Tri thức vốn có hôm nay, cứ ngỡ rằng giỏi giắn – tài ba hơn người. Đâu có ngờ rằng, ngoài công đức sinh thành như trời biển bao la, sự nuôi dưỡng gian lao – tận tình dạy bảo của Mẹ – Cha. Ngoài những nỗ lực vật vã dùi mài kinh sử – thu nhặt được từ sách vỡ – Thầy Cô – bạn bè theo năm tháng mài đũng quần trên ghế trường đời – cộng đồng xã hội, chúng em đã tinh tấn – tích cực tu học. Nhờ công đức giáo dưỡng của Chư tôn đức Tăng – Ni, của quý Anh – Chị đi trước hướng dẫn, nâng niu dìu dắt từng bước chân đi, chăm chút tài bồi – truyền tải tri thức – vun xới – gọt tỉa – uốn nắn thân cành – làm mới, để cho chúng em mỗi ngày thêm được lớn khôn.
Biết bao năm tháng thanh tĩnh dưới mái chùa thân yêu chở che hồn dân tộc, trãi qua biết bao bậc học. Tính từ thuở ngành Đồng Oanh vũ: Mở mắt – Cánh mềm – Chân cứng – Tung bay. Rời tuổi thơ ngây, chúng em lên Đoàn – ngành Thiếu, được tiếp cận các bậc tu học: Hướng thiện – Sơ thiện – Trung thiện – Chánh thiện.
Đến tuổi trưởng thành, bước lên ngành Thanh ‘Nam – Nữ Phật tử’: 4 năm bậc Hòa – bậc Trực.
Rồi dần bước lên cao hơn nữa, ngành Huynh trưởng:
• Bậc Kiên – BHD GĐPT Lâm Đồng, năm 1995.
• Bậc Trì – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 1996.
• Bậc Định – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2004
• Bậc Lực – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2015 và bậc Lực BHD.GĐPTVN tại Hải Ngoại, năm 2016.
Trải qua các trại huấn luyện:
• Sơ cấp Lộc Uyển – BHD GĐPT Lâm Đồng, năm 1995.
• Cấp một A Dục – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 1996.
• Cấp hai Huyền Trang – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2004.
• Cấp ba Vạn Hạnh – BHD.GĐPTVN tại Hải Ngoại, năm 2016.
• Huấn luyện viên Phú Lâu Na – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2005.
Cấp đã thọ:
• Cấp Tập – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2002.
• Cấp Tín – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2008.
• Cấp Tấn – BHDTƯ.GĐPTVN, năm 2020
Giới đã thọ:
• Quy y Tam bảo, năm 1970, pháp danh: Nguyên Hoàng.
• Thọ Thập thiện giới, năm 2005, pháp tự: Viên Đăng.
• Thọ Bồ tát giới tại gia, năm 2011, pháp hiệu: Minh Kiên.
Nhiệm vụ đảm nhận:
• Liên đoàn trưởng GĐPT Đại Giác – Bảo Lộc – Lâm Đồng, năm 1989 – 1995.
• Liên đoàn trưởng GĐPT Đạt Ma – Phan Thiết – Bình Thuận, năm 1996 – 2003.
• Liên đoàn trưởng GĐPT GĐPT Khánh Long – Lagi – Bình Thuận, năm 2004 – 2007.
• Phụ tá Gia trưởng GĐPT Bồ Đề – Philadelphia – Hoa Kỳ, năm 2007 – 2009.
• Liên đoàn trưởng GĐPT Khánh Hiệp – Lagi – Bình Thuận, năm 2010 – 2016.
• Thư ký Ban Đại Diện GĐPT Bắc Bình Thuận, năm 1996 – 2003.
• Thư ký Ban Đại Diện GĐPT Lagi – Bình Thuận, năm 2010 – 2021.
• Phụ tá Ủy viên Oanh vũ nam BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2002 – 2007.
• Phụ tá Ủy viên Nghiên huấn – BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2010 – 2022.
• Phụ tá Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2010 – 2011.
• Phó Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2012 – 2022.
• Tổng thư ký BHD GĐPT Bình Thuận, năm 2022 – 2023.
• Phụ tá ngành Thiếu nam BHDTƯ GĐPTVN, năm 2012 – 2016.
• Cộng tác viên tập san Sen Trăng GĐPTVN, năm 2002 – 2020.
• Công tác viên truyền thông trang nhà GĐPTVN trên Thế giới, năm 2011 – 2020.
– Tham dự Đại hội GĐPTVN trên thế giới 2 lần: Năm 2022 và năm 2016.
– Biên tập Sáng tác hàng trăm tác phẩm thơ – văn về Đạo pháp – GĐPT và văn chương:
• Bộ Gia Đình Phật Tử Những Đoạn Trường Trải Quan, 3 tập – dày 1.826 trang (mang tính lịch sử Đạo pháp – GĐPT – và dân tộc).
• Tuyển tập văn Nguyên Hoàng-Phan Văn Huy Tâm
• Hồi ký cuốn theo chiều gió
• Thi Tập Nguyên Hoàng-Phan Văn Huy Tâm
Qua các trại huấn luyện, em được phát nguyện làm Huynh trưởng. Buổi lễ truyền đăng thiêng liêng, làm cho chúng em ai nấy nao nao dâng trào bồi hồi cảm xúc. Chúng em mỗi người trên đôi tay một cây nến, ánh nến lung linh theo tiếng vọng từ bóng đêm truyền về – đánh thức mê vọng từ lâu mãi mê ngã ái, lương tri bừng sáng, chối từ vị kỷ hèn mọn, phát nguyện dấn thân: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”. Mỗi cây nến truyền đăng còn lại qua các kỳ trại huấn luyên – tôi vẫn còn lưu giữ mãi đến hôm nay, để mãi mãi khắc ghí nhớ hoài một thời – nhớ hoài những giây phút thiêng được trưởng thành – được lớn khôn thêm.
Đến hẹn lại lên, hằng năm tích cực tham gia các cuộc: Hội thảo – hội ngộ quanh đèn – các kỳ trại lễ – trại truyền thống – bồi dưỡng – chuyên năng – dã ngoại – giao lưu… từ địa phương đến toàn quốc, và cứ mãi miết như thế cuốn hút tuổi hoa niên. Bên ánh lửa trại lưu luyến còn sót lại – hay dưới lều trăng lộng gió, chúng tôi trao cho nhau từng cuốn lưu bút tình lam – ghị lại cho nhau biết bao cảm xúc thân thương, để rồi sau mỗi kỳ trại:
“Tay cách xa nhưng tim không xa
“Gan thép ta chia tay đừng buồn !…”
Để rồi mỗi lần giở lại từng trang lưu bút “Vui tươi ta biết trong lòng nhớ lòng!…”
Dưới mái lều chan hòa ánh trăng, chúng tôi lại gối tay nhau “thức trọn đêm nay…” để mà tâm sự – trao đổi kiến thức Phật pháp, khuyến khích nhau tinh tấn sinh hoạt – tâm huyết hy hiến phụng sự tổ chức, sách tấn nhau Tâm Bồ Đề kiên cố – dũng tiến trên đường đạo. Hứa hẹn với nhau cố gắng gìn lòng son sắc, gắn bó – giữ vững niềm tin tổ chức GĐPTVN, hẹn gặp lại nhau trong những kỳ trại giao lưu kế tiếp. Tiếc rằng cũng vì chiến tranh, sau những lần di tản, những cuốn lưu bút ghi lại biết bao dấu yêu ngày nào đã thất lạc đi theo năm tháng.
GĐPT là một tổ chức giáo dục, một trường học duy tuệ giữa đời thường. Muốn thành toàn sứ mệnh cao cả, là chuyển hóa để hoàn thiện nhân cách, thì phật sự quan trọng – tối cần thiết là mối quan hệ – gắn kết keo hồ giữa GĐPT với gia đình riêng – học đường và xã hội không phải là một sinh hoạt mới mẻ. Là một H.Tr có tay nghề tinh chuyên, biết ứng dụng sinh hoạt này trong hành hoạt trưởng dưỡng – trồng người, tiếp cận – gần gũi, mở rộng vòng tay nhân ái, hiểu biết từ sâu thẳm tâm tư, thẩm thấu tình người, thì sứ mệnh truyền đăng thành toàn thù thắng.
Trong quá trình tu học qua các bậc học và chịu huấn luyện qua các kỳ trại, tổ chức đã tài bồi – truyền trao cho mỗi nhân thân Huynh trưởng, để trở thành một tay nghề tinh chuyên – thù thắng, một đạo đức xả kỷ – vị tha, biết gát mình qua một bên, mà vì đàn em thân yêu – vì tha nhân mà phụng sự.
Sau thời gian rời đất trại, Huynh trưởng tự biết miệt mài cầu học thêm hơn, không nề hà nản mỏi, để được nâng cao tay nghề, làm giàu thêm vốn sống. Không dậm chân dừng lại buông rơi, biết nhìn lại thân phận lau sậy hèn mọn, không mãi mê mơ ngủ. Với cái vốn liếng kiến thức hạt cát bé mọn, giữa sa mạc mênh mông, một nấm lá vàng khô, ít ỏi trong lòng bàn tay nhỏ bé, giữa rừng Ta la bạt ngàn xanh mướt.
Người Huynh trưởng hướng đến toàn thiện, luôn cảm thấy chưa đủ, không tự mãn, không đánh mất tự chủ, hụt hẩng – co quắp, phó mặc buông xuôi thoái hóa giữa dòng hiện đại từng giờ từng phút! Luôn luôn hâm hấp hướng về phía trước, cập nhật kiến thức phong phú – đáp ứng thỏa đáng các nhu cầu cấp thiết mà đàn em thao thức mong chờ.
Từ khi cất tiếng khóc tu oa vào đời, phản ứng tự nhiên của các hiện tượng sinh vật lý: Đói khát, đau nhức, nóng lạnh, đã làm cho bé bật khóc. Nhờ vào giác quan, cảm nhận được: Hình ảnh – âm thanh – mùi vị – xúc giác – dễ chịu – sướng khổ – sợ hãi – buồn vui. Trí nhớ nhỏ bé phát triển dần theo thời gian, tích lũy phân biệt, nhận thức được mình là ai, ý thức cái tôi hiện hữu, tương quan xã hội
“Nhơn chi sơ tánh bổn thiện” bản tánh con người sinh ra vốn thiện, nhưng “ Tánh tương cận, tập tương viễn”, tùy vào môi trường sống, sự tiếp thu giáo dục, ảnh hưởng của xã hội, tạo nên nhận thức – ý thức phức tạp. Trôi dài theo năm tháng, trong cái hình hài bé nhỏ, hình thành nên cái tôi cá thể khác biệt, cái bổn tánh thiện thuở ban đầu không còn nữa. Do ảnh hưởng môi trường sống, hình thành tạo nên bản chất:
– Tham: Ham muốn, chiếm đoạt – sở hữu, thỏa mãn cho riêng tôi
– Sân: Nóng giận, dẫn đến bạo lực
– Si: Mê muội, không trí tuệ, không hiểu biết lẽ phải
Y thức bắt đầu hoạt động, là lúc đối mặt đương đầu, đối kháng với thực tại cam go. Từ những ức chế tìm tàng, những bất công vây bủa nghiệt ngã của xã hội, hình thành nên những định kiến – ngã chấp. Tự tạo nên một khuôn mặt, một cá tính, một phong cách lập dị khác. Cảm thấy bị đối sử bất công – đời sống bị đe dọa, dẫn đến bất đồng – bất mãn. Để tự vệ, phản ứng tạo nên những cuộc bùng nổ vùng lên, đập phá – gào thét, để thỏa mãn cá tính điên loạn ngông cuồng tư kỉ. Hoặc dẫn đến tự ti – mặc cảm, buồn chán – khép kín nội tâm. Ngã ái được hình thành, chỉ biết có tôi, tôi là tất cả. Cái tôi vị kỉ tác động lên xã hội, làm xung động tha nhân, nhiễu nhương – bất an toàn xã hội
Để hình thành nhân cách theo chiều hướng xã hội, nhiều chủ thuyết được đặt ra, nhằm mục đích áp đặt – nhồi nhét, chỉ biết hưởng thụ – lãnh cảm trước cộng đồng, biến cái tôi cá thể, mất tự chủ, phục vụ cho cái tôi giai cấp
Giáo dục để hướng tới tiêu chuẩn tối ưu, hình thành nhân cách hướng thiện đạo đức không phải là dễ. Muốn được vậy, nền giáo dục không còn khép kín mang tính kinh viện mù quáng – không thực tại, mà phải đầy đủ tố chất nhân bản tự giác vượt trội, nuôi dưỡng sức sống tự chủ, giữ gìn khí tiết, nẩy mầm vị tha, vươn tới nhân văn cộng động, vận hành – thúc đẩy xã hội thăng hoa vươn lên – hiện đại hóa kiến thức – phát triển tuệ giác siêu việt
Nhân bản là một thế giới quan luân lý giá trị nhân văn, bao dung tự chủ cộng sinh, tự tin vững vàng – mạnh mẽ – sáng tạo. mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật duyên sinh giả hợp. Thao thức – tâm huyết, quyết định dấn thân, đảm trách sứ mệnh đi tìm chân lý trung hòa – ánh sáng đạo đức tương hợp, để phụng sự công ích dân sinh. Bác bỏ hệ thuộc siêu nhiên, chối từ ngoại giới mơ hồ, lý thuyết vong bản vô tưởng. Tập trung nâng cao đặc tính bản chất tìm tàng, khắn khít tình người, tôn trọng phẩm giá – nhân chủ – tự do con người
Muốn hoàn thiện nhân cách, hoàn thiện bản thân. Đến với GĐPT để chọn cho mình một pháp môn tu, nhằm mục đích thanh lọc tam nghiệp, tịnh thân, định ý. Sau khi đã được tự giác, sẽ thực hiện giác tha, để đạt được giác hạnh viên mãn.
GĐPT là một tổ chức giáo dục, muốn hướng thiện được tha nhân, đòi hỏi mỗi nhân thân phải đầy đủ thân giáo, khẩu giáo, ý giáo. Phải là một tấm gương sáng, một nhà mô phạm với đầy đủ đạo đức uy nghi, đủ sức truyền tải nguồn năng lượng Phật chất vô biên vào tận mọi ngõ lòng thâm sâu của mỗi nhân sinh. Kiến thức đâu phải bổng nhiên mà có, đòi hỏi phải hội đủ thời gian để dùi mài, đào luyện. Bỏ tu, bỏ học, bỏ bậc, bỏ trại nửa vời, không có quá trình sinh hoạt lâu dài với tổ chức, thì chỉ có mai một, lạc hậu, làm sao mà đuổi bắt theo kịp với thời gian, làm sao đủ năng lực, đủ bản lĩnh, nhất là làm gì có đủ tinh thần trung kiên, đủ niềm tin son sắc vào tổ chức, đủ nghị lực vô úy để mà lãnh đạo cầm đoàn, điều hành một đơn vị GĐPT sở tại, lội ngược dòng đời, góp phần làm thanh sạch, thiện hóa xã hội.
Huynh trưởng GĐPT nỗ lực tu học, thực tập tinh thần siêu việt Duy Ma Cật, từ đó tỏa sáng sức sống diệu kỳ, mạnh dạn bước vào thế giới tâm linh sinh động, kiến giải, làm toát lên sự trong sáng tuệ giác, hiển bày bản nguyện, nâng cao phẩm giá, hun đúc ý chí, thành tựu thảnh thơi giải thoát đến vô cùng.
“Chư Phật và Bồ tát có pháp giải thoát Bất tư nghì. Khi Bồ tát trụ nơi pháp, đem núi Tu Di (Sumeru) để vào trong một hột cải vẫn không dư không thiếu. Hình dạng núi Tu Di cũng không biến đổi, trời Tứ thiên vương và chư thiên cõi trời Ba mươi ba (Ðao Lợi) cũng không biết là mình vào trong đó. Chỉ những bậc Ứng hợp độ thế mới có thể biết rằng núi Tu Di đã được đem vào trong hạt cải. Ðó là pháp môn Bất tư nghì giải thoát”.
Đạo Phật xuất hiện từ một thực tại vô ngã, từ trạng thái hữu ngã vô minh, đoạn trừ phiền não, thể nhập biện chứng nhân bản, giác ngộ, ngã không, giải thoát. Có, không, còn, mất, hơn, thua. Dù trong nguy khó là vậy, nội ma ngoại chướng vây bủa nghìn trùng. Người Huynh trưởng PT thực tập, tu học, phát nguyện vững chãi, gánh vát gian nan, an nhiên tĩnh tại, vô úy đi tới, giữ vững tay chèo, cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, đưa con thuyền GĐPTVN cặp bến bình yên.
Ngoài trí tuệ và năng lực hiện thực, người Huynh Trưởng thiện tri thức, còn phải có tâm huyết thiết tha, nồng nhiệt. Với cái tâm hết lòng vì tổ chức mà phụng sự, mang lại một giá trị đích thực cho cuộc sống.
“Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.
Người Huynh trưởng Phật tử, là người có đầy đủ kiến thức về cuộc sống, không mụ mẫm trước niềm tin thiếu kiểm chứng. Vào đời với biết bao thao thức, khát khao đi tìm một định hướng sống mới mẽ thiết thực, chuyển hóa tự thân , thăng hoa tốt đẹp cuộc đời.
Người thiện sĩ Huynh trưởng GĐPTVN, vững vàng trong thế đứng thẳng tắp, với tấm lòng vị tha bát ngát vào đời, vì tha nhân mà phụng sự. Chọn tuổi trẻ làm đối trọng để khai thị tuệ giác. Chọn nhân sinh làm nấc thang thăng tiến, kiến thiết một xã hội công bằng an lạc. Mỗi tham vọng, mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm từ dục vọng thấp hèn, từ hận thù nghi kỵ, từ ganh tị hơn thua, xô đẩy nhau đọa đày đau khổ.
Người Huynh trưởng GĐPT biết nhóm lên ngọn lửa thương yêu, đem lại niềm tin yêu và vui sống cho mọi người, xua tan đi mê mờ kiến chấp.
Người Huynh trưởng GĐPT, là người nghệ sĩ biết rung cảm trong từng mỗi suy tư, sáng tạo nên những công trình nghệ thuật vĩ đại, đáp ứng vẹn thỏa những khát khao thưởng thức nét đẹp tâm linh thanh thoát.
Người Huynh trưởng GĐPT, là người biết dóng lên những hồi chuông tự tại ngân dài, như những đợt sóng hải triều âm, làm lắng xuống vạn lòng thanh thoát.
Người Huynh trưởng GĐPT, là một chiến sĩ trên mặt trận tâm linh, một kỹ sư tâm hồn, một thiền sinh đang đối mặt trước thực tại vô minh, thắp sáng trí tuệ. Phải luôn luôn nỗ lực, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng GĐPTVN hướng về phía trước. Không lùi bước khi nhắm vào mục phiêu cứu cánh, không xuê xoa trước những sai trái đời thường, không chùn bước trước những xuyên tạc, những rắp tâm bẻ cong chân lý. Trên hành trình đi tìm lẽ sống, mỗi trở ngại, mỗi gian nan, đều có giá trị riêng của nó. Nếu đường đời mà bằng phẳng cả, thì khó mà đánh giá được giá trị, là vốn sống dài lâu.
Sự hội ngộ giữa Văn Thù và Duy Ma Cật là cuộc gặp gỡ giữa đỉnh cao của thanh tịnh và trí tuệ, làm đảo lộn cái thấy đoạn kiến hạn cục, rơi rụng vô minh phiền não. Từ cái tri thức khái niệm mù mờ sanh diệt đạo đoạn, thấy được cái không hiểu được, tịch diệt vắng lặng, khó diễn tả bằng ngôn ngữ, đó là bất khả tư nghì !
Phật tính được lan tỏa từ đức hạnh thanh khiết, không biểu hiện phô trương bằng sắc tướng dị biệt, nhưng mở rộng đầy đủ diệu hữu, an trú pháp không, thành tựu trang nghiêm công đức.
Đứng trên hiện tượng còn vướng mắc vọng niệm nhiễm trước không tưởng, không có lý do tồn tại mà diễn bày Phật pháp, là phản tác dụng giáo dục, chỉ dẫn đến thế gian pháp, mơ nằm trong mơ. Trong dục vọng vẫn còn có ươm mầm trí tuệ, nếu sự ham muốn được hướng đến từ bi vị tha, thì dục vọng được chuyển hóa thành hạnh phúc an lạc hoàn toàn.
Huynh trưởng GĐPT thực tập tu học Phật pháp đứng trên lập trường chánh niệm bất tư nghì, vượt lên trên nhị nguyên, mới cảm nhận được sự thật chuyển biến từ sâu thẳm. Hương vị giải thoát được toát lên, chỉ có người khát nước, khi hớp tùng ngụm trà sen, mới thẩm thấu, thấm đẫm được hương vị mát dịu đậm đà của nước, hạnh phúc thật sự thật bình dị nhẹ nhàng thanh thoát.
Tư tưởng Bất tư nghì là hướng nhìn mới, thông thoáng, không hạn cục giữa nhân và ngã. Thấy tâm còn bệnh, thì tìm cầu thiện tri thức để được khai thị, thấy kiến thức còn khiếm khuyết, thấy đức hạnh còn hèn kém, thì nỗ lực tinh tấn rèn luyện vươn lên. Thấy tha nhân còn tha hóa lạc lõng, thấy người cần phải độ, phát tâm tích cực kiên cố lập chí hành hoạt phật sự chuyển hóa dung nhiếp đến toàn thiện. Phương tiện diệu thủ tạo nên mãnh đất phì nhiêu, giúp tha nhân gieo trồng hạt giống bồ đề kiên cố. Đem vật lý tòa sư tử vô ngại đặt vào đúng nguyên vị “Ưng vô sở trụ” bình đẳng.
Nhân thức hiện tượng nhị nguyên mà có uế có trược, có tịnh và bất tịnh. Bởi ý niệm sai biệt, cắt xén thực tại thành những mãnh vụn rời rạc nhằm phục vụ cho dục lạc đam mê vị kỷ. Nhưng mặt trái của thỏa mãn nhất thời là nỗi nhàm chán rây rức nhứt nhối triền miên, khi đối mặt chạm trán với thực tại chông gai gian khó làm chùn lòng thối chí đau khổ tột cùng.
Từ tục đế tỉnh thức, thể nhập bản chất như thật sinh diệt, trên dưới, thấp cao của thế giới khái niệm hữu hạn khách quan. Đạt được chân đế bất nhị bình đẳng nhất quán kỳ diệu toàn triệt “Tâm tịnh thế giới tịnh” ./-