độc tôn để làm cái chức năng thiêng liêng của mình là lãnh đạo tinh thần – giáo dục đạo đức tâm linh cho nhân loại được nữa hay không ?

Hầu hết các Tôn giáo đang ráo riết tranh giành ảnh hưởng trên toàn thế giới, đang ra sức nhả ra biết bao độc tố mê hoặc, nhiều sắc màu quyến rũ, quy tụ tín hữu cho đông, mà không cần thiết phải giữ nguyên bản sắc ban đầu, không cần biết mục đích phải đi về đâu và nguyện vọng ý thức thâm sâu từ mỗi con người !

Sự cuồng tín của tôn giáo hữu thần, mang đến một cái nhìn thui chột – sai lầm – lệch lạc, đẫy con người què quặt – khập khiễng vào thời hoang sơ, đầy dẫy bóng tối dọa dẫm của thế giới Thần linh vô hình ảo tưởng, tách rời nhân bản, nhận chìm sinh linh vào chốn vô minh đen tối, chỉ còn biết có lễ bái – cầu đảo – cúng kính – van xin thần quyền, phó mặc đời mình cho năng lực vô hình – ngoại giới điều khiển.

“Người ta đến với Đạo Phật bằng sự tự nguyện – tự giác. Qua nghiên cứu và thực hành để hoàn chỉnh nhân cách chính mình, chứ không phải đến để hoàn thành nhân cách của một vị Giáo chủ như ở các Tôn giáo duy tâm Thần quyền khác, để rồi tự vong ngã – vong thân – cúi đầu nô lệ thần phục những kẻ nhân danh…”

Những kẻ lãnh đạo Tôn giáo quá khích – hiếu chiến, muốn bành trướng thế lực của đạo mình, mà đang tâm mở ra các cuộc bạo hành Thánh chiến – Thập tự chinh, khủng bố độc ác, lùa con người vào chỗ chết nếu không thần phục theo họ. Họ dùng sức mạnh của gươm đao – súng đạn quân sự, sức mạnh chính trị của kẻ thống trị và dùng cả sức mạnh kinh tế – tiền bạc (đã cướp giật được từ các cuộc xâm lăng) để dụ dỗ – mua chuộc – o ép – bắt buộc theo đạo của họ. Họ dùng cả hình thức đê tiện – hèn hạ như mua bán – gán ghép – gài thế – bắt bí cả vấn đề sinh lý. Lợi dụng sự ham muốn – đòi hỏi – khao khát tình dục của các cặp hôn nhân lấy vợ hoặc lấy chồng ngoại đạo. Họ thúc ép bắt buộc học giáo lý – rửa tội – cải đạo theo đạo của họ rồi mới cho kết hôn.

Có Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT có tu – có học – có chánh kiến – tỉnh thức. Tại sao không đủ tỉnh táo để thức tỉnh – giác ngộ người bạn đời. Mà ngược lại, dễ dàng vô minh – dễ dàng để bị liệt vị một cách thảm hại. Nhẹ dạ cả tin, dễ dàng bị lôi cuốn mê hoặc vào quái đồ ngoại đạo, đánh mất Tâm Bồ Đề đã được trưởng dưỡng kiên cố.

Hơn 25 thế kỷ trôi qua, lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao biến đổi bể dâu. Nhiều Tôn giáo xuất hiện – tăng trưởng – bành trướng – phân hóa rồi tự hủy diệt. Đạo Lão – Đạo Khổng đã trở thành lạc hậu. Các Thần linh đã bị lật đổ bởi Thượng Đế, rồi cũng chính Thượng Đế cũng bị tuyên bố là đã chết từ lâu rồi.

Tham – Sân – Si đốt cháy làm thiêu rụi tình người, làm cho vết thương đời rách tươm rỉ máu, làm cho lòng người hoang mang, niềm tin chợt mất. Tam độc, đây là những di căn trầm kha làm lây nhiễm suy yếu tạo nên sóng gió, nhận chìm sức sống nhân sinh.

Huynh trưởng có tu – có học – có hàm dưỡng, được trưởng thành bởi năng lượng từ bi đẹp đẽ. Luôn luôn tuệ giác – tỉnh táo, không hề khởi niệm vô minh, mê vọng ái nhiễm dẫn dắt làm cho sa chân lạc bước, làm mất khiểm soát trở thành nạn nhân để cho ngoại vật điều khiển – dẫn dắt chi phối. Với tấm lòng vị tha – nhân ái – cởi mở yêu thương bát ngát, không vì tuổi cao, sức khỏe yếu kém, sinh kế tục đế đời thường đa đoan làm khủng hoảng, đánh mất bình tĩnh, thể hiện quyền uy, lớn tiếng lấn lướt, làm mất lòng tin ảnh hưởng đến đạo đức – đến điều hành sinh hoạt.

Huynh trưởng là tấm gương sáng mà đàn em đang soi rọi vào, hình ảnh là thế giới ngữ, những hành động của quý anh – chị hôm nay là bài học không lời để cho các em nối bước, tái hiện lại trên mỗi bước đi sau này.

Nhờ gần gủi quý anh chị tri thức, được thương yêu dìu dắc sinh hoạt hướng đến đạo đức toàn thiện. chọn văn hóa Lục Hòa một hệ thống chủ nghĩa ý thức làm nền tảng sống – duy trì mạng mạch tổ chức GĐPTVN.

Người ta thường lầm nhận rằng “nhân sinh là không hư” không có giá trị đích thực. Ngoài thỏa mãn nhu cầu vật chất công danh – ăn uống – nhà ở – tiện nghi – trai gái… là đủ. Họ phó thác tinh thần vào tìm tòi hưởng thụ, do đó mâu thuẩn cạnh tranh sinh tồn, lấn lướt – dẫm đạp lên nhau, hơn thua tranh giành vì cuộc mưu sinh.

Con người được sinh ra đều trần trụi như nhau, đều bình đẳng trên mọi sự sống. Không ai giàu nghèo – quyền thế hơn ai. Không ai có quyền tự cho phép mình có cái quyền ngự trị lên sự sống kẻ khác, lầm nhận mình là trung tâm vũ trụ.

Con người mãi trôi lăn theo dòng định mệnh, mỗi sinh linh thọ nhận mỗi dòng sinh mệnh khác nhau, được thể hiện qua “Nghiệp”.

Nghiệp là hiện Quả của Nhân đã tạo nên từ trước đó. Nếu Nhân lành thì phúc khí được tốt hơn, nhưng nếu Nhân mà xấu ác, thì kết Quả phải là đắng cay khó tránh khỏi.

Mỗi người đều có sự sống tự do – bình đẳng, cùng nhau dừng chân đồng trú trên hành tinh này, do đó phải có đời sống đoàn kết – hòa hợp, biết chia sẻ cho nhau nơi chốn an trú yên bình, chung tay đối phó biết bao hiểm họa – chướng duyên – nghịch cảnh đời thường.

Huynh trưởng GĐPT những người tri thức, hầu như tinh hoa của trời đất đều quy tụ ở đây. Nhờ tu học tinh thần “Thân Hòa Cộng Trụ”. Các anh – các chị có phong cách sống hòa hợp – thân kính. Luôn luôn vì tình lam thân yêu – chung sống chan hòa tương trợ trong suốt thời gian tu học, giúp đỡ nhau trong những kỳ trại giao lưu. Tỉnh thức nhìn lại chính mình. tự vấn với lòng, nếu không có đàn em thân yêu thì TÔI có được vinh dự đứng trước Đàn – Đội – Chúng – Đoàn – Đơn vị ? nếu không có đàn em thì TÔI có còn là Huynh trưởng ? !

Ngôn ngữ là chìa khóa mở cửa tâm hồn – đi vào ngỏ lòng nhau. Nếu chìa khóa mà thô kệch gỉ sét chỉ làm thêm khúc mắc. Lời nói có tố chất êm ái truyền cảm hứng, dễ làm cho lòng người xua tan âu lo buồn nãn, làm cho người ta thêm phấn chấn – vươn lên – an lạc – hạnh phúc. Lời nói có chất liệu mềm dẻo, gắn kết tình người lại với nhau, cảm thông hòa nhịp trong cùng dòng sống.

Nếu không có tha nhân, khó hình thành nên bản ngã. Sự sống tồn tại hôm nay từ vật chất đến tinh thần, luôn luôn nương tựa – nhờ vã vào sự ban phát của đồng loại chung quanh.

Nhờ tu học tinh thần “Khẩu Hòa Vô Tránh”. lời nói lúc nào cũng hòa ái nhẹ nhàng dễ thương – dễ cảm mến. Luôn luôn tôn trọng – tương kính nhau, không tranh cãi, giữ gìn hòa khí – khuyến khích – khuyên bảo – sách tấn nhau, tế nhị – lịch sự – có văn hóa trong giao thiệp – sinh hoạt – hội họp.

Ý thức là một vấn đề khúc mắc – nan giải. Ý thức được xây dựng trên mỗi nhận thức cá biệt. Có những dòng ý thức hệ áp đặt, tạo nên sóng gió – gieo rắc nỗi kinh hoàng – bất an, tạo nên thống khổ cho nhân loại.

Cùng trên một dòng sống, nhưng qua mỗi khúc quành mang mỗi địa hình khác nhau. Dù dòng nước có đi qua nhiều ngỏ ngách, mang nhiều dáng hình ngoằn ngoèo hay thẳng tắp – yên ả hay cuồn cuộn, nhưng bản chất của nước vẫn là hiền hòa – mát dịu. Hãy để cho mỗi dòng ý thức được hòa nhập vào biển cả mênh mông, dù cho có cố tình tạo nên nhiều mùi vị khác biệt, nhưng cuối cùng muối vẫn là một vị mặn bất biến.

Nhờ tu học tinh thần: “Ý Hòa Đồng Duyệt” lúc nào cũng biết lắng nghe – ái kính, tôn trọng tư tưởng – ý kiến, cùng nhau bàn bạc tìm ra chân lý chung nhất, hoan hỷ chan hòa chấp nhận.

Tất cả mọi người đều bình đẳng trong cuộc sống, cùng có dòng máu đỏ, giọt nước mắt cùng mặn. Không một ai có quyền lạm dụng quyền hạn – sức mạnh… xâm phạm lên tự do cá nhân hay tập thể. Không tự áp đặt tạo nên những luật lệ hà khắc để trồng lên đầu dân đen, nhằm mục đích phục vụ cho giai cấp thống trị, xem giai cấp khác là thấp hèn – nô lệ – bị trị. Hoặc cho rằng mình có đủ quyền lực trong tay, lúc nào cũng đeo nhiều loại mặt nạ khác nhau, để khỏi phải xuất hiện dưới bộ mặt hèn hạ – gian trá, để có thể dễ dàng chụp mũ, hống hách chèn ép – trù dập – phá rối…

Có những giáo điều được đặt ra để ràng buộc con người chỉ biết cúi đầu vâng phục một cách mù quáng, đánh mất tự chủ – nhân bản, phó thác đời mình cho thần quyền ngoại giới – hư vô không tưởng.

Phải nhanh chóng xóa bỏ những luật lệ vô hồn – khe khắt đánh mất tự do dân chủ, tao nên mâu thuẩn bất công, ngăn cách tình người – chia rẻ trình tự dân tộc.

Nhờ tu học tinh thần “Giới Hòa Đồng Tu” mà tinh thần tự giác nâng cao, tuân thủ – nghiêm túc thọ trì – chấp hành giới luật – nội lệ, chung sống hòa hợp, luôn luôn đoàn kết – không bao giờ bất hòa – tư ý chia rẽ. Tuân thủ – chấp hành – nghiêm trì giới luật – nội quy – quy chế – nội lệ để ngăn ngừa xấu ác, thì hạnh phúc phát sinh – tự do tự tại.

Bởi do kiến chấp mà tự ngã nâng lên, dẫn đến cái thấy bất nhất. Có người “Thân kiến”, nhìn thấy vật chất là không hư hoặc tồn tại vĩnh viễn. Cùng có cái thấy mà người ta hời hợt chỉ nhìn phớt qua bên ngoài hoặc chỉ nhìn phiến diện “Biên Kiến” một bên. Hoặc mụ mẫm – vô minh nhìn thấy khác đi, mang màu sắc “Tà Kiến” – thần quyền dẫn hướng sai lạc. Có người cho rằng chỉ có cái thấy “Kiến Thủ” của riêng mình là đúng, còn cái thấy của người khác là sai “Người mù rờ voi…”.

“Chánh Kiến” là cái thấy chân chánh – rõ ràng, thấy biết đúng đắn nhân bản toàn triệt. Phải giúp cho mọi người hạn chế bất đồng – dị biệt, làm khủng hoảng tâm thức, cùng hướng về cái thấy chung nhất.

Nhờ tu học tinh thần “Kiến Hòa Đồng Giải”, trao đổi kiến thức, cảm hóa – hòa giải những ý kiến bất đồng, cùng nhau an nhẫn tìm ra kiến giải, hoan hỷ thống nhất, cùng nhau đồng bộ phát triển.

Nhân sinh trên hành trình tìm đến giác ngộ để giải thoát, chúng ta đang tạm dừng chân trên trạm viễn hành, để rồi còn phải tiếp tục khởi hành đi tới. “Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy” chỉ làm vướng bận thêm bước chân người lữ khách, đến lúc cần thiết là giũ áo ra đi. Những phước phận có được chia sẻ đồng đều cho bạn đồng hành có đủ tư lương để cùng dấn thân trên hành trình sống.

Nhờ tu học tinh thần “Lợi Hòa Đồng Quân”, có đời sống chan hòa – đồng sự bình đẳng, chia sẻ quyền hạn – phận sự – phạm hạnh đồng đều, sẵn sàng nhận lãnh phật sự – tinh cần hoàn thành nhiệm vụ giao phó tốt nhất. Không hề thể hiện hành vi thế gian gia trưởng – tự tôn, luôn luôn tự trọng – tôn trọng nhân chủ – tôn trọng đàn em, người nào việc nấy – không dẫm chân – lấn lướt hơn thua.

Có câu hỏi: “Nhân tài, người là ai, đang ở đâu ?”

Nhân tài là người có thành tích để đời, hiễn hách thực tiễn – đã thành danh. Nhưng cũng có những nhân tài chán muồi thế sự – xem thường công danh – rũ áo nhàn cư. Ngọa Long – Phượng Sồ đã một thời ẩn cư nơi hốc núi…

Nhân tài không phải bỗng nhiên mà có, hô lên là hiện diện. Muốn có tài danh, mỗi nhân giả phải được rèn luyện kinh qua thử thách gian nan, nỗ lực tu học, miệt mài hàm dưỡng mới đủ năng lượng hoàn thiện. Không chỉ với cái học nửa vời, bỏ trại – bỏ bậc – bỏ tu – bỏ học mà hoàn chỉnh được nhân cách Huynh trưởng. Với cái kiến thức nửa vời, cái tu hờ hững – lệch lạc, thì kết quả hành hoạt chỉ có là bản năng – cảm tính. Nếu làm việc chỉ với cảm tính – bất nhất – không có chương trình – kế hoạch thì hiệu năng chẳng đạt – mà góp phần làm suy yếu – phá rối mà thôi.

Thế gian có câu:
“Nhiệt tình + ngu dốt = phá hoại”.

Thành công phật sự – lịch sử được làm nên, là kết quả đóng góp của cả tập thể – tổ chức to lớn. Dù TÔI có tài ba, cá nhân khó làm nên được, bởi vì chưa phải là hiện thân của Bồ tát diệu thủ nghìn mắt nghìn tay. Sự thị hiện nghìn mắt nghìn tay, là người Huynh trưởng tri thức quán chúng, là người dám hy sinh – làm việc miệt mài tinh cần – có kế hoạch – hiểu biết thấu đáo – tận tường sự việc – tiên liệu thành bại, thiết tha vì đàn em – vì tổ chức mà phụng sự. Người biết tự gát mình qua một bên – biết lắng nghe – biết vận dụng tài năng thu hút – tập hợp quần chúng – hợp lực – chung sức – lục hòa cọng trụ thành toàn phật sự.

Triết gia Hy Lạp Diogène, ban đêm ông ngủ trong một cái thùng, ban ngày ông thắp đuốc lang thang đi khắp ngả phố. Có người hỏi, ông trả lời:

– “Ta đốt đuốc đi tìm người hiền !”
Với ngã ái tham vọng với cao:
“Đời đục cả một mình ta trong
Người đời say cả một minh ta tỉnh”.

Với tâm lý ký gửi – sống nhờ tạm bợ – được chăng hay chớ, hụt hẫng – thở dài thổn thức, phó mặc bỏ đời mà đi – lang thang buông trôi dòng chảy vào ngỏ cụt – không lối thoát, thì đời sống vô vị – lãng phí biết bao!

Chả lẽ như gả lái đò:
“Đời say cả! Sao không ăn cả bã, uống cả hèm, cho say luôn một thể?
“Đời đục cả! Sao không quậy thêm bùn, vỗ thêm sóng, cho đục luôn một thể? Tội chi mà phải bỏ đời mà đi ?”

Thì diễn biến bi hài cuộc đời trôi nổi về đâu ?!

Người hiền là người biết sống, sống xứng đáng – sống có ý nghĩa giữa lòng đời, phải như đóa sen thơm được vươn lên từ bùn – ngát hương dấn thân – lan tỏa thể nhập vào đời. Với tinh thần xả kỷ – từ bi, đem vui – giải khổ. Từ thâm sâu ký ức một thời vàng son ùa về – một thời mà tuổi trẻ lên ngôi – là trụ cột vững vàng xây dựng – nắm vững – duy trì – mở rộng – phát triển tổ chức. Người Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử tâm huyết trải lòng vị tha, dù cuộc đời còn lắm phong ba – giông tố nghìn trùng – sóng dựng mù khơi, với hạnh nguyện bi hùng, nguyện làm chiếc thuyền giữa dòng đời gian nan để mà thế độ.

Văn hóa – đạo đức xã hội bệnh tật khập khiểng – thoái hóa dần đến tụt hậu rụi tàn, Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín bị coi là lỗi thời, nhường chỗ cho những mưu mô toan tính – tranh giành quyền lực – địa vị – lợi dưỡng. Năm hạnh: Tinh tấn – Hỷ xã – Thanh tịnh – Trí tuệ – Từ bi đang bị xem nhẹ, thiếu năng dưỡng – chuyên tu – hành hoạt.

Định mệnh nào đã đẩy đưa – con thuyền GĐPT sao cứ mãi chong chênh nghiệt ngã – chưa được yên ả – thong dong hãnh tiến ra khơi. Huynh trưởng thì thiếu nhiệt tình cống hiến – Đoàn sinh thì còn yếu kém thiếu niềm tin – sinh hoạt chưa đều. Đơn vị GĐPT còn có cái gì đó còn lỏng lẻo – chưa được vững vàng – phát triển !

Người Huynh trưởng GĐPT có nhiệt huyết – tĩnh tại – sáng suốt, biết ngồi lại với nhau – biết phân tích sự việc cụ thể – biết xây dựng kế hoạch chiến lược bền bỉ lâu dài – biết xác định hướng đi, mà phải đi thật vững vàng trên chính đội chân của mình từng bước đi thật hùng tráng – vững chãi, đem lại đỉnh cao giá trị văn hóa GĐPT tĩnh tại thời đại thiết thực.

Lý tưởng Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử:
● Phụng sự Đạo pháp.
● Phụng sự Dân tộc.
● Phụng sự con người.

Với cái nhìn áp đặt thiển cận phong kiến – phi nhân bản của người xưa:
“Quân xử thần tử – thần bất tử bất trung, Phụ xử tử vong – tử bất vong bất hiếu”
“Chồng chúa – vợ tôi” – “Phu xướng – phụ tùy”
“Cha mẹ đặt đâu – con ngồi đó”
Nó đã lạc hậu – không còn thực tế nữa.

Phật giáo có một nền giáo dục Nhân Bản giá trị thiết thực:

Nhân: người – Bản: gốc.

Nhân bản là đức tính tự chủ. Con người có thể làm chủ chính mình và tự quyết định vận mệnh của mình, không bị chi phối bởi một khuynh hướng – năng lực phi nhân ngoại giới.

Thẩm thấu tinh thần Nhân bản, tiếp cận khoa học hiện đại, tầm mắt của Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT hiện nay đã được sáng suốt – mở rộng kiến thức, hiểu biết thế nào là tự do – nhân chủ – tự tại, không còn bị kiềm tỏa, mà có cái nhìn tự chủ – bao quát phóng thoáng hơn, có đời sống chánh hạnh “Bát chánh đạo”, không chấp nhận nô lệ – áp bức – bất công. Vô úy đập vỡ vô minh, đoạn tận ngã ái – phiền não, khát vọng vươn cao, mạnh dạn khai thị – nhìn thẳng vào như thật duyên sinh để chuyển hóa. Đỉnh điểm của Phật giáo là chân hạnh phúc, chọn con người làm đối trọng để giáo dục, là hải đăng tự thân, giác ngộ – nhận chân thực tại như thật, hướng đến giá trị toàn thiện – an lạc hạnh phúc đích thực cho bản thân và tha nhân.

Người Huynh Trưởng GĐPT có trách nhiệm thiêng liêng – cao quý, sẵn sàng hy hiến phụng sự – bảo vệ đạo pháp – dân tộc – con người, để thành toàn đạo nghiệp, bởi vì.

Đạo Phật có một hệ thống giáo lý tỉnh thức – giác ngộ, nhận chân cuộc đời như thật, mang tính nhân bản – chọn con người làm cứu cánh, không tin vào viễn kiến mơ hồ xa vời. Tuệ giác kiến giải vô minh – vươn đến giác ngộ để giải thoát toàn diện. Phật pháp là một phương cách sống tỉnh thức – tích cực – toàn thiện. Ứng dụng giáo lý Phật Dà để giác ngộ nhân loại, giải trừ phiền não đem lại thanh tịnh an lạc cho con người – cộng đồng – xã hội. Ứng dụng tinh thần nhân bản, vô úy giải phóng áp bức – bất công, hủ hóa – lạc hậu, xây dựng công bằng – bình đẳng, hoàn chỉnh nền văn hóa – đạo đức Phật giáo – GĐPT toàn diện.

Trãi qua biết bao dặm dài đoạn trường, một thực tại mà cái giá phải trả lại cho công cuộc an nhẫn duy trì mạng mạch “Duy tuệ thị nghiệp”, miệt mài tìm kiếm công lý rồi phải vượt qua. Ở cuối con đường, ngưỡng cửa của chân lý phải được mở ra tỏa sáng hiện thực.

Tìm lực của GĐPTVN trong lúc này không suy yếu. Cứ mỗi lần có cuộc phong ba, đứng trước nghịch cảnh thử thách, đối đầu với nghiệt ngã trái ngang, thì GĐPTVN lại càng đoàn kết chặc chẽ, vững vàng thêm hơn. Như đứa con ngoan hiền, GĐPTVN vẫn luôn luôn trung kiên, và sẵn sàng hy sinh vì đạo pháp, vì dân tộc vinh quang

Đứng trước tình hình nghiệt ngã, diễn biến phức tạp dẫy đầy thử thách cam go. Nhưng con đường chính nghĩa của chúng ta đang đi – của GĐPTVN truyền thống. Trong giai đoạn thử thách đầy cam go nghiệt ngã cao độ này, không biết sẽ diễn biến đến đâu, hay chuyển bước qua khúc quanh lịch sử như thế nào. Mỗi người Huynh trưởng – Đoàn viên GĐPTVN cần phải cẩn trọng – tỉnh táo – tuệ giác, sẵn sàng gánh vát gian nan đi lên bằng nguyện lực vô úy kiên cố – ngũ trược ác thế thệ tiên nhập – Phát đại nguyện – tu hạnh Duy Ma Cật để chờ đợi và sẵn sàng cho một bước tiến mới …

Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có … , có cuộ̣c sống tục đế – đi lên bằng con đường đạo hạnh đại bi Bồ tát, thể nḥập trí tuệ siêu việt – tính không – bất nhị ̣̣- ly ngôn thuyết, không giải bày bằng ngôn ngữ phiền não – kiến chấp đạ̣o đoạn, mà bằng tri kiến im lặng – một lập trường phương tiệ̣n thiện xảo. Im lặng ở đây không phải là không hiểu, không diễn đạt được, mà là diễn bày một ngôn ngữ tuyệt đỉnh – một sự im lặng sấm sét bất khả tư nghị – mặc như tôi.

Qua kinh Duy Ma Cật, cho chúng ta thấy cư sĩ và tăng sĩ đều có chung một mục đích đại nguyện như nhau, cùng đi lên trên con đường trọng yếu là tiến đến giác ngộ – giải thoát hoàn toàn.

“Thoát khỏi thế gian không phải là xuống tóc, là dồn hết sức lực để phá tan sự đam mê của mọi chúng sinh. Không phải một mình tuân theo giới luật, nhưng chối bỏ sự đức độ trong thanh tịnh an lành. Không phải là thiền định trong sự yên lặng của rừng thẳm, nhưng ở lại trong cơn xoáy lốc của luân hổi, và dùng trí tuệ cùng những phương tiện thiện xảo để độ chúng sinh tràn đầy phật pháp” Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – Vimalakirtinirdesa .

Tiếng gõ đồng hồ Tích – Tắc, Tích – Tắc mãi miết vang lên, cứ ngỡ rằng bất tận đến vô cùng. Nhưng thực tế, tính vô thường hiển hiện, sinh – diệt đang diễn ra từng sát na, có – không, còn – mất, được – thua, cụ thể – rõ ràng – như thật. Đó là quy luật, không tránh cải hay thay đổi được.

Đời sống con người mãi miết bập bềnh tuông theo dòng chảy. Trên mỗi dòng chảy cuộc đời không yên ắng tĩnh lặng như mặt hồ thu êm ả, mà cuồn cuộn – dậy sóng – chảy xiết, có quá nhiều khúc quành điên đảo và cũng còn có quá nhiều vũng xoáy não loạn làm cho đời sống bất an.

Cuộc đời không phải là nhung lụa ấm êm – bằng phẳng, trãi thảm – tung hô mời gọi nhân giả vào đời, mà ở cuối mỗi con đường, dẫy đầy nghiệt ngã, đang chờ đón thách thức từng bước chân khach lữ hành. Trên hành trình đi tìm lẽ sống, tha nhân cảm thấy lẻ loi – lạc loài – bất lực, mệt nhoài trước những trò chơi phóng tưởng của tạo hóa.

Con người được thăng hoa – hạnh phúc, hay khổ đau do hưởng nhờ vào NGHIỆP.
Nghiệp là kết quả tạo tác, là tài sản tích cóp – tạo nên trong hiện kiếp.

Nghiệp có: Nghiệp tốt – nghiệp xấu.

Nghiệp có tốt thì đời sống đẹp đẽ dễ chịu hơn. Nghiệp mà xấu thì đời sống dẫy đầy đau khổ nghìn trùng bủa quanh.

Nghiệp ! đeo đuổi đến suốt cả luân hồi.
Luân hồi là tái hiện lại sự sống của kiếp trước.

Muốn dứt nghiệp, giải thoát luân hồi, vượt ra vòng não loạn điên đảo, là mỗi tự thân chấm dứt tam nghiệp: Thân – Khẩu – Ý

– Thân, không hành động xấu – ác.
– Khấu, không nói những lời xấu – ác.
– Ý, không có những suy tưởng, mưu kế xấu – ác.

Có – không – còn – mất chỉ là một sự thay đổi hành dạng – trạng thái, từ cái này hình thành một cái khác, thực chất nó không biến mất đi đâu cả.

Đạo Phật là đạo nhân bản, con người có đủ năng lực để tự giải quyết lấy thân phận – đời sống của chính mình. Một việc xấu xảy ra, hay một việc tốt đưa đến, là do tự thân tạo nên từ trước đó. Đạo Phật không thừa nhận thuyết định mệnh, bởi vì không có bàn tay của Thượng đế vô tưởng nào áp đặt lên đời sống nhân sinh.

Con người luôn luôn cúi đầu trước áp lực nặng nề được gọi là “Nghiệp”. Nghiệp có ra do khởi niệm vô minh. Cái hạt giống đầu tiên đã nông nỗi vội vàng gieo vào lòng đời, gặp phải gió duyên tác động tạo nên dòng sống khổ.

Nhân – Duyên – Quả đây là quy luật biện chứng tất thảy, một quy trình khép kín hình thành muôn sự muôn vật. Và cũng từ Nhân – Duyên – Quả tác động lên nhau dẫn đến vong ngã, làm biến dạng – mất đi một vật thể. Sự mất đi của một sự vật, không phải là mất hẳn, hoặc vắng bặt bóng dáng của nó trong không – thời gian, mà nó được thay đổi – biến dạng từ một trạng thái này sang một dạng trạng thái khác.

Sinh – Trụ – Di – Diệt” hay “Thành – Trụ – Hoại – Không” là một trình tự được gắn liền song song với hoạt động nhân quả biện chứng.

“Cái này có thì cái kia có – cái này sinh thì cái kia sinh – cái này diệt thì cái kia diệt – sinh diệt tương tục không gián đoạn.”

Người xưa nói: Cái chớp cánh của một con bướm tại cửa ngọ môn Tử Cấm Thành – Bắc Kinh, có khả năng làm xao động cả Kim Tự Tháp – Ai Cập. Một cái vẫy đuôi bé nhỏ của một con cá cũng làm xung động cả một đại dương mênh mông. Một phúc khí dù nhỏ bé của một cá nhân cũng làm ảnh hưởng cả một tập thể to lớn – một vũ trụ bao la và ngược lại. Vũ trụ cũng dư thừa khả năng tác động lên đời sống sinh thể. Cũng như thế, một cá nhân xấu cũng làm ảnh hưởng đến đời sống dân sinh cộng đồng – xã hội. Mỗi gia đình – thôn xóm đều có đời sống thiện lành, thì quốc gia thanh bình. Từ giới lãnh đạo cho đến nhân dân đều có cuộc sống Chân – Thiện – Mỹ, thì đất nước thịnh trị – mưa hòa gió thuận, thiên tai – dịch bệnh không còn, biến cố không hề xảy ra.

“Nhất nhơn tác phước – thiên nhơn hưởng.
“Độc thọ hoa khai vạn thọ hương”
‘Một người làm phước – ngàn người được hưởng.
‘Một cây trổ hoa, ngàn người được thơm lây’.

“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
“Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”.
‘Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi.’

“Chư ác mạc tác,
“Chúng thiện phụng hành,
“Tự tịnh kỳ ý,
“Thị chư Phật giáo.”
‘Đừng làm các điều ác,
‘Các điều thiện nguyện làm,
‘Tự thanh tịnh ý mình,
‘Ấy lời chư Phật dạy.’

“Đã mang tiếng ở trong trời đất
“Phải có danh gì với núi sông”
– Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ –

Sĩ phu với tâm thế – cốt cách trượng phu, trải qua dòng đời nghiệt ngã vì cuộc mưu sinh, gầy dựng gia nghiệp – đạo nghiệp, có chí nguyện vị tha, vì tha nhân mà hi hiến phụng sự. Dẫu biết rằng, với thân thể còm cõi còn lại – một ít hơi tàn ngắn ngủi, vẫn miệt mài vun xới mảnh đất vườn tâm, làm kiếp con tằm cần mẫn thắt ruột nhả tơ, trao lại cho đời gia bảo quý giá trác tuyệt, lưu lại cùng trời đất sử xanh muôn thuở.

Mạnh dạn nhìn thẳng vào như thật duyên sinh: Sinh – Lão – Bệnh – Tử, đây là dòng chảy tư tưởng đại thứ – là quy luật các pháp vô thường bất biến, ai ai rồi cũng nếm trải qua giấc mộng:

“Nhất thiết hữu vi pháp,
“Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
“Như lộ diệc như điện,
“Ưng tác như thị quán.”
‘Tất cả pháp hữu vi,
‘Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
‘Như sương, như chớp loé,
‘Hãy quán chiếu như thế.’
– Kinh Kim Cang –

Khi còn hơi thở là đời sống kéo dài. Những giây phút ít ỏi còn lại, phải sống sao cho xứng đáng – có ý nghĩa. Đến lúc tử thần gõ cửa, với dấu chấm hết tròn trịa, thì không hổ thẹn với lương tâm, thảnh thơi – nhẹ nhàng – an lạc – như “cánh nhạn quá từng không” – tự tại cất cánh ra đi như trút bỏ chiếc áo rách. Bởi vì từ khi vào đời, với hai bàn tay trắng, thì đâu có gì để mà vướng bận – nuối tiếc !

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
“Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”
– Thiền sư Vạn Hạnh –

‘Thân như bóng chớp chiều tà
‘Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
‘Sá chi suy thịnh việc đời
‘Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.’
– HT.Mật Thể dịch –

Viêt xong:
Lam Nhã Thảo Am
PL: 2566 – cuối Đông – Nhâm Dần – 2022.




PHÁT NGUYỆN TU HỌC

PHÁT NGUYỆN TU HỌC

Tri thức vốn có hôm nay, cứ ngỡ rằng giỏi giắn – tài ba hơn người. Đâu có ngờ rằng, ngoài công đức sinh thành như trời biển bao la, sự nuôi dưỡng gian lao – tận tình dạy bảo của Mẹ – Cha. Ngoài những nỗ lực vật vã dùi mài kinh sử – thu nhặt được từ sách vỡ – Thầy Cô – bạn bè theo năm tháng mài đũng quần trên ghế trường đời – cộng đồng xã hội, chúng em đã tinh tấn – tích cực tu học. Nhờ công đức giáo dưỡng của Chư tôn đức Tăng – Ni, của quý Anh – Chị đi trước hướng dẫn, nâng niu dìu dắt từng bước chân đi, chăm chút tài bồi – truyền tải tri thức – vun xới – gọt tỉa – uốn nắn thân cành – làm mới, để cho chúng em mỗi ngày thêm được lớn khôn.

Biết bao năm tháng thanh tĩnh dưới mái chùa thân yêu chở che hồn dân tộc, trãi qua biết bao bậc học. Tính từ thuở ngành Đồng Oanh vũ: Mở mắt – Cánh mềm – Chân cứng – Tung bay. Rời tuổi thơ ngây, chúng em lên Đoàn – ngành Thiếu, được tiếp cận các bậc tu học: Hướng thiện – Sơ thiện – Trung thiện – Chánh thiện.

Đến tuổi trưởng thành, bước lên ngành Thanh ‘Nam – Nữ Phật tử’: 4 năm bậc Hòa – bậc Trực.

Rồi dần bước lên cao hơn nữa, ngành Huynh trưởng:

• Bậc Kiên – BHD GĐPT Lâm Đồng, năm 1995.

• Bậc Trì – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 1996.

• Bậc Định – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2004

• Bậc Lực – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2015 và bậc Lực BHD.GĐPTVN tại Hải Ngoại, năm 2016.

Trải qua các trại huấn luyện:


• Sơ cấp Lộc Uyển – BHD GĐPT Lâm Đồng, năm 1995.

• Cấp một A Dục – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 1996.

• Cấp hai Huyền Trang – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2004.

• Cấp ba Vạn Hạnh – BHD.GĐPTVN tại Hải Ngoại, năm 2016.

• Huấn luyện viên Phú Lâu Na – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2005.

Cấp đã thọ:


• Cấp Tập – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2002.

• Cấp Tín – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2008.

• Cấp Tấn – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2020

Giới đã thọ:
• Quy y Tam bảo, năm 1970, pháp danh: Nguyên Hoàng.
• Thọ Thập thiện giới, năm 2005, pháp tự: Viên Đăng.


• Thọ Bồ tát giới tại gia, năm 2011, pháp hiệu: Minh Kiên.

Nhiệm vụ đảm nhận:
• Liên đoàn trưởng GĐPT Đại Giác – Bảo Lộc – Lâm Đồng, năm 1989 – 1995.
• Liên đoàn trưởng GĐPT Đạt Ma – Phan Thiết – Bình Thuận, năm 1996 – 2003.
• Liên đoàn trưởng GĐPT GĐPT Khánh Long – Lagi – Bình Thuận, năm 2004 – 2007.
• Phụ tá Gia trưởng GĐPT Bồ Đề – Philadelphia – Hoa Kỳ, năm 2007 – 2009.
• Liên đoàn trưởng GĐPT Khánh Hiệp – Lagi – Bình Thuận, năm 2010 – 2016.
• Thư ký Ban Đại Diện GĐPT Bắc Bình Thuận, năm 1996 – 2003.
• Thư ký Ban Đại Diện GĐPT Lagi – Bình Thuận, năm 2010 – 2021.
• Phụ tá Ủy viên Oanh vũ nam BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2002 – 2007.
• Phụ tá Ủy viên Nghiên huấn – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2010 – 2022.
• Phụ tá Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2010 – 2011.
• Phó Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2012 – 2022.
• Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2022 – 2023.
• Phụ tá ngành Thiếu nam BHDTƯ GĐPTVN, năm 2012 – 2016.
• Cộng tác viên tập san Sen Trăng GĐPTVN, năm 2002 – 2020.
• Công tác viên truyền thông trang nhà GĐPTVN trên Thế giới, năm 2011 – 2020.

– Tham dự Đại hội GĐPTVN trên thế giới 2 lần: Năm 2022 và năm 2016.
– Biên tập Sáng tác hàng trăm tác phẩm thơ – văn về Đạo pháp – GĐPT và văn chương:
• Bộ Gia Đình Phật Tử Những Đoạn Trường Trải Quan, 3 tập – dày 1.826 trang (mang tính lịch sử Đạo pháp – GĐPT – và dân tộc).
• Tuyển tập văn Nguyên Hoàng-Phan Văn Huy Tâm
• Hồi ký cuốn theo chiều gió
• Thi Tập Nguyên Hoàng-Phan Văn Huy Tâm

Qua các trại huấn luyện, em được phát nguyện làm Huynh trưởng. Buổi lễ truyền đăng thiêng liêng, làm cho chúng em ai nấy nao nao dâng trào bồi hồi cảm xúc. Chúng em mỗi người trên đôi tay một cây nến, ánh nến lung linh theo tiếng vọng từ bóng đêm truyền về – đánh thức mê vọng từ lâu mãi mê ngã ái, lương tri bừng sáng, chối từ vị kỷ hèn mọn, phát nguyện dấn thân: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”. Mỗi cây nến truyền đăng còn lại qua các kỳ trại huấn luyên – tôi vẫn còn lưu giữ mãi đến hôm nay, để mãi mãi khắc ghí nhớ hoài một thời – nhớ hoài những giây phút thiêng được trưởng thành – được lớn khôn thêm.

Đến hẹn lại lên, hằng năm tích cực tham gia các cuộc: Hội thảo – hội ngộ quanh đèn – các kỳ trại lễ – trại truyền thống – bồi dưỡng – chuyên năng – dã ngoại – giao lưu… từ địa phương đến toàn quốc, và cứ mãi miết như thế cuốn hút tuổi hoa niên. Bên ánh lửa trại lưu luyến còn sót lại – hay dưới lều trăng lộng gió, chúng tôi trao cho nhau từng cuốn lưu bút tình lam – ghị lại cho nhau biết bao cảm xúc thân thương, để rồi sau mỗi kỳ trại:

“Tay cách xa nhưng tim không xa
“Gan thép ta chia tay đừng buồn !…”

Để rồi mỗi lần giở lại từng trang lưu bút “Vui tươi ta biết trong lòng nhớ lòng!…”

Dưới mái lều chan hòa ánh trăng, chúng tôi lại gối tay nhau “thức trọn đêm nay…” để mà tâm sự – trao đổi kiến thức Phật pháp, khuyến khích nhau tinh tấn sinh hoạt – tâm huyết hy hiến phụng sự tổ chức, sách tấn nhau Tâm Bồ Đề kiên cố – dũng tiến trên đường đạo. Hứa hẹn với nhau cố gắng gìn lòng son sắc, gắn bó – giữ vững niềm tin tổ chức GĐPTVN, hẹn gặp lại nhau trong những kỳ trại giao lưu kế tiếp. Tiếc rằng cũng vì chiến tranh, sau những lần di tản, những cuốn lưu bút ghi lại biết bao dấu yêu ngày nào đã thất lạc đi theo năm tháng.

GĐPT là một tổ chức giáo dục, một trường học duy tuệ giữa đời thường. Muốn thành toàn sứ mệnh cao cả, là chuyển hóa để hoàn thiện nhân cách, thì phật sự quan trọng – tối cần thiết là mối quan hệ – gắn kết keo hồ giữa GĐPT với gia đình riêng – học đường và xã hội không phải là một sinh hoạt mới mẻ. Là một H.Tr có tay nghề tinh chuyên, biết ứng dụng sinh hoạt này trong hành hoạt trưởng dưỡng – trồng người, tiếp cận – gần gũi, mở rộng vòng tay nhân ái, hiểu biết từ sâu thẳm tâm tư, thẩm thấu tình người, thì sứ mệnh truyền đăng thành toàn thù thắng.

Trong quá trình tu học qua các bậc học và chịu huấn luyện qua các kỳ trại, tổ chức đã tài bồi – truyền trao cho mỗi nhân thân Huynh trưởng, để trở thành một tay nghề tinh chuyên – thù thắng, một đạo đức xả kỷ – vị tha, biết gát mình qua một bên, mà vì đàn em thân yêu – vì tha nhân mà phụng sự.

Sau thời gian rời đất trại, Huynh trưởng tự biết miệt mài cầu học thêm hơn, không nề hà nản mỏi, để được nâng cao tay nghề, làm giàu thêm vốn sống. Không dậm chân dừng lại buông rơi, biết nhìn lại thân phận lau sậy hèn mọn, không mãi mê mơ ngủ. Với cái vốn liếng kiến thức hạt cát bé mọn, giữa sa mạc mênh mông, một nấm lá vàng khô, ít ỏi trong lòng bàn tay nhỏ bé, giữa rừng Ta la bạt ngàn xanh mướt.

Người Huynh trưởng hướng đến toàn thiện, luôn cảm thấy chưa đủ, không tự mãn, không đánh mất tự chủ, hụt hẩng – co quắp, phó mặc buông xuôi thoái hóa giữa dòng hiện đại từng giờ từng phút! Luôn luôn hâm hấp hướng về phía trước, cập nhật kiến thức phong phú – đáp ứng thỏa đáng các nhu cầu cấp thiết mà đàn em thao thức mong chờ.

Từ khi cất tiếng khóc tu oa vào đời, phản ứng tự nhiên của các hiện tượng sinh vật lý: Đói khát, đau nhức, nóng lạnh, đã làm cho bé bật khóc. Nhờ vào giác quan, cảm nhận được: Hình ảnh – âm thanh – mùi vị – xúc giác – dễ chịu – sướng khổ – sợ hãi – buồn vui. Trí nhớ nhỏ bé phát triển dần theo thời gian, tích lũy phân biệt, nhận thức được mình là ai, ý thức cái tôi hiện hữu, tương quan xã hội

“Nhơn chi sơ tánh bổn thiện” bản tánh con người sinh ra vốn thiện, nhưng “ Tánh tương cận, tập tương viễn”, tùy vào môi trường sống, sự tiếp thu giáo dục, ảnh hưởng của xã hội, tạo nên nhận thức – ý thức phức tạp. Trôi dài theo năm tháng, trong cái hình hài bé nhỏ, hình thành nên cái tôi cá thể khác biệt, cái bổn tánh thiện thuở ban đầu không còn nữa. Do ảnh hưởng môi trường sống, hình thành tạo nên bản chất:

– Tham: Ham muốn, chiếm đoạt – sở hữu, thỏa mãn cho riêng tôi
– Sân: Nóng giận, dẫn đến bạo lực
– Si: Mê muội, không trí tuệ, không hiểu biết lẽ phải

Y thức bắt đầu hoạt động, là lúc đối mặt đương đầu, đối kháng với thực tại cam go. Từ những ức chế tìm tàng, những bất công vây bủa nghiệt ngã của xã hội, hình thành nên những định kiến – ngã chấp. Tự tạo nên một khuôn mặt, một cá tính, một phong cách lập dị khác. Cảm thấy bị đối sử bất công – đời sống bị đe dọa, dẫn đến bất đồng – bất mãn. Để tự vệ, phản ứng tạo nên những cuộc bùng nổ vùng lên, đập phá – gào thét, để thỏa mãn cá tính điên loạn ngông cuồng tư kỉ. Hoặc dẫn đến tự ti – mặc cảm, buồn chán – khép kín nội tâm. Ngã ái được hình thành, chỉ biết có tôi, tôi là tất cả. Cái tôi vị kỉ tác động lên xã hội, làm xung động tha nhân, nhiễu nhương – bất an toàn xã hội

Để hình thành nhân cách theo chiều hướng xã hội, nhiều chủ thuyết được đặt ra, nhằm mục đích áp đặt – nhồi nhét, chỉ biết hưởng thụ – lãnh cảm trước cộng đồng, biến cái tôi cá thể, mất tự chủ, phục vụ cho cái tôi giai cấp

Giáo dục để hướng tới tiêu chuẩn tối ưu, hình thành nhân cách hướng thiện đạo đức không phải là dễ. Muốn được vậy, nền giáo dục không còn khép kín mang tính kinh viện mù quáng – không thực tại, mà phải đầy đủ tố chất nhân bản tự giác vượt trội, nuôi dưỡng sức sống tự chủ, giữ gìn khí tiết, nẩy mầm vị tha, vươn tới nhân văn cộng động, vận hành – thúc đẩy xã hội thăng hoa vươn lên – hiện đại hóa kiến thức – phát triển tuệ giác siêu việt

Nhân bản là một thế giới quan luân lý giá trị nhân văn, bao dung tự chủ cộng sinh, tự tin vững vàng – mạnh mẽ – sáng tạo. mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật duyên sinh giả hợp. Thao thức – tâm huyết, quyết định dấn thân, đảm trách sứ mệnh đi tìm chân lý trung hòa – ánh sáng đạo đức tương hợp, để phụng sự công ích dân sinh. Bác bỏ hệ thuộc siêu nhiên, chối từ ngoại giới mơ hồ, lý thuyết vong bản vô tưởng. Tập trung nâng cao đặc tính bản chất tìm tàng, khắn khít tình người, tôn trọng phẩm giá – nhân chủ – tự do con người

Muốn hoàn thiện nhân cách, hoàn thiện bản thân. Đến với GĐPT để chọn cho mình một pháp môn tu, nhằm mục đích thanh lọc tam nghiệp, tịnh thân, định ý. Sau khi đã được tự giác, sẽ thực hiện giác tha, để đạt được giác hạnh viên mãn.

GĐPT là một tổ chức giáo dục, muốn hướng thiện được tha nhân, đòi hỏi mỗi nhân thân phải đầy đủ thân giáo, khẩu giáo, ý giáo. Phải là một tấm gương sáng, một nhà mô phạm với đầy đủ đạo đức uy nghi, đủ sức truyền tải nguồn năng lượng Phật chất vô biên vào tận mọi ngõ lòng thâm sâu của mỗi nhân sinh. Kiến thức đâu phải bổng nhiên mà có, đòi hỏi phải hội đủ thời gian để dùi mài, đào luyện. Bỏ tu, bỏ học, bỏ bậc, bỏ trại nửa vời, không có quá trình sinh hoạt lâu dài với tổ chức, thì chỉ có mai một, lạc hậu, làm sao mà đuổi bắt theo kịp với thời gian, làm sao đủ năng lực, đủ bản lĩnh, nhất là làm gì có đủ tinh thần trung kiên, đủ niềm tin son sắc vào tổ chức, đủ nghị lực vô úy để mà lãnh đạo cầm đoàn, điều hành một đơn vị GĐPT sở tại, lội ngược dòng đời, góp phần làm thanh sạch, thiện hóa xã hội.

Huynh trưởng GĐPT nỗ lực tu học, thực tập tinh thần siêu việt Duy Ma Cật, từ đó tỏa sáng sức sống diệu kỳ, mạnh dạn bước vào thế giới tâm linh sinh động, kiến giải, làm toát lên sự trong sáng tuệ giác, hiển bày bản nguyện, nâng cao phẩm giá, hun đúc ý chí, thành tựu thảnh thơi giải thoát đến vô cùng.

“Chư Phật và Bồ tát có pháp giải thoát Bất tư nghì. Khi Bồ tát trụ nơi pháp, đem núi Tu Di (Sumeru) để vào trong một hột cải vẫn không dư không thiếu. Hình dạng núi Tu Di cũng không biến đổi, trời Tứ thiên vương và chư thiên cõi trời Ba mươi ba (Ðao Lợi) cũng không biết là mình vào trong đó. Chỉ những bậc Ứng hợp độ thế mới có thể biết rằng núi Tu Di đã được đem vào trong hạt cải. Ðó là pháp môn Bất tư nghì giải thoát”.

Đạo Phật xuất hiện từ một thực tại vô ngã, từ trạng thái hữu ngã vô minh, đoạn trừ phiền não, thể nhập biện chứng nhân bản, giác ngộ, ngã không, giải thoát. Có, không, còn, mất, hơn, thua. Dù trong nguy khó là vậy, nội ma ngoại chướng vây bủa nghìn trùng. Người Huynh trưởng PT thực tập, tu học, phát nguyện vững chãi, gánh vát gian nan, an nhiên tĩnh tại, vô úy đi tới, giữ vững tay chèo, cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, đưa con thuyền GĐPTVN cặp bến bình yên.

Ngoài trí tuệ và năng lực hiện thực, người Huynh Trưởng thiện tri thức, còn phải có tâm huyết thiết tha, nồng nhiệt. Với cái tâm hết lòng vì tổ chức mà phụng sự, mang lại một giá trị đích thực cho cuộc sống.

“Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.

Người Huynh trưởng Phật tử, là người có đầy đủ kiến thức về cuộc sống, không mụ mẫm trước niềm tin thiếu kiểm chứng. Vào đời với biết bao thao thức, khát khao đi tìm một định hướng sống mới mẽ thiết thực, chuyển hóa tự thân , thăng hoa tốt đẹp cuộc đời.

Người thiện sĩ Huynh trưởng GĐPTVN, vững vàng trong thế đứng thẳng tắp, với tấm lòng vị tha bát ngát vào đời, vì tha nhân mà phụng sự. Chọn tuổi trẻ làm đối trọng để khai thị tuệ giác. Chọn nhân sinh làm nấc thang thăng tiến, kiến thiết một xã hội công bằng an lạc. Mỗi tham vọng, mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm từ dục vọng thấp hèn, từ hận thù nghi kỵ, từ ganh tị hơn thua, xô đẩy nhau đọa đày đau khổ.

Người Huynh trưởng GĐPT biết nhóm lên ngọn lửa thương yêu, đem lại niềm tin yêu và vui sống cho mọi người, xua tan đi mê mờ kiến chấp.

Người Huynh trưởng GĐPT, là người nghệ sĩ biết rung cảm trong từng mỗi suy tư, sáng tạo nên những công trình nghệ thuật vĩ đại, đáp ứng vẹn thỏa những khát khao thưởng thức nét đẹp tâm linh thanh thoát.

Người Huynh trưởng GĐPT, là người biết dóng lên những hồi chuông tự tại ngân dài, như những đợt sóng hải triều âm, làm lắng xuống vạn lòng thanh thoát.

Người Huynh trưởng GĐPT, là một chiến sĩ trên mặt trận tâm linh, một kỹ sư tâm hồn, một thiền sinh đang đối mặt trước thực tại vô minh, thắp sáng trí tuệ. Phải luôn luôn nỗ lực, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng GĐPTVN hướng về phía trước. Không lùi bước khi nhắm vào mục phiêu cứu cánh, không xuê xoa trước những sai trái đời thường, không chùn bước trước những xuyên tạc, những rắp tâm bẻ cong chân lý. Trên hành trình đi tìm lẽ sống, mỗi trở ngại, mỗi gian nan, đều có giá trị riêng của nó. Nếu đường đời mà bằng phẳng cả, thì khó mà đánh giá được giá trị, là vốn sống dài lâu.

Sự hội ngộ giữa Văn Thù và Duy Ma Cật là cuộc gặp gỡ giữa đỉnh cao của thanh tịnh và trí tuệ, làm đảo lộn cái thấy đoạn kiến hạn cục, rơi rụng vô minh phiền não. Từ cái tri thức khái niệm mù mờ sanh diệt đạo đoạn, thấy được cái không hiểu được, tịch diệt vắng lặng, khó diễn tả bằng ngôn ngữ, đó là bất khả tư nghì !

Phật tính được lan tỏa từ đức hạnh thanh khiết, không biểu hiện phô trương bằng sắc tướng dị biệt, nhưng mở rộng đầy đủ diệu hữu, an trú pháp không, thành tựu trang nghiêm công đức.

Đứng trên hiện tượng còn vướng mắc vọng niệm nhiễm trước không tưởng, không có lý do tồn tại mà diễn bày Phật pháp, là phản tác dụng giáo dục, chỉ dẫn đến thế gian pháp, mơ nằm trong mơ. Trong dục vọng vẫn còn có ươm mầm trí tuệ, nếu sự ham muốn được hướng đến từ bi vị tha, thì dục vọng được chuyển hóa thành hạnh phúc an lạc hoàn toàn.

Huynh trưởng GĐPT thực tập tu học Phật pháp đứng trên lập trường chánh niệm bất tư nghì, vượt lên trên nhị nguyên, mới cảm nhận được sự thật chuyển biến từ sâu thẳm. Hương vị giải thoát được toát lên, chỉ có người khát nước, khi hớp tùng ngụm trà sen, mới thẩm thấu, thấm đẫm được hương vị mát dịu đậm đà của nước, hạnh phúc thật sự thật bình dị nhẹ nhàng thanh thoát.

Tư tưởng Bất tư nghì là hướng nhìn mới, thông thoáng, không hạn cục giữa nhân và ngã. Thấy tâm còn bệnh, thì tìm cầu thiện tri thức để được khai thị, thấy kiến thức còn khiếm khuyết, thấy đức hạnh còn hèn kém, thì nỗ lực tinh tấn rèn luyện vươn lên. Thấy tha nhân còn tha hóa lạc lõng, thấy người cần phải độ, phát tâm tích cực kiên cố lập chí hành hoạt phật sự chuyển hóa dung nhiếp đến toàn thiện. Phương tiện diệu thủ tạo nên mãnh đất phì nhiêu, giúp tha nhân gieo trồng hạt giống bồ đề kiên cố. Đem vật lý tòa sư tử vô ngại đặt vào đúng nguyên vị “Ưng vô sở trụ” bình đẳng.

Nhân thức hiện tượng nhị nguyên mà có uế có trược, có tịnh và bất tịnh. Bởi ý niệm sai biệt, cắt xén thực tại thành những mãnh vụn rời rạc nhằm phục vụ cho dục lạc đam mê vị kỷ. Nhưng mặt trái của thỏa mãn nhất thời là nỗi nhàm chán rây rức nhứt nhối triền miên, khi đối mặt chạm trán với thực tại chông gai gian khó làm chùn lòng thối chí đau khổ tột cùng.

Từ tục đế tỉnh thức, thể nhập bản chất như thật sinh diệt, trên dưới, thấp cao của thế giới khái niệm hữu hạn khách quan. Đạt được chân đế bất nhị bình đẳng nhất quán kỳ diệu toàn triệt “Tâm tịnh thế giới tịnh” ./-




Hành Trình Định Hướng Sinh Hoạt GĐPT

Hành Trình Định Hướng Sinh Hoạt GĐPT

Rời cuộc sống tha phương để chuẩn bị cho chuyến hành trình mới… chúng tôi gồng gánh trở về lại cố hương. Sau 1975, phí Bắc Bình Thuận, vào những thập niên 80 – 90 sinh hoạt GĐPT nơi này hầu như tan rã tắt lịm.

Sức sống diệu kỳ “sinh hoạt Gia Đình Phật Tử” luôn luôn hừng hực bùng cháy trong trái tim nóng hổi – tôi tìm phương cách tùy duyên tái sinh hoạt GĐPT. Tôi tìm cách liên lạc với Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận (trước 1975, tỉnh Bình Thuận chưa sáp nhập tỉnh Bình Tuy). Vào dịp lễ đặt đá xây dựng lại trường trung cấp Phật học Bình Thuận, nhận được lời mời của Ban tổ chức, chúng tôi lên đường tham dự. Trên mình tôi, chiếc Áo Lam lẻ loi giữa biển người mênh mông. Tôi bắt gặp các anh: Tâm Quang Nguyễn Văn Mẫn, Lệ Duy Phạm Dự (thành viên BHD GĐPT Bình Thuận trước 1975), gặp được nhau chúng tôi tay bắt mặt mừng chào hỏi nhau. Thấy các anh mặc áo sơ mi trắng, tôi chỉ tay vào áo của mình hỏi: Tại sao các anh không có Lam ! Các anh chỉ vào áo trắng của mình trả lời: Chúng tôi thích màu áo này ! tôi ngỡ ngàng. Sau vài câu chuyện xã giao, chúng tôi vội vàng cáo từ.

Vào dịp Lễ Phật Đản, chùa chúng tôi tổ chức đoàn về chùa huyện hội tham dự tại lễ đài chính. Thấy tôi có chung màu áo Lam các anh chị tại địa phương, Nam áo lam quần dài – Nữ áo dài lam ùa đến mừng rỡ bắt tay, qua câu chuyện, chúng tôi biết các anh chị là giáo viên – là Huynh trưởng – Đoàn sinh trước 1975, ước muốn tái sinh hoạt lại GĐPT, tôi hoan hỷ đồng tình, hẹn ngày chủ nhật hằng tuần về đây cùng nhau xây dựng GĐPT. Thế là GĐPT Thiện Định được hình thành.

Năm 1995, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra Thông bạch 455/TB-HĐTS ngày 21/7/1995 hướng dẫn việc thực hiện việc quản lý sinh hoạt GĐPT. Năm 2001, Phân ban HHD GĐPT Bình Thuận (phía Bắc Bình Thuận) ra đời. Các anh chị Huynh trưởng GĐPT Thiện Định, trước 1975 sinh hoạt cùng BHD GĐPT BÌnh Thuận, nay thấy các anh chị của mình thành lập Phân ban HHD GĐPT, đồng lòng đăng ký. Tôi không đồng tình, sau khi thuyết phục không được tôi rời khỏi GĐPT Thiện Định.

Nhận lời mời của thầy Trưởng ban pháp chế huyện hội mời tham gia Ban tổ chức và giao nhiệm vụ MC điều hành chương trình lễ lạc thành chùa, trong thời gian này – tại đây tôi tiếp xúc nhiều Thanh niên thường xuyên đến chùa lễ Phật tụng kinh – làm công quả, tôi tranh thủ trao đổi Phật pháp – gieo ý thức hướng thiện – phụng sự đạo pháp hướng đến hình thành tái sinh hoạt GĐPT Thiện Duyên, chúng tôi tổ chức đêm văn nghệ cúng dường lễ lạc thành. Sau lễ khánh thành chùa, tôi tiến hành tổ chức Trại A Nô Ma – Ni Liên khóa đào tạo Đội – Chúng trưởng, thu hút trên năm mươi trại sinh. Chúng tôi đang tiến hành đồng phục và đội ngũ hóa Ngành Thanh (chưa có Ngành Thiếu và Ngành đồng). Không biết lo sợ điều gì – không chịu tìm hiểu – không biết lắng nghe, sau khi tác động với thầy trụ trị, vào một đêm tối trời CA đột nhập chùa, với lý do cư trú bất hợp pháp họ trục xuất tôi ra khỏi chùa.

Về lại chùa làng, tôi đến gặp thầy chánh đại diện (lúc bấy giờ chưa có chức danh Ban trị sự) huyện hội và cũng là Phó Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Thuận, được sự đồng ý, chúng tôi tổ chức văn nghệ cúng dường Phật Đản – Vu Lan – văn nghệ quần chúng tại địa phương, qua đó chúng tôi vận động tập hợp trên 30 Thanh – Thiếu niên Nam – Nữ, mở Trại A Nô Ma – Ni Liên (Đội – Chúng trưởng) chuẩn bị tái sinh hoạt GĐPT Thiện Lương. Trại đang tiến hành trong niềm hân hoan phấn khởi kỳ vọng của đồng bào Phật tử. Chính quyền địa phương tác động, thầy buộc phải dừng lại – không cho tái sinh hoạt GĐPT Thiện Lương. Thầy chánh đại diện thuộc hệ phái Cổ Sơn Môn – có gia đình riêng – không trường chay – hành nghề thầy cúng. Có lần chúng tôi tổ chức khóa tu Bat Quan Trai cho cư sĩ Phật tử, chúng tôi cung thỉnh thầy thuyết pháp, trong thời thính pháp, có lẽ do không có tu học – không thẩm thấu giác ngộ Phật pháp, thầy giảng về ý nghĩa Bát Quan Trai: Bát là tám – Quan là ánh sáng hào quang chớp qua xẹt lại, Trai là ăn chay…

Có lẽ thấy được khả năng tập hợp Thanh – Thiếu niên, ông chủ tịch Hội Chữ Thập Đỏ đến gặp và trao đổi với tôi mong muốn thành lập Đội xung kích Chữ Thập Đỏ. Nhận thấy đây là công tác xã hội – nhân đạo đúng với năng khiếu – sở trường của mình, tôi nhận lời. Tại những buổi sinh hoạt Thanh niên địa phương, tôi tiếp cận trao đổi nói lên tinh thần nhân đạo và sinh hoạt cộng động, sau gần một tháng vận động, nhiều Thanh niên (Nam – Nữ) hưởng ửng đăng ký tham gia Đội xung kích CTĐ. Chúng tôi vận dụng sinh hoạt vòng tròn – hoạt-động-thanh-niên tạo nên sân chơi sinh thú hấp dẫn thu hút trên bảy chục Thanh niên tham gia. Chúng tôi tổ chức nhiều chương trình văn nghệ quần chúng tại địa phương và đem trống đi đánh xứ người – lưu diễn tại nhiều địa phương khác nhau.

Có lẽ do lý lịch tốt – có trình độ học thức cao và đã từng là giáo viên giảng dạy – là cán bộ quản lý ngành giáo dục huyện, các hoạt động an sinh tại địa phương, các tổ chức ngành – đoàn thể – chính quyền và cấp ủy đảng tại địa phương đều muốn nghe ý kiến tư vấn của tôi. Có lần anh Bí thư đoàn địa phương tổ chức khóa bồi dưỡng cảm tình đoàn, qua hơn một tháng, chỉ lèo tèo vài Thanh niên quần chúng đăng ký học, anh bức súc gặp chúng tôi, khó từ chối được. Các buổi sinh hoạt Thanh niên tại các thôn ấp, tôi được trịnh trọng mời đến, qua các đề tài diễn thuyết tôi lồng vào những bài thơ những mẫu chuyện hài về tình yêu trong sáng – về tinh thần dân tộc yêu quê hương đất nước, tôi nhận được nhiều tràng pháo tay phấn kích – hưởng ứng nhiệt liệt. Thế là lớp cảm tình đoàn có được gần một trăm Thanh niên (Nam – Nữ) tham dự.

Nhận được lời mời của Ban trị sự Phật giáo tỉnh, về việc tổ chức cái gọi là ngày hội xem xét – góp ý Nội Quy – Quy Chế GĐPT. Tôi đồng phục nghiêm chỉnh vào tỉnh hội dự hội. Tại cuộc họp tôi bắt gặp cả một rừng Lam, mới biết được có Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận, do quý anh chị phía Nam Bình Thuận (Bình Tuy) lãnh đạo – điều hành. Tối hôm đó chúng tôi gặp nhau chia sẻ tâm tình cùng các anh Trưởng BHD – anh Phó Tổng thư ký và anh Bổn Đồng-Phạm Lợi. Tôi mừng mừng – tủi tủi như người con thơ dại sau những năm tháng lưu lạc tha phương bây giờ gặp lại được êm ái ấm cúng trong vòng tay mẹ hiền thân yêu, tôi gặp lại đúng hệ thống truyền thống GĐPT, thế là tôi đã có điểm tựa tinh thần – an trú vững chãi, tiếp tục tu học – sinh hoạt lại từ đó ./-

Lam Nhã Thảo Am, 09102567 – 21112023.




Thân Cận Xứ

Thân Cận Xứ

Trong sinh hoạt GĐPT, chúng tôi được phân công làm công tác Lãnh đạo. Chúng tôi được tổ chức điều động trãi qua 4 đơn vị GĐPT – 4 ngôi Chùa.

Trong những thập niên 80 – ảnh hưởng một thời bao cấp lạc hậu – tối tăm – tồi tệ!

Chúng tôi đến đây, phố núi thưa thớt đìu hiu, cư dân nghèo nàn cơ cực. Với chiếc xe đạp cọc cạch chạy quanh khắp các ngã phố. Được người dân ở đây hướng dẫn, chúng tôi tìm đến, Chùa chỉ còn là một kho bãi. Tìm hiểu những vị cao niên, được cho biết:

Kể từ sau 1975, chùa không còn bóng dáng Tăng Già – người dân âu lo không dám đến Chùa. Nhà nước địa phương chiếm dụng, ngôi Chùa trở thành kho chứa hàng hợp tác xã mua bán.

Sau nhiều lần tới lui thăm viếng, vận động – động viên bà con địa phương xin lại ngôi tín ngưỡng. Trãi qua một thời gian dài nhọc nhằn – gian nan, cuối cùng cũng được toại nguyện.

Sau nhiều ngày thui thủi – tích cực dọn dẹp vệ sinh – lau sạch tượng Phật – hương trầm xông ngát – tiếng chuông chùa lại được ngân nga đầm ấm, như giục giã lòng người tục lụy, quên đi hư vinh, mau chóng quay về bờ giác.

Dưới ngọn đèn dầu tù mù – leo loét, tiếng chuông – tiếng mõ – tiếng kinh trầm lặng – lẽ loi – đơn độc, ê a gọi thức bao đêm. Rồi dần hồi cũng rung động – cảm ứng lòng người. Ban đầu là những trẻ em hiếu kỳ, rồi đến những người lớn tuổi. Được động viên – được phân tích nhân quả – thiện ác – tội phước, ai nấy đều hẹn nhau, hằng đêm về chùa lễ Phật – tịnh độ cầu kinh. Sau thời kinh, chúng tôi quây quần bên tách trà xanh đàm đạo – trao đổi Phật pháp, lâu dần thành nề nếp, không đêm nào thiếu vắng được. Những đêm thứ Bảy – Chủ Nhật, sau thời kinh tịnh độ, chúng tôi tập hợp các em lại, tập cho các em những bài hát sinh hoạt, kể cho các em nghe những mẫu chuyện đạo và sinh hoạt vài trò chơi nhỏ. Nhiều Bác đạo hữu thấy vui, cũng thích thú hòa mình tham gia.

Sau đại lễ Vu Lan Báo Hiếu được tổ chức hoành tráng, chúng tôi tập họp các em – tay trong tay, hát lại bài ca:

“Chúng ta là chim bốn phương bay về đây…

“Đây gia đình cùng nhau chung thân ái…”.

Để rồi năm sau, mùa Phật Đản về. Trước ngày Đại Lễ, chúng tôi mời quý Bác đạo hữu có uy tín trong làng, hình thành Ban Hộ Tự, thống nhất cử chúng tôi làm thư ký. Và tập hợp những Huynh trưởng – Đoàn sinh trước năm 75 có tham gia sinh hoạt GĐPT, hình thành Ban Huynh Trưởng, thống nhất cử chúng tôi làm Liên Đoàn Trưởng (mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi chưa qua bậc tu học nào – chưa qua trại huấn luyện nào và dĩ nhiên là cũng chưa có có cấp). Chúng tôi vận động các nhà hảo tâm tài trợ, cùng nhau thực hiện vườn Lâm Tỳ Ni – trang trí Lễ Đài rực rỡ. Tổ chức may cờ GĐPT – may áo lam. Gấp rút thực hiện một chương trình văn nghệ hoành tráng.

Trong ngày Đại Lễ Phật Đản Sinh – ngày trọng đại ra mắt GĐPT, trong niềm hoan hỷ vô biên, tất cả chúng tôi, gần 60 anh – chị – em đều đồng phục tề chỉnh, lá cờ nền xanh – Hoa sen trắng tung lượn phất phới. Một buổi lễ Đoàn được chính thức cử hành trang trọng trong xúc động tràn trề – nghẹn ngào nước mắt. GĐPT gần 20 năm bị chựng lại, giờ đây được tái sinh hoạt! Từ đó, chúng tôi đưa màu Áo Lam đi khắp các Chùa – đến các địa phương sinh hoạt – vận động tái sinh hoạt lại các đơn vị GĐPT.

Có lẽ các Anh – các Chị, trong mỗi chúng ta, ai nấy đều nhớ lại cái thuở ban đầu ấy!… Ai mà không ngậm ngùi rơi nước mắt khi nhìn thấy lại màu cờ – sắc áo thân thương, cứ ngỡ rằng đã bị vùi dập mai một với thời gian mưa sa – bảo táp. Trong khó khăn là vậy, ai nấy cũng ẩn nhẫn dùi mài ý chí, tự giác vận động tự thân vươn lên dưới mọi hình thức, để cho mầu cờ – sắc áo kỳ vĩ được sống mãi. Thế là chúng ta đã được sống – tự sinh – tự tồn…

Nhưng hôm nay thì sao ?

Một dấu hỏi to lớn đang được đặt ra, một công án thách đố ý chí mỗi Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPTVN!

Chúng ta đang đối mặt trước vô vàn khó khăn (lòng người tráo trở – khúc mắc), một thách thức lớn trước thời cuộc, một sa bàn của một trò chơi lớn đang được mở ra trước mắt, đòi hỏi mỗi tự thân phải có đủ năng lực huyền nhiệm, để kiến giải – chuyển hóa – định hướng đường về ?!…

Sau năm 1986, nhà nước VN mở cửa, mở rộng tầm mắt nhìn ra thế giới bên ngoài – kinh tế tư sản dần hồi phục hồi – phát triển.

Trong giai đoạn mở rộng lộ giới, mặt tiền Chùa bị thu hẹp. Chúng tôi tư vấn, Ban Hộ Tự và đồng bào Phật tử địa phương nhất trí ủng hộ, đất Chùa được chia lô – sang nhượng lại. Nhờ nguồn tài chánh này, chúng tôi chọn mua một đồi cây bên ngoài khu dân cư và tiến hành xây dựng Chùa mới. Ai nấy đều than thở: Chùa nằm giữa khu phố – đông dân cư, còn ít người lui tới, bây giờ dời Chùa xa khu dân cư, lại ở trên đồi cao, không biết có còn ai đến Chùa? Chúng tôi hết lòng – tùy duyên trấn an, mọi người ai nấy phần nào nguôi ngoai.

Đến ngày khởi công, GĐPT nhận nhiệm vụ san mặt bằng – đào móng – mở đường – trồng cây tạo cảnh quang. Chúng tôi và Ban Hộ Tự chia nhau đi khắp các thôn – xóm, vận động đồng bào Phật tử, chia thành nhiều đội – nhiều tổ – xoay vòng – tham gia – nhiệt tình công quả. Gần một năm nhọc nhằn – gian khổ trôi qua, ngôi Chùa dần hồi được hình thành – trang nghiêm – thanh tĩnh – đẹp đẽ.

Có lẽ như là duyên định. Sau khi xây dựng Chùa xong, chánh quyền địa phương quy hoạch: Một một công viên – một ngôi chợ mới được mọc ngay dưới chân đồi – phố thị mở ra rộng rãi – đường xá thênh thang – dân cư đông đúc – nhà cửa mọc lên như nấm bao quanh chân đồi. Chúng tôi thường hay nói vui với nhau: Chùa tuy xa mà gần – tuy động mà tịnh. Vì chùa thì ở trên đồi, núp mình dưới những tán lá cây xanh yên tĩnh, còn chợ và khu dân cư tấp nập – náo nhiệt thì ở dưới chân đồi.

Được Thầy Chánh Đại Diện thị hội (lúc bấy giờ cấp huyện – thị chưa có danh hiệu Ban Trị Sự) giới thiệu 1 Thầy thanh tu ẩn cư. Sau 3 lần phái đoàn chúng tôi đến tư am đảnh lễ – thiết tha – thành tâm cung thỉnh, Thầy mới nhận lời – chấp thuận về Trụ trì.

Thực hiện mô hình cơ cấu tổ chức GHPGVNTN. Sau khi trình bày – thỉnh ý, được Thầy thống nhất. Chúng tôi tập họp quý đạo hữu có uy tín, đại diện các thôn – xóm, hình thành các Chúng – Vức cư sĩ Phật tử theo từng khu phố – mỗi khu dân cư. Hưởng ứng cuộc vận động, nhận thấy quyền lợi thích đáng khi tham gia Đạo tràng. Đồng bào Phật tử truyền tai nhau: Nếu không vào Đạo tràng – không về chùa, khi gia đình riêng gặp hữu sự, thì không ai quan tâm – không đến tương trợ – không được giúp đỡ. Thế là, ngoại trừ người theo đạo Thiên Chúa Giáo. Từ những hộ gia đình đã quy y cho đến những hộ gia đình chưa quy y – chưa từng đến Chùa, ai nấy đều lũ lượt – tấp nập đổ dồn về Chùa – nhiệt thành đăng ký tham gia Đạo tràng – Tham gia các Lễ Quy Y. Kể từ đó, những đêm tịnh độ không dưới trăm Phật tử. Chưa nói đến các ngày lễ trọng, chỉ nói đến các ngày Lễ Sám Hối hàng tháng, đồng bào Phật tử về Chùa đông đảo – nườm nượp, chánh điện lớn như vậy mà không đủ sức chứa, phải đứng tràn ra ngoài sân – chung quanh Chùa, hàng hàng lớp lớp nghiêm trang chấp tay – hướng về Đại Hùng Bảo Điện – tâm thành – niệm kinh – làm lễ.

Chúng – Vức nhiều, Đạo tràng đông đảo thì GĐPT cũng khởi sắc. Số lượng Đoàn sinh tham gia sinh hoạt bình thường hàng tuần lên trên 500 – những ngày lễ – ngày trại thì tập trung quá tải. Nhờ đất vườn chung quanh Chùa rộng rãi – thoáng mát, được chia thành nhiều khu vực cho mỗi Đoàn. Lều trại – cổng trại từng Đàn – Đội – Chúng (Nam – Nữ riêng biệt), được dựng dưới những tàng cây rợp mát, cờ xí – đèn hoa giăng đầy – trang trí rực rỡ như từng khu phố thu hẹp, làm khởi sắc – huy hoàng ngày lễ. Những buổi chiều Chủ Nhật sinh hoạt – hoặc các ngày trại lễ, GĐPT đều được quý Cô – Bác đạo hữu thương yêu – ưu ái dành cho bánh trái – những thùng nước chanh – tắc – hoặc sắn dây giải khát và tổ chức những buổi cơm chay đầy đủ – suốt thời gian GĐPT ở lại Chùa.

Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT, ai nấy đều xem Chùa là ngôi nhà thứ 2 – là mái ấm thân yêu của mình, hằng ngày, không hẹn mà lên, ai nấy đều dành thời gian rảnh rỗi lên Chùa công quả, chia nhau dọn dẹp vệ sinh, xới đất trồng rau, tưới cây, chăm sóc vườn hoa – cây cảnh, trồng thêm cây xanh.

Sau khi ổn định cơ cấu tổ chức, chúng tôi tư vấn, được Thầy đồng ý. Dưới sự hướng dẫn của Thầy, chúng tôi tiến hành tổ chức – điều hành các khóa Tu Bát Quan Trai và thực tập quán niệm hơi thở – hướng dẫn tu học Phật pháp trong 1 ngày – 1 đêm, mỗi tháng 2 lần vào các ngày 14 – Rằm và 30 – Mồng Một hàng tháng. Số lượng cư sĩ Phật tử tham gia mỗi khóa tu giao động trên 7 – 8 trăm người. Ngoài số Huynh trưởng – Đoàn sinh tham gia khóa tu, các chị Ngành Thanh lớn tuổi nhận nhiệm vụ Trai soạn (nấu ăn), các em Ngành Thanh tuổi trẻ tham gia Hành đường.

Các ngày lễ trọng trong năm: Tết Nguyên Đán – Phật Đản – Vu Lan – Giỗ Tổ khai sơn (chùa cũ) – Trai Tăng – Trai Đàn Chẩn Tế, Thầy là Trưởng Ban – anh Liên Đoàn Trưởng là Phó ban điều hành Tổ Chức, tất cả Huynh trưởng và Đoàn sinh – cùng đạo hữu bổn tự tham gia trong các Tiểu Ban – Ban Tổ Chức. Trong suốt thời gian trước và sau tổ chức Lễ, GĐPT tích cức phục vụ hoàn thành các phật sự được giao. Sau khi đồng bào Phật tử thập phương trai phạn xong, thì GĐPT mới cùng Thầy thọ trai, những buổi thọ trại này, lần nào cũng vậy, đều được nhà trù – ban trai soạn thiết đãi đặc biệt ngon hơn.

GĐPT là cánh tay đắc lực, luôn luôn sát cánh cùng Thầy trong mọi hoạt động của Chùa. Mỗi lần Thầy cần – chùa có hữu sự, là GĐPT sẵn sàng có mặt. Cho nên GĐPT luôn luôn được Thầy yêu thương – cư sĩ Phật tử quý mến. Mỗi lần GĐPT tổ chức cứu trợ, tổ chức trợ cấp học bổng cho học sinh là Đoàn sinh nghèo, tổ chức các sinh hoạt quan trọng – hay đi sinh hoạt – phật sự xa, chúng tôi vào thưa trình, được Thầy hoan hỷ mở hầu bao trợ cấp, được quý Bác đạo hữu – mạnh thường quân vui vẻ ủng hộ. Mỗi lần Ban Tổ Chức Hội Chợ địa phương, mời GĐPT tham gia tổ chức các gian hàng trò chơi, hoặc GĐPT tổ chức Hội Hoa Xuân tại Chùa – gian hàng trò chơi – lô tô hoặc xổ số nhận thưởng, đều được quý đạo hữu mạnh thường quân, chủ các cửa hàng hoan hỷ – sẵn sàng – tích cực đưa các mặt hàng hóa đến từng gian hàng để hỗ trợ, qua Lễ Hội mới thanh toán – nếu hàng còn tồn đọng, vẫn vui vẽ nhận lại. Qua đây cho thấy, muốn tổ chức một ngôi chùa mạnh – một GĐPT mạnh, thiết nghĩ không khó. Với tinh thần Thân Cận Xứ – với tấm lòng vị tha cao cả – với tâm Bồ đề kiên cố, với lý tưởng son sắc, biết găn bó – hy sinh cá nhân, biết tổ chức –- biết tập hợp, có kế hoạch – có ý chí – sẵn sàng gánh vác gian nan, thì việc gì cũng làm nên – kết quả thành toàn viên mãn .

Trong giai đoạn khủng hoảng – tranh tối tranh sáng, một vài anh chị em quay lưng, Phân ban GĐPT thọc sâu tạo mâu thuẩn chia rẽ nội bộ, đa số Đoàn sinh bi lôi kéo sang Chùa tỉnh hội sinh hoạt Phân ban. BHD điều động chúng tôi về đây.

Quan điểm của chúng tôi, khi đi đến bất cứ nơi đâu, bất cứ ngôi Chùa nào. Muốn phát triển một đơn vị GĐPT, điều tiên quyết là phải thực hiện tinh thần “THÂN CẬN XỨ”, phải tiếp cận chư tôn đức tại trú xứ – tạo sự tín nhiệm ở quý Thầy. Thầy thương – thầy mến, thầy xem chúng ta là một phần thân thể vốn có – không thể thiếu, mọi tổ chức – hoạt động – sinh hoạt của Chùa – Thầy đều cần đến sự có mặt trợ duyên của chúng ta.

Vào năm 1996, chúng tôi về đây, chùa Đạt Ma – thành phố Phan Thiết – Bình Thuận. Với tâm nguyện phụng sự tổ chức Áo Lam – phụng sự Đạo pháp – phụng sự dân tộc. Trên chiếc xe 4 chỗ quá date – cũ mèm, đã cọc cạch đưaThầy trò chúng tôi lủi thủi đi đến các Chùa, trong các thành phố – thị xã – huyện – xã trong tỉnh, vận động chư tôn đức Tăng – Ni để hình thành Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận. Sau khi được chư tôn đức hứa khả, thống nhất cử chúng tôi làm Thư Ký Ban Đại Diện. Hòa thượng Trưởng Ban tiến hành tập hợp tổ chức các phiên họp hàng tháng. Đa số chư tôn đức Tăng – Ni và cư sĩ Phật tử tham gia BĐD lúc bấy giờ, hiện nay vẫn còn đó, tấm lòng trung trinh vẫn luôn luôn hướng về

Trên chuyến xe bôn ba đây đó, có lần Thầy cho xe ghé lại tư gia chúng tôi. Bà xã chúng tôi lăng xăng cúng dường nước và bánh – trái mời Thầy thọ thực. Thầy ngỏ lời động viên:

– Anh Nguyên Hoàng (pháp danh chúng tôi) tham gia nhiều phật sự, thường xuyên đi cùng Thầy. Cô hoan hỷ để cho anh đi làm việc Phật. Anh Nguyên Hoàng làm việc Phật là lập hạnh Bồ Tát. Nhưng cô mới là một vị Bồ Tát tại gia đáng quý, nhờ cô ủng hộ – hoan hỷ giúp đỡ mọi điều kiệu và cô ở nhà tận tụy lo toan gánh vác mọi công việc gia đình, để cho anh Nguyên Hoàng an tậm đi theo Thầy làm tròn phật sự !

Bà xã tôi chấp tay cung kính Mô Phật – y giáo – đảnh lễ Thầy.

Ở đây, không như các vùng nông thôn hay huyện – thị, mỗi địa phương có một ngôi Chùa. Chùa ở đây nằm trong lòng thành phố. Trong thành phố có rất nhiều ngôi Chùa, mỗi phường cũng có vài Chùa. Người cư sĩ Phật tử ở đây về Chùa tùy thích, mỗi nhóm cư sĩ Phật tử ở mỗi phường khác nhau, mến – thích Thầy nào là về Chùa đó, không có ranh giới – mà liên kết với nhau dưới dạng da beo – không tập trung. Chúng tôi nhận thấy tổ chức loại hình chúng – vức cư sĩ Phật tử khó thực hiện được.

Chúng tôi quay ra – hằng tháng tổ chức khóa tu Bát Quan Trại kết hợp tu Chánh Niệm (quán niệm hơi thở) – thọ trai dưới hình thức khất thực (tự chọn).

Thời gian đầu, giới tử tham gia khóa tu vài chục cư sĩ Phật tử thường xuyên về chùa tịnh độ hằng đêm. Có lẽ do tiếng lành đồn xa, có lẽ hình thức tu tập mới lạ tại địa phương, có lẽ do quá trình thực tập có kết quả an lạc thực tại trong đời sống. Cư sĩ Phật tử ở các Chùa khác trong thành phố đổ dồn về tham gia tu tập, mỗi khóa tu có số lượng lên đến 7 – 8 trăm người.

Trong thời điểm đó, tôi có nghe quý vị cư sĩ Phật tử thân quen nói lại, Hòa thượng Trưởng ban Trị Sự Phật Giảo tỉnh nói:

– Ông HT về đây thu hút hết Phật tử Chùa tỉnh hội và các Chùa khác trong thành phố.

Về phía chánh quyền gọi chúng tôi là: Nhà hoạt động tộn giáo từ đó.

Trong những khóa tu, tiếp xúc với chúng tôi, nhận thấy có nhiều thành phần xã hội, từ những anh – những bác cư sĩ Phật tử trong giới xe xích lô – xe ba bánh, đến các em học sinh cấp 2 – cấp 3 – sinh viên, có những vị cư sĩ Phật tử là giáo viên – kỹ sư – bác sĩ – thương gia V.v… mỗi người đều thể hiện tự thân tỉnh thức – nhiệt thành tham gia khóa tu. Sau mỗi năm, chúng tôi tổ chức tổng kết mãn khóa dưới hình thức truyền đăng mới lạ – hấp dẫn, mỗi người ai nấy đều nhận lại một cuốn sổ ghi nhận kết quả tu học – thực tập trong năm, làm cho giới tử ai nấy đều nhiệt thành – phấn khởi – thích thú.

Hằng năm, sau lễ Vu Lan, kết hợp cùng Thầy viện chủ tổ chức Đại lễ cúng dường Trai Tăng. Hình thành một Ban Tổ Chức khá quy mô – đầy đủ ban bệ. Tiến hành vận động tài chánh – vật thực, dự trù trên 5 ngàn phần ăn – trong đó có phát chẩn bố thí cho người dân nghèo. Chúng tôi tham gia cùng Thầy – đi khắp các Chùa trong thành phố và các huyện, đảnh lễ cung thỉnh đủ 100 chư Tăng về dự. Và tại buổi lễ này hàng ngàn đồng bào Phật tử trong thành phố về dự lễ – cúng dường và thọ trại. Nhờ kết quả các khóa tu, chúng tôi tiến hành vận động phụ huynh cho con em về tham gia sinh hoạt GĐPT.

Trong quá trình sinh hoạt, chúng tôi tổ chức mỗi Đoàn có từ 2 đến 3 Đoàn Phó (ĐP), chúng tội tận dùng cử làm ĐP các em đang học từ lớp 9 trở lên. Em đang học lớp 9 được cử vào làm ĐP, được chúng tôi bồi dưỡng – thực tập, đến năm lớp 10 các em đã quen dần – biết cách điều hành và hướng dẫn, đến năm học lớp 11 thì các em đã hoàn chỉnh. Khi em đang học lớp 12, đang là Đoàn Trưởng (ĐT), em này tốt nghiệp 12, đi Sài Gòn vào Đại học, thì em đang học lớp 11 lên thay làm ĐT và cứ phải bổ xung như thế để có nhân sự liên tục xoay vòng.

Có một câu chuyện rất hài lòng – đáng nhớ:
Có lần, trong một buổi sinh hoạt, sau giờ học Phật pháp, mỗi Đoàn tách ra sinh hoạt riêng và Đội – Chúng sinh hoạt tự trị.

Chúng tôi vòng tay sau lưng, lững thững đi quanh các Đoàn xem tình hình sinh hoạt. Chúng tôi vừa bước đến phòng của Đoàn Thiếu Nữ đang sinh hoạt, em Đoàn Trưởng – Đoàn Thiếu Nữ bước ra, đi song song bên tôi em nói:
– Anh HT thấy không, em bây giờ cũng vòng tay sau lưng, và đi lòng vòng cũng giống như anh.

Tôi dừng lại, ngạc nhiên nhìn em, như chợt hiểu ra – tôi bật cười sảng khoái !

Chúng tôi bước trở lại phòng Đoàn Thiếu Nữ đang sinh hoạt, đứng ngoài khung kính nhìn vào, thấy khung cảnh sinh hoạt trật tự – nền nếp. Em Đoàn Trưởng giới thiệu:

– Các bạn đang thực tập môn nữ công.

Tôi nhìn thấy các em, trên tay mỗi em đang cầm 1 khung thêu, mỗi khung căng 1 mảnh vải trắng, trong đó có lẽ là những cánh hoa sen đang thêu dang dỡ. Em Chúng Trưởng đang đi đến từng bạn, tay chỉ vào khung thêu hướng dẫn. Chúng tôi nhìn sang các Chúng khác ở mỗi góc phòng, thấy mỗi Chúng, Chúng nào Chúng nấy cũng trình tự sinh hoạt y như vậy.

Sau những năm tháng tâm huyết tận tình hướng dẫn, em nỗ lực tu học – rèn luyện – thực tập. Em bây giờ đã được trưởng thành – xứng đáng là một Đoàn Trưởng. Đây là kết quả truyền trao, chúng tôi cảm thấy sung sướng – hoan hỷ vô cùng.

Mỗi tuần sinh hoạt, chúng tôi tổ chức luân phiên mỗi Đoàn trực 1 lần, Đoàn trưởng trực tuần đó, chúng tôi ủy quyền Xử lý Liên Đoàn Trưởng. Các Anh – Chị điều hành từ A đến Z tất cả mọi sinh hoạt của đơn vị trong tuần trực. Nhờ vậy mà Đoàn trưởng nào cũng vững vàng – đủ năng lực quán xuyến tất cả. Mỗi khi có phật sự phải đi xa, chúng tôi rất yên tâm, không phải bận bịu – lo lắng.

Mỗi dịp Đại Lễ Phật Đản – Vu Lan, GĐPT đều tổ chức đêm văn nghệ cúng dường. Trước đây, mỗi lần tổ chức văn nghệ đều thực hiện trước tiền đường Chùa, phục vụ nội bộ. Khi chúng tôi về đây, chúng tôi xin phép Thầy cho dựng sân khấu lộ thiên ngoài mặt tiền Chùa – bên đường nhựa – giữa khu phố đông đúc dân cư. Nhờ đó, đêm văn nghệ thu hút hằng ngàn quần chúng tham dự, đứng tràn lan đầy đường – trên hè phố, làm cho nguồn thu lớn lao vô cùng.

Hằng năm chúng tôi đều tổ chức lễ Chu Niên đơn vị. Cứ 1 năm thì tổ chức nội bộ – trong đơn vị – trong phạm vi Chùa, 1 năm thì tổ chức rộng rãi, mời tất cả các đơn vị GĐPT trong toàn tỉnh về tham dự. Năm nào tổ chức rộng rãi, thì chúng tôi lo lắng chu toàn hơn. Chúng tôi hình thành 1 Ban Tổ Chức quy mô lớn, đầy đủ các ban bệ phục vụ. Khi tổ chức lớn, thì yêu cầu phải có nguồn tài chánh lớn để chi phí các mặt tổ chức, trong đó nguồn chi phí cho ẩm thực là lớn nhất. Nhờ vào đạo tràng khóa tu cư sĩ Phật tử nhiệt tâm ủng hộ và tham gia hỗ trợ các mặt, cho nên tổ chức năm nào cũng thành công viên mãn.

Lễ Chu Niên, trong vườn dừa rộng rãi, chúng tôi tổ chức chia ra nhiều khu vực trại: Trại trung tâm, khu vực mỗi Đoàn Nam – Nữ riêng biệt. Trước khu vực trại mỗi Đoàn có 1 cổng trại, có giây găng chung quanh làm hàng rào, chia ranh giới. Trước mỗi lều Đàn – Đội – Chúng đều có 1 cổng trại – trong mỗi lều đều có thiết trí 1 bàn Phật trang nghiêm, hoa – quả đầy đủ.

Có một phòng triển lãm, được chia ra làm nhiều khu vực trưng bày sức sống của Đơn vị – của mỗi Đoàn – mỗi Đàn – Đội – Chúng. Trước đó, các ngày Chủ Nhật, dưới sự hướng dẫn của Đoàn trưởng, các em Đoàn sinh tập trung về Chùa, khẩn trương thực hiện các sản phẩm để trưng bày triển lãm.

Dễ thương nhất là các em Oanh Vũ, Nam có – Nữ có, với bàn tay nhỏ nhắn – xinh xắn, các em đã cặm cụi – chăm chỉ làm ra những sản phẩm theo ý tưởng của riêng mình đã tu học được.

Đêm văn nghệ Chu Niên, chiều hôm đó mưa bay lất phất. Anh Đoàn Trưởng – Đoàn Thiếu Nam phụ trách sân khấu, vào thưa với chúng tôi, cho phép các anh chuyển sân khấu vào trước tiền đường Chùa, lúc ấy chúng tôi đang tiếp chuyện với chị Phó Trưởng Ban Ngành Nữ Ban Hướng Dẫn. Được sự đồng ý, toàn thể Nam Huynh trưởng và Đoàn sinh túa ra, mỗi người 1 tay chuyển sân khấu vào tiền đường. Sau khi anh ĐT bước ra, Chị PTB nhắc nhở chúng tôi:

– Tại sao anh không ra hướng dẫn cho anh em làm, mà lại để cho AE tự làm có được không vậy ? Tôi nói với Chị:
– Thưa Chị ! AE tự chủ làm rất tốt. Em xin đưa chị ra xem.

Khi chúng tôi đưa chị đến tiền đường, thấy sân khấu được thiết trí lại, đâu vào đó rất đẹp đẽ. Chị nhận xét – khen:
– Tôi nhận thấy, Anh hướng dẫn – điều hành đơn vị, tổ chức các mặt sinh hoạt – các hoạt động rất tốt.

Trong quá trình vận động tái sinh hoạt, có 1 em Đoàn sinh Thiếu Nữ. Gia đình em theo Thiên Chúa Giáo, nhưng em xin gia nhập GĐPT. Gia đình em không đồng ý, mỗi ngày Chủ Nhật sinh hoạt, bằng mọi cách, em trốn tránh gia đình để vđến Chùa sinh hoạt. Có lần mẹ em đến Chùa gặp chúng tôi, nói rõ trường hợp và ý kiến của gia đình. Sau khi nghe chúng tôi trình bày tường tận về mục đích hướng thiện con người của tổ chức GĐPT. Bà gọi em vào, nghe ý kiến quyết tâm của em, bà đành nhượng bộ đồng ý, và xin chúng tôi cho gửi gắm con em sinh hoạt GĐPT.

Còn có một em Đoàn sinh Thiếu Nữ, gia đình em từ miền Bắc chuyển vào, cả cha – mẹ đều là đảng viên – cán bộ cấp tỉnh. Mỗi lần đi sinh hoạt, em luôn luôn bị cha – mẹ ngăn cấm, không cho em sinh hoạt GĐPT. Em đến Chùa khóc nấc nở, các bạn đưa em vào Đoàn quán gặp chúng tôi, chúng tôi trấn an, hứa hẹn với em sẽ đến tư gia gặp cha – mẹ em. Được các em Đoàn sinh hướng dẫn, tôi vào nhà gặp cha – mẹ em. Có lẽ như biết trước mục đích, sau khi mời uống nước, 2 ông bà im lặng nhìn chúng tôi. Chúng tôi tình cảm chân thành, trình bày mục đích hướng thiện cao cả của tổ chức GĐPT, và cũng nhằm mục đích góp phần cống hiến hiền tài cho đất nước. Sau khi nghe chúng tôi trao đổi, 2 ông bà im lặng, có lẽ đang suy ngẫm. Ông lên tiếng:

– Chúng tôi là đảng viên, gia đình không có tín ngưỡng tôn giáo. Từ trước đến nay, chúng tôi chưa từng nghe ai phân tích tỉ mỉ về tinh thần Phật Giáo và đủ sức thuyết phục như anh. Qua lời trình bày của anh, chúng tôi đã nhận thấy được sự lợi ích thiết thực của Phật Giáo. Chúng tôi đồng ý cho cháu tham gia vào GĐPT. Chúng tôi tin tưởng gửi cháu cho các anh, kính mong các anh quan tâm thay gia đình dạy dỗ cháu nên người !

Hai ông bà vui vẻ bắt tay, tiễn đưa chúng tôi ra đến tận cổng.

Hàng tháng, cứ đến kỳ Lễ Sám và các dịp Lễ Phật Đản – Vu Lan, chúng tôi đều thấy 2 ông bà thường xuyên đưa các con của mình lên Chùa tham dự lễ. Những kỳ họp phụ huynh và vào dịp Lễ Chu Niên hằng năm, nhận được thừ mời, 2 ông bà cũng đến đơn vị để dự lễ.

Sau khi ổn định sinh hoạt đơn vị GĐPT, chúng tôi tiến hành vận động thành lập Ban Đại Diện GĐPT liên huyện – thành phố. Chúng tôi được tập thể cử làm nhiệm vụ thư ký.

Hai anh Trưởng và Phó BĐD, có anh sinh hoạt trước 1975 có anh anh mới sinh hoạt sau này. Có lẽ vì lớn tuổi, cho nên hiểu biết về tổ chức không nhiều. Mỗi lần chúng tôi lên đề án tổ chức sinh hoạt, vì muốn được việc – đạt kế hoạch trong năm, với chiếc Vetba cà tàng, chúng tôi phải đến tận tư gia từng anh để tư vấn – xin ý kiến cụ thể, sau khi được thống nhất, mới tổ chức phiên họp trển khai phật sự, thành lập Ban Tổ Chức – Ban Quản Trại V.v….

Những năm tháng ở đây, chúng tôi cùng nhau kết hợp các đơn vị GĐPT, tổ chức nhiều khóa tu học các bậc học, tổ chức Trại Dũng, Trại Hạnh, trại dã ngoại vượt núi cao, trại huấn luyện Tuyết Sơn – Đầu – Thứ Đàn, Trại huấn luyện A Nô Ma – Ni Liên Đội – Chúng Trưởng, và Trại huấn luyện Huynh trưởng sơ cấp Lộc Uyển …

Năm 2004, chúng tôi được Ban Hướng Dẫn chuyển sinh hoạt về đây, chùa Huyền Long – thị xa Lagi – Bình Thuận. Chúng tôi được mời vào làm thư ký Ban Hộ Tự. Khi đến đây, đơn vị GĐPT Khánh Long sinh hoạt lèo tèo vài mươi Đoàn sinh. Do hiểu biết cách tổ chức mà Chư Tôn Đức trước năm 1975 đã chỉ dạy, và chúng tôi đã thực hiện thành công tại một số địa phương. Căn cứ địa giới hành chánh địa phương, chúng tôi chia thành 13 khu dân cư Chúng Cư sĩ Phật tử.

Chúng tôi mới tiến hành thành lập được 2 chúng Cư sĩ Phật tử, đồng bào Phật tử địa phương nô nức về chùa. Mỗi buổi Lễ Sám, ngôi chánh điện lớn như vậy mà không đủ sức chứa, người dân phải đứng tràn ra ngoài sân – chung quanh chùa, chúng tôi hướng dẫn qua loa, mọi người nghiêm trang chấp tay, hướng vào Đại hùng Bảo điện làm lễ.

Hằng tháng chúng tôi tổ chức các khóa tu Chánh Niệm, số lượng Giới tử tham gia thường kỳ lên đến 7, 8 trăm người. Có lần chúng tôi tổ chức Lễ Phóng Sanh Đăng, dự kiến làm 1 ngàn cây đèn hoa. Nhưng khi đến giờ làm lễ, hàng ngàn người dân cả làng đổ xô về chùa. Chúng tôi thông báo trên loa phóng thanh, đồng bào tự động vào các quán bán tạp hóa bên đường, mỗi người tự mua cho mình 1 cây đèn nến cầm tay, có người trên tay không có đèn nến, vì không còn có quán nào còn nến để bán. Số lượng người quá tải, Ban Tổ Chức bó tay không còn xắp xếp được theo từng hàng quy định, người dân đi – đứng tràn lan hết cả con đường to lớn. Đoàn dẫn đầu đã đến cửa biển, cách xa hơn 2 ngàn met, mà cái đuôi vẫn còn ở trước cổng chùa và số lượng người vẫn còn kẹt 2 bên lề đường chưa nhập đươc vào đoàn. Nhận được thông tin, an ninh tỉnh vào gặp chúng tôi, được chúng tôi trấn an, cuộc lễ Phóng Sanh Đăng vẫn trình tự diễn ra tốt đẹp.

Đạo hữu đông thì GĐPT cũng đông, số lượng Đoàn sinh lúc bấy giờ tăng lên trên 2 trăm 5 mươi ĐS. Nếu chúng tôi tiếp tục tiến hành hình thành đủ 13 chúng Cư sĩ Phật tử, thì thử hình dung, số lương Đoàn sinh tăng lên biết bao kể xiết. Sau khi rời quê hương ra đi xuất cảnh, khi chúng tôi trở về lại, nhìn thấy chùa đìu hiu, đạo tràng tu chánh niệm không còn hoạt động, GĐPT rơi rớt còn lại vài chục em. Như vậy thì đủ biết rằng, người H.Tr được giao lại, không đủ khả năng – không điều hành được tổ chức (nhân chứng sống vẫn còn đó).

Tôi tiếp xúc Ban Huynh Trưởng, thì được nghe nói, Sư Cô tham quyền, nhận chức Phó Ban Trị Sự thị xã, nghe lời giáo hội – nghe lời chánh quyền, nhiều lúc Sư Cô đóng cửa chùa, không cho GĐPT vào chánh điện làm lễ, không cho tổ chức trại – không cho tổ chức văn nghệ vào các dịp lễ tại chùa.

Sau thời gian rời chùa, chúng tôi về lại, tham gia đạo tràng – tịnh độ hằng đêm, hy vọng tiến hành kế hoạch sắp đến. Qua tiếp xúc gần gũi, qua những lần thầy trò tâm sự, Sư Cô cho biết:

– Sư Cô rất thương mến GĐPT. Như thời gian qua Chú về lại chùa, Chú Nguyên Hoàng đã thấy rồi đó, những buổi về chùa sinh hoạt, Ban Huynh Trưởng xem quý Chư Ni như người xa lạ, có bao giờ vào gặp gỡ – chào hỏi – trao đổi thân tình.

Có lẽ Ban Huynh Trưởng thiếu tinh thần Thân Cận Xứ, nên các em GĐPT đành phải mất trắng – lủi thủi mồ côi.

Trước tình hình GĐPT tại đây èo uột – thiếu sức sống, Phân ban GĐPT xâm nhập lấn áp phá rối. Năm 2010, Ban Hướng Dẫn điều động chúng tôi về đây GĐPT Khánh Hiệp, thị xã Lagi, Bình Thuận củng cố lại đơn vị. Sau khi anh Liên Đoàn Trưởng từ trần, tôi tiếp nhận một đơn vị sinh hoạt lèo tèo chỉ có hơn 10 em. Chúng tôi cố gắng củng cố phục hồi sinh hoạt lên dần 5, 6 chục em. Trước đây, vào các ngày lễ, nhà bếp không cho các em ăn cơm, các buổi chiều Chủ nhật sinh hoạt, không cho các em vào uống nước. Thầy không thường xuyên ở chùa, Ban Hộ Tự lấn át, đạo tràng tách ra riêng tư. Chùa mất đoàn kết, chia ra làm 2, 3 phe nhóm. Khi chúng tôi về đây thì khác, hằng đêm tôi về chùa, các đạo hữu Nam trí thức dần hồi về chùa lại, trong đó có cả giáo viên, có đêm lên đến trên 20 người, cùng nhau uống trà đàm đạo – hướng dẫn Thiền tập. Có lúc vì lý do công việc, chúng tôi vắng đến chùa, thì chùa trở lại vắng teo. Có đêm tôi về lại chùa, thì Bác Ban Hộ Tự vội vàng nhấc máy gọi báo từng người một: Có anh Tâm về chùa, mau mau gọi nhau lên chùa. Thế là anh em lần lược lại về chùa, làm cho không khí ngôi chùa rộn rã – vui tươi hẵn lên. Chúng tôi gắn kết các nhóm lại với nhau, tuy bằng mặt – nhưng không bằng lòng. Còn GĐPT thì được quý bác ưu ái thương yêu. Các ngày lễ, GĐPT được ưu tiên hai dãy bàn dài đầy ắp thức ăn – thức uống đặc biệt, các ngày chủ nhật sinh hoạt, quà bánh – nước giải khát được quý cô trong đạo tràng gửi đến ăn – uống thừa mứa.

Vì Thầy không thường xuyên có mặt ở chùa, chúng tôi không trình bày được kế hoạch – thống nhất thực hiện chúng – vức cư sĩ Phật tử. Chúng tôi lên kế hoạch phát triển đơn vị. Chúng tôi xuống tận dưới làng, vận động bà con về chùa. Chúng tôi gặp quý Bác đạo hữu, trong đó có Huynh trưởng và Đoàn sinh kỳ cựu trước đây. Trước đây vì tranh chấp ảnh hưởng hơn thua, bị Ban Hộ Tự đương nhiệm đang nắm quyền hành trong tay, cấn cái – xem thường – ruồng rẫy đẩy đuổi ra khỏi chùa. Các Bác và các Huynh trưởng – Đoàn sinh kỳ cựu, đề nghị chúng tôi thành lập Ngành Thanh, họ sẽ kẻo cả dân làng về hết gia nhập GĐPT, còn con em thì tùy vào lứa tuổi mà vào các Đoàn. Hởi ôi ! Nếu tôi mà đồng ý, thì chùa trở thành một bãi chiến trường, đấu tranh khốc liệt, một còn – một mất.

Vào dịp lễ Phật Đản, Thầy mời họp để phân công phụ trách ngày lễ. Oái oăm thay, Thầy không giao cho các Bác Ban Hộ Tự, mà đề nghị thẳng chúng tôi thủ chương trình, tôi vô tình nhận điều hành buổi lễ. Ngờ đâu vì tự ái, bị Thầy xem thường, nghĩ rằng tôi hớt tay trên, làm danh dự mấy bác mất mặt. Một cuộc chiến tranh lạnh âm thầm diễn ra. Vì bảo vệ tôi, đạo tràng lại tách ra, đấu võ mồm tay đôi với nhau kịch liệt. Chúng tôi vào đề nghị Thầy chủ trì xử lý vụ việc, nhưng thầy lúng túng, không biết phải ngã về bên nào. Vì mong muốn để cho Thầy được yên tĩnh, vì mong muốn để cho ngôi chùa được êm ấm, chúng tôi đành phải chấp nhận lui về. Còn ở đó thì 2 phe cứ tranh chấp với nhau diễn ra âm ỉ mãi mãi. Còn một phe ở dưới làng, thì âm thầm chực chờ thời cơ bộc phát ./-




Duyên Trần Còn Vương

Duyên Trần Còn Vương

Chúng tôi, những người cư sĩ tại gia cùng nhau đứng ra lập thủ tục di dời chùa cũ lên đồi cao, xây dựng chùa mới. Chùa xây dựng xong, thiếu vắng bóng dáng Tăng già, thiếu người lãnh đạo tinh thần. Thầy có trình độ học vấn cao – thâm Nho – giỏi tiếng Anh – tiếng Pháp, sau 1975, vì lý do thời cuộc Thầy ẩn tu tự lao tác sinh sống tại một hốc núi hẻo lánh vắng vẻ xa lánh chốn thế sự trần ai nhốn nháo. Ba lần chúng tôi đưa đoàn đến biệt thất đảnh lễ cung thỉnh Thầy về Trụ trì, thấy được tâm thành, Thầy hoan hỷ hứa khả cùng chúng tôi về chùa. Có Thầy, chúng tôi tiến hành dựng thêm một căn nhà dài – vách ván – mái lợp tole, căn cuối làm nhà trù (nhà bếp), phòng thọ trai (phòng ăn), Đoàn quán GĐPT, phòng chúng rộng lớn – dành cho các điệu (chú tiểu) học tập – sinh hoạt – ngủ nghỉ, phòng tiếp khách và phòng Thầy Trụ trì. Thương Thầy – thương chúng, những đêm – ngày gió bấc – mưa tầm tả, mưa luồn vào khe hở vách ván lạnh căm.

Chính quyền CS không ưa tôn giáo, luôn luôn dè chừng – làm khó dễ các sinh hoạt tôn giáo. Thầy mới về Trụ trì, nên được chính quyền địa phương khá quan tâm. Con của một ông cựu cán bộ cách mạng tại địa phương được cài vào làm Trưởng Ban Hộ Tự, không thân thiết với Thầy lắm. Lúc bấy giờ, tôi là Liên đoàn trưởng cùng anh chị em GĐPT luôn luôn kề cận bên Thầy – ủng hộ Thầy, khi Thầy cần là có mặt ngay. Tôi cận sự bên Thầy, giúp Thầy tổ chức – điều hành các khóa tu học Bát Quan Trai một ngày – một đêm hằng tháng cho Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT và cư sĩ Phật tử. Có lần anh CA an ninh đến chùa, Thầy đi phật sự xa, tôi mời anh vào phòng khách, qua câu chuyện thăm dò, anh lý luận về tôn giáo – Phật giáo với mớ hiểu biết nông cạn – thiển cận – một chiều theo xu hướng XHCN, tôi vận dụng kiến thức Phật học phản biện, các chú tiểu phòng bên nghe được vỗ tay hưởng ứng, anh hổ thẹn lúng túng chuyển qua câu chuyện khác – xin phép ra về.

Thầy có nghiên cứu – hiểu biết thuật số – tử vi – phong thủy. Những lần Thầy trò đèo nhau trên chiếc Honda đi phật sự, có lần chạy theo lối mòn qua các đồi núi, Thầy cho xe dừng lại, Thầy chỉ cho tôi những khe núi – dòng thác, hướng dẫn giảng giải về phong thủy, nhưng tôi thì không ưa thích môn này, Thầy biết vậy nên sau này thôi không nói đến nữa.

Thầy hiểu biết cảm nhận về tâm linh: Chị Đoàn trưởng đoàn Thiếu Nữ, có cha là cán bộ cách mạng, đang lâm trọng bệnh hấp hối, chúng tôi gọi điện thoại cho Thầy, Thầy bảo Thầy đang phật sự xa, Thầy dặn dò nên phân công người nhà túc trực bên Ông, tổ chức niệm Phật cho Ông nghe – để lòng được nhẹ nhàng thanh thảng. Thầy còn cho biết trước, đến giờ phút lâm chung Ông không nhìn thấy được mặt một ai bên mình, đến lúc này Thầy mới về đến nơi. Mọi người thân trong nhà ai nấy đều không tin lời Thầy, vì con cháu đông luôn luôn túc trực bên Ông. Nhưng đúng như lời thầy nói, đến khuya ai nấy đều cảm thấy đói bụng, nghĩ rằng chỉ rời đi trong chốc lát có lẽ không sao. Tất cả rủ nhau sang Cantine bên hông bệnh viện. Khi vào phòng bệnh kiểm tra lại, thì Ông đã qua đời, vừa lúc Thầy cũng vừa đến nơi. Một lần khác, có một Phật tử lớn tuổi đang hấp hối, chúng tôi báo cho Thầy, vì lý do phật sự Thầy chưa đến được, Thầy bảo tôi đưa Ban Hộ Niệm đến tư gia trước, tổ chức niệm Phật và hướng dẫn người nhà chuẩn bị các điều kiện – thiết trí bàn Phật, đúng giờ phút lâm chung là Thầy có mặt. Y như rằng, cụ Ông vừa trút hơi thở cuối cùng là có mặt Thầy. Có lần hai bác sĩ đến thăm Thầy, vừa thấy mặt, Thầy vụt hỏi, khi đi có ba vị, sao khi đến đây chỉ còn hai vị. Hai vị bác sĩ ngạt nhiên, vì không báo trước khi đến thăm Thầy, trên đường đi, một anh nhận được tin đột xuất nên đã xuống xe quay trở về.

Khi chùa đào giếng lấy nước, Thầy dẫn chúng tôi đi quanh vườn chùa, Thầy nói, không chọn nơi nào được vì những nơi đó không có mạch nước. Đến bên hông chánh điện, thầy nói, chùa chúng ta thì ở trên đồi cao, đào giếng nơi này thì có mạch nước rất mạnh. Nhưng nếu chúng ta đào giếng ở đây thì chận hết mạch nước, các nhà phía dưới chân đồi sẽ không có nước để mà mà sử dụng. Thầy lại đưa chúng tôi đến bên hông nhà trù, Thầy chỉ tay vào một tản đá, chúng ta đào giếng tại đây, khi đào xuống trên mười mét sẽ bắt gặp một tản đá cũng khái lớn nằm ngang, chúng ta cố gắng lấy tản đá đó lên thì gặp mạch nước ngầm …

Vào dịp Tết Nguyên đán năm 2000, tôi về thăm lại chùa xưa – thăm Thầy cũ. Thầy cũng từ Anh Quốc mới về. Thầy trò lâu ngày gặp nhau, mừng mừng tủi tủi, ôn lại kỷ niệm xưa. Thầy ngỏ ý muốn tôi về với Thầy, cùng Thầy đi các địa phương xây dựng chùa – thành lập đạo tràng. Theo lời Thầy, tôi có năng khiếu tổ chức – vận động – tập hợp quần chúng – ngoại giao về mặt chính quyền. Và cũng theo lời Thầy, số của Thầy sẽ thu nhận được trên hai mươi đệ tử. Là trách nhiệm làm cha – làm mẹ phải chăm lo nơi ăn chốn ở cho con cái, Thầy phải xây đựng nhiều chùa dành cho nhiều đệ tử sau này. Hứa lời Thầy, tôi về xắp xếp công việc gia đình riêng, vội vàng khăn gói lên với Thầy. Thầy trò chúng tôi đến khu rừng thông – mảnh đất đầu đèo mà người dân địa phương hiến cúng trước đây, chúng tôi tập hợp đồng bào Phật tử địa phương, được sự thống nhất nhiệt thành hưởng ứng, chúng tôi tất bật tiến hành làm thủ tục – làm lễ đặt đá mở móng xây dựng ngôi chánh điện. Sau ba tháng – công trình còn đang dang dỡ. Không biết nghe lời mẹ như thế nào, các con của tôi, cả ba đứa đều lần lượt lên gặp tôi khóc lóc – các con nhớ ba – xin ba về lại gia đình. Van xin tôi không được, chúng đến phòng phương trượng gặp Sư phụ khóc lóc van xin cho ba về. Động lòng trước sự thiết tha của các con, Thầy “đuổi” tôi về. Nếu không vì nghiệp duyên trần tục ràng buộc nặng nề này, có lẽ giờ đây tôi đã xuất gia trên hai mươi năm./-

Lam Nhã Thảo Am, 02102567 – 14112023




MỘT CHUYẾN ĐI XA

MỘT CHUYẾN ĐI XA

Cái xám ngắt của bầu trời, cái lạnh lẽo của đất trời đã làm thấm lạnh vào lòng tôi với nỗi nhớ quê hương da diết. Ra đi là bỏ lại sau lưng tất cả, nào những người thân yêu nhất với biết bao nhung nhớ ngập lòng, nhứt là cả một tổ chức Gia Đình Phật Tử (GĐPT) rộng lớn, mà người Huynh Trưởng (H.Tr) phải có trách nhiệm lo toan gánh vát sứ mệnh trên vai. GĐPTVN quốc nội đang rơi vào thảm cảnh xé lòng. Đã trên ba mươi năm (kể từ sau năm 75), các anh – các chị trưởng bối cao niên của chúng ta, chưa có được một ngày ngơi nghỉ, lúc nào cũng bôn ba nặng trĩu lo toan, với dẫy đầy gian nan thử thách. Nhìn thấy các anh các chị mà chúng em bồi hồi thương cảm vô cùng. Thế mà bây giờ lại thêm ma chướng, với nỗi bức xé dày vò làm xót xa đau nhói những tấm lòng của những người H.Tr có lương tri, có tâm huyết, có trách nhiệm với tiền đồ tổ chức – đạo pháp – dân tộc. Vết thương khủng hoảng do những bàn tay nham nhúa dẫy đầy tham vọng nào đó, đã nỡ đành đang tâm dằn xé, tạo cảnh phân ly, biết đến bao giờ mới hàn giắn lại vết thương đau nhứt nhối.

Đứng trước thảm cảnh đau lòng này, tôi cảm thấy sự ra đi của mình là chối bỏ phủ phàng một trách nhiêm thiêng liêng cao qúi của người H.Tr GĐPTVN. Là một kẻ thua cuộc – chiến bại – đầu hàng, tự ý rời bỏ chiến hào, rời bỏ hàng ngủ, phó mặc cho biết bao chiến hữu thâm tình đang tĩnh tại tắm lửa xối dầu, đối đầu trước nghịch cảnh khói lửa gian nan !

Có những người thật ngây thơ, tự đặt câu hỏi. Tại sao GĐPTVN không đăng ký, không hòa tan vào các tổ chức GĐPT tự phát để có pháp lý. Tại sao GĐPTVN chính thống không biết nghe lời … để được bảo trợ ? Thật là oái oăm đến nực cười ! …

Ngày xưa, tại một đại tòng lâm. Có một con rắn chúa, cùng với bày đàn tinh khôi của mình, đoàn kết xúm xít bên nhau giữa bảo đời khắc nghiệt để bảo vệ đại tòng lâm – bảo vệ chăm chút đàn em thơ dại của mình. Không biết từ đâu, một cái đuôi, rồi thêm hai – ba cái đuôi khác ngoan cố tự phát mọc ra. Mỗi cái đuôi đều bướng bỉnh với lý lẽ kiến chấp riêng tư, rồi bắt buộc – rồì áp đặt rắn chúa phải theo hướng đi cuồng tín – nô dịch riêng lẻ của mình. Nhưng rắn chúa với tinh thần tự tại và cặp mắt tinh nhuệ đong đầy tuệ giác, với tấm lòng mẫn ái vì bày đàn, vì đàn em thân yêu, đã nổ lực lãnh đạo – hướng dẫn chân thân đi đúng chánh đạo. Thế là mỗi cái đuôi lại ngoe ngoảy tách rời thân mẹ, lẻ loi độc hành tả đạo. Không biết rồi mai này, với cái đuôi củn cởn thiếu đầu – thiếu mắt ấy sẽ đưa nó đi về đâu, và đến với hầm lửa tự hủy diệt nào, thật tội nghiệp đáng thương !

Các tổ chức GĐPTVN từ đơn vị cơ sở thôn – ấp, xã – phường đến huyện – thị, tỉnh – thành phố, là một đơn bào trong một tập hợp đại thể. Đã tự đặt mình dưới sự chỉ đạo của Ban Hướng Dẫn Trung Ương (BHDTƯ). Tự thân nổ lực vân động – định vị hướng đi của mình sao cho nó song song đồng hành – sát cánh cùng với BHDTƯ. Trong tình hình này, phải tự mình xắp xếp – xác định và giữ vững lập trường – trung kiên trước sau như một, không phải trông chờ ở sự hà hơi tiếp sức. Phải đồng lòng từ tiếng hô “Quyết tiến” tại hội nghị Diên Hồng mới viết nên lịch sử vẻ vang. Là Huynh trưởng GĐPT Phật tử Việt Nam (HTGĐPTVN), ai ai cũng có trách nhiệm trước lịch sử – trước tiền đồ của tổ chức. Nếu ở mỗi con ong tự thân thiếu cần mẫn chăm chỉ thì tổ ong khó mà hình thành để trao lại cho đời vị ngọt thơm ngon.

Tự thân mỗi HTGĐPTVN tự giác phát huy nội lực để tạo nên khí thiêng cho tập thể lớn mạnh. Đây là cái đức tính truyền thống cao qúi tối ưu vốn có đã được thử thách – hình thành từ lâu đời của tổ chức GĐPTVN. Chúng ta hãy nghiên cứu thật kĩ lại quá trình hình thành GĐPTVN sẽ thấy rỏ ở điểm son nổi bật kì vĩ này, mà không phải ngồi ì chê trách – than thở – vòi vĩnh – đòi hỏi ở một ai ! Nếu một cá nhân mà bỏ ra riêng lẻ độc hành, thì nó trở nên vô nghĩa – vô vị. Nhưng cũng một cá nhân ấy nếu biết tận dụng khả năng vị tha – bản lĩnh kì vĩ của mình, tận tụy cống hiến cho tổ chức thì nó có ý nghĩa vô cùng to lớn, lịch sử không thể nói là khó làm nên được, và lịch sử cũng sẽ trân trọng ghi nhận công đức qua nghĩa cử cao qúi này. Những ngụ ngôn xưa đã dẫn chứng : – Một cây làm chẳng nên non – ba cây chụm lại thành hòn núi cao, hay một bó đủa khó bẻ gãy, hoặc là trăm tay vỗ nên kêu, hơn nữa: … Một cây không thành – trăm cây không thành – ngàn cây hóa non xanh … – tất cả đều nhờ vào công đức, sự cộng lực vững chãi, mới tạo nên một tập thể to lớn. Cho nên cái cá tính vị kỹ – tâm lý hẹp hòi hèn mọn – nhỏ nhen – xem thường kẻ khác – tự cao – tự đại – ngã mạng, tự cho mình là trung tâm của vũ trụ, sẽ làm ngu dốt bản thân, hạn chế sự phát triển và sức sống vươn lên của tổ chức, vô tình tự đẫy mình vào hầm lửa hủy diệt.

GĐPTVN là một tổ chức Phật giáo truyền thống, có một quá trình lịch sử vàng son trên bảy mươi năm, luôn luôn trung kiên – là lực lượng hậu duệ, cặm cụi góp nhặt cảo thơm, bảo vệ – xây dựng làm trường tồn – quang huy đạo pháp. Là phong trào dẫn đầu trong công cuộc thống nhầt dân tộc – đạo pháp. Nỗ lực vận động – chấn hưng – tập hơp GĐPTVN trong nước và trên thế giới – tiến tới hình thành GĐPT thế giới. Trong khi đó còn có quá nhiều trưởng tử Như Lai – con Hồng cháu Lạc đã hợp sức – đồng tình cùng với ma vương, các thế lực vô minh phá gia chi tử, làm phân hóa – rệu rã, tạo cảnh nồi da xáo thịt – chia cắt – dằn xé đau lòng, lọt thõm đúng vào vòng kim cô đã được các nhà phù thủy chính trị giăng bẫy đặt hờ đón sẵn, làm trò cười cho ngoại nhân hỷ hả.

GĐPTVN chưa bao giờ được yên ổn – được hưởng vị ngọt thanh bình. Trãi qua hai triều đại, cộng hòa hay cộng sản. GĐPTVN đều nếm trãi biết bao cay đắng ngập lòng, từ nội ma lẫn đến ngoại chướng. Hướng đến cái thiện sao mà khó khăn đến vậy !

Cái đau đớn – nhức nhối – nhục nhằn về tinh thần của hàng ngũ Lam viên cũng không phải là ít. Toàn thể HTGĐPTVN đã phải vận dụng trí tuệ thật cao độ để được tồn tại, lắm lúc cứ tưởng chừng như đã đột quị – rệu rã, nếu không có tinh thần tĩnh tại, ý chí kim cương – vô úy thù thắng, có lẽ đã không giữ vững đến ngày hôm nay.

GĐPTVN là một tổ chức giáo dục, chọn gáo lý Phật đà ưu việt – tối thượng làm phương châm tu học – đào luyện để hướng thiện nhân cách mới chân chánh, đào tạo nên một thế hệ mai sau trở thành một người công dân gương mẫu – một bậc hiền tài lỗi lạc phụng sự xã hội theo tinh thần Phật giáo thù thắng, góp phần làm cho nền văn hóa dân tộc ngày càng thêm tiến triển phong phú vẽ vang cho đất nước thêm hơn.

GĐPTVN không phải là một tổ chức tôn giáo, mọi giáo điều khó thể áp đặt lên đời sống người Phật tử (PT) mới chân chánh. Người HTGĐPTVN có một đời sống phóng khoáng – nhân chủ, tự giác – tự do – tự tại, nhờ đó mà tìm lực được tìm ẩn bất biến. Khi thị hiện thì sóng dựng triều dâng như hải triều âm bất tận, khi tiệm tu thì tĩnh tại yên bình như mặt nước hồ Thu hiền hòa tươi mát tưới tẩm yêu thương – lợi lạc quần sinh.

Hỡi những Lam viên ! từ thuở ban đầu chập chững bước vào tổ chức GĐPTVN, chúng ta đã được giáo dục tu học qua các bậc học, được đào luyện qua các kỳ trại, từ những vòng tay từ ái đầy uy đức đạo hạnh khả kính của các anh chị H.Tr niên trưởng. Như người lái đò chăm chỉ, các anh các chị không nề hà nản mỏi, đã cặm cụi chuyển tải cho chúng ta được trưởng thành qua biết bao chuyến đò thăng tiến từ bấy đến nay. Như người làm vườn, các anh các chị của chúng ta đã cần mẫn chăm chút gọt tỉa, tạo nên cho chúng ta những thân cành tươi thắm. Chúng ta đã từng “co quắp ôm nhau ngủ dưới lều trăng” , cái hình ảnh đong đầy cảm xúc qua các kỳ trại, cái ấn tượng thiêng liêng trong các khóa lễ phát nguyện truyền đăng luôn luôn hâm hấp trong mỗi lòng người H.Tr, có dễ gì làm suy chuyển – mai một trong dòng xác na sinh diệt.

Hỡi các anh – chị – em Áo Lam trong cùng một dòng máu lam hiền, đã từng cùng nhau sát cánh – chung lưng đâu cật trong những năm tháng tắm lửa xối dầu để có được sự vững vàng. Cái kết quả có được hôm nay, được xây dựng bởi cả máu và nước mắt trung kiên từ tự thân của mỗi người PT Áo Lam mà có. Đứng trước tình hình hiện nay, chúng ta cần phải đoàn kết – siết chặt tay nhau chặt chẽ hơn nữa, chung sức chung lòng bảo vệ lý tưởng Nhà Lam thiêng liêng kỳ vĩ đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì không ai thương ta bằng ta thương lấy chính mình. Đừng bao giờ vô tâm – thui chột để dễ dàng bị rơi vào cạm bẩy, tạo kẻ hở để cho ngoại nhân phù phép với những lời hứa hẹn sắc tướng loè loẹt hư huyển, phản bội tổ chức – gà nhà bôi mặt đá nhau. Không thể vì một vài cá nhân mà vội vàng đánh giá – quay lưng với cả một tổ chức lớn mạnh. Là một H.Tr – Đoàn viên (ĐV) – Đoàn sinh (ĐS) GĐPTVN phát nguyện trung kiên – chọn GĐPTVN làm pháp môn tu học, làm lý tưởng phụng sự, nếu có nhu cầu hoạt động ngoài tổ chức, thì phải thông qua ý kiến của tổ chức – của Ban Hướng Dẫn Trung Ương (BHD.TƯ). Nguyện hứa với lòng, luôn luôn tự giác tuân thủ, bảo vệ Nội Quy – Quy Chế H.Tr GĐPTVN, chấp hành sự lãnh đạo sáng suốt – tài tình của BHDTƯ.

Nội Quy – Quy Chế GĐPTVN do biết bao trí tuệ, trong đó có cả xương – máu – nước mắt – mồ hôi của biết bao thế hệ H.Tr – ĐV – ĐS GĐPTVN xây dựng – bảo vệ nên và đã được GHPGVNTN trước năm bảy lăm phê chuẩn. Nếu có ý kiến cần thiết phải sửa đổi – tu chỉnh lại cho phù hợp với tình hình phát triển toàn cầu hiện đại, thì phải qua đại hội GĐPTVN mới có đủ tư cách – thẩm quyền sửa đổi. Chương 5 – điều 19 Nội Quy GĐPTVN đã ghi rỏ. Không ai có đủ quyền hạn áp đặt – tự ý sửa đổi – phá vỡ – làm trái ngược Nội Quy – Quy Chế GĐPTVN hiện có khi chưa được thông qua đại hội, thì người đó đã phản bội, chà đạp tự do dân chủ, trở mặt với tổ chức GĐPTVN quốc nội cũmg như trên thế giới.

Nhưng tìm lực của GĐPTVN trong lúc này không suy yếu. Cứ mỗi lần có cuộc phong ba, đứng trước nghịch cảnh thử thách, đối đầu với nghiệt ngã trái ngang, thì GĐPTVN lại càng đoàn kết chặt chẽ, vững vàng thêm hơn. Như đứa con ngoan hiền, GĐPTVN vẫn luôn luôn trung kiên, và sẵn sàng hy sinh vì đạo pháp, vì dân tộc vinh quang.

Đứng trước tình hình nghiệt ngã, diễn biến phức tạp đầy thử thách cam go này. Nhưng con đường chánh đạo của chúng ta đang đi – của GĐPTVN chính thống, do BHDTƯ lãnh đạo là đúng. Trong giai đoạn thử thách đầy cam go nghiệt ngã cao độ này, không biết sẽ diễn biến đến đâu, hay chuyển bước qua khúc quanh lịch sử như thế nào. Mỗi người H.Tr – ĐV – ĐS GĐPTVN cần phải cẩn trọng – tỉnh táo – tuệ giác, sẵn sàng gánh vát gian nan đi lên bằng nguyện lực vô úy kiên cố – ngũ trược ác thế thệ tiên nhập – Phát đại nguyện tu hạnh Duy Ma Cật để chờ đợi và sẵn sàng cho một bước tiến mới …

Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có … , có cuộ̣c sống tục đế – đi lên bằng con đường đạo hạnh đại bi Bồ tát, thể nhập trí tuệ siêu việt – tính không – bất nhị ̣̣- ly ngôn thuyết, không giải bày bằng ngôn ngữ phiền não – kiến chấp đạ̣o đoạn, mà bằng tri kiến im lặng – một lập trường phương tiệ̣n thiện xảo. Im lặng ở đây không phải là không hiểu, không diễn đạt được, mà là diễn bày một ngôn ngữ tuyệt đỉnh – một sự im lặng sấm sét bất khả tư nghị – mặc như tôi.

Qua kinh Duy Ma Cật, cho chúng ta thấy cư sĩ và tăng sĩ đều có chung một mục đích đại nguyện như nhau, cùng đi lên trên con đường trọng yếu là tiến đến giác ngộ – giải thoát hoàn toàn.

“Thoát khỏi thế gian không phải là xuống tóc, là dồn hết sức lực để phá tan sự đam mê của mọi chúng sinh. Không phải một mình tuân theo giới luật, nhưng chối bỏ sự đức độ trong thanh tịnh an lành. Không phải là thiền định trong sự yên lặng của rừng thẳm, nhưng ở lại trong cơn xoáy lốc của luân hổi, và dùng trí tuệ cùng những phương tiện thiện xảo để độ chúng sinh tràn đầy phật pháp”.
(Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – Vimalakirtinirdesa).

Wayne – New Jersey, 30/12/2007.