NỘI QUY & QUY CHẾ HUYNH TRƯỞNG

NỘI QUY GĐPTVN

QUY CHẾ HUYNH TRƯỞNG

NỘI QUY & QUY CHẾ HUYNH TRƯỞNG GĐPT HẢI NGOẠI

NỘI LỆ HỘI ĐỒNG HUYNH TRƯỞNG CẤP DŨNG




BẢN THỆ TĂNG GIÀ




HIỆU LỆNH VÀ HÌNH THỨC TẬP HỌP

HIỆU LỆNH VÀ HÌNH THỨC TẬP HỌP




NGHI TỨC TỤNG NIỆM TRONG GĐPT

NGHI TỨC TỤNG NIỆM TRONG GĐPT




VỜN THƠ – MENU

A. Menu
B. Lời ngỏ
C. Dẫn nhập
1. Vu Lan cài hoa trắng
2. Vĩnh biệt anh
3. Tiếng nói thẳm sâu
4. Ngày của Mẹ
5. Không ngờ lần gặp gỡ này là lần sau cuối
6. Chim Oanh buồn ngơ ngác
7. Con ngựa hoang trong đầm lầy
8. Bảy muơi năm danh xưng GĐPTVN
9. Cha !
10. Cỏ dại viết thành thơ
11. Xuân thêm ấm áp
12. Xuân ngây hoan
13. Xuân mới áo lam vui
14. Xuân chưa vui
15. Xôn xao cánh bướm
16. Xin cho Xuân là mãi mãi có nhau
17. Vu Lan nhớ Mẹ
18. Vô ưu bừng nở Tala
19. Vọng về anh
20. Vọng nhớ Vu lan
21. Việt Nam đất nước tôi
22. Về thôi ủ lá vườn rêu
23. Vạt nắng nghiêng vai
24. Vang vọng đường xa
25. Ủ lá thơm hương
26. Thuyền vào với trăng
27. Trong trẻo
28. Trái tim rực lửa từ bi
29. Trái tim Bồ tát
30. Thức dậy đi
31. Thuyền trăng sóng vỗ
32. Thọ Bồ tát giới
33. Thầy lại về
34. Thầm lặng
35. Tưởng niệm
36. Tuệ Sĩ thượng nhân
37. Tôi lại về
38. Tỉnh giấc mơ hoa
39. Tiếng nói thẳm sâu
40. Tiếng hát Ca lăng
41. Tiễn biệt Ôn
42. Tiễn biệt anh cả áo lam
43. Vĩnh biệt anh
44. Tan thầm nỗi đau
45. Tại đất trại
46. Sóng mãi xô hoài
47. Sư tử hống
48. Sợ như thật
49. Sỏi đá cũng thành không
50. Rừng xanh một thuở
51. Rụng lá vàng
52. Run rẩy trước cơn dông
53. Rách nát Phật môn
54. Phát Bồ đề tâm
55. Ơn Cha
56. Ở cuối con đường
57. Oanh hát vui Xuân
58. Oanh hát lời Mẹ ru
59. Oanh buồn mùa dịch
60. Những ngày đầu trên đất Mỹ
61. Nhớ nhiều ao lam
62. Nghìn năm bia đá vẫn còn
63. Ngày em về
64. Pháp Bảo đàn dập nát vô minh
65. Gom lá hồ Thu
66. Ngát nở hương xa
67. Ngàn mây hội tụ
68. Nửa khuya
69. Nơi yên bình thinh lặng thiên thu
70. Nơi vẫn còn đây
71. Nỗi ức lòng
72. Nỗi đời xa
73. Nỗi đau nước mắt
74. Nỗi đau im lặng
75. Nỗi đau da diết
76. Nỗi buồn Covid
77. Nếp áo vu quy
78. Nắng và hoa
79. Nắng hồng mấy độ
80. Một tấm lòng
81. Mộng mị chưa tan
82. Mỏi mòn
83. Ngày giỗ Mẹ
84. Mây còn xôn xao
85. Lung linh nến ngọc
86. Lều trăng phủi lá
87. Lão về một cõi hư vô
88. Lam vui biển hát
89. Lam về hội tụ
90. Lam thiền
91. Khi sư tử trắng về
92. Khánh hỷ chu niên
93. Kính thương Thầy
94. Hương xưa đồng nội
95. Hương sắc trinh nguyên
96. Hương sắc giữa đời thường
97. Hương lòng
98. Hương lam tỏa ngát
99. Hướng đời mỗi ngã
100. Huynh trưởng Việt Nam
101. Hồn đá
102. Học kinh Pháp Hoa
103. Hát lời Mẹ ru
104. Hành trình non nước
105. Hạnh ngộ
106. Giấc ngủ bình yên
107. Giã từ huyễn mộng
108. Gọi thức một trái tim
109. Em ơi biển khó xa nhau
110. Em lại về
111. Em lạc lối mơ
112. Em đến nơi này
113. Đôi tay hiền lùa thêm nắng mới
114. Đếm giọt thời gian
115. Duyên hạnh ngộ
116. Dấu xưa
117. Dép cỏ đường về
118. Dấu mòn trên cát
119. Dâng trào cảm xúc
120. Dâng đóa sen thơm
121. Dáng Thu
122. Dáng Lam
123. Chuyển hóa Ta bà
124. Chuyển hóa rong rêu
125. Chuyển dời thế nhân
126. Chuổi cười pha lê
127. Oanh buồn ngơ ngác
128. Che phủ đời con
129. Cơn mộng mị
130. Con thuyền xa bến
131. Cát bụi
132. Bé bíu vào đời
133. Bàn tay chới với tương lai
134. Ân nghĩa
135. Áo tím tóc dài
136. Ánh hiện một chín sáu ba
137. Sắc Xuân thắm nở ao lam vui
138. Người Huynh trưởng trẻ
139. Ơn nghĩa sinh thành
140. Nếp nhăn vầng trán
141. Dáng xưa
142. Nguồn tuệ giác tươi mát
143. Em áo mới giữa ngàn hoa
144. Còn lại chút hương này
145. Con đường vô tưởng
146. Các em lại về
147. Cỏ dại viết thành thơ
148. Ở nơi này biển cứ lao xao
149. Hướng lòng Thành Đạo
150. Ôm trọn quê hương
151. Một mình với trăng
152. Một thoáng như mơ
153. Chiếc bóng viễn phương
154. Nối bước Huyền Trang
155. Mãi rong chơ giữa đời hư
156. Kinh ngọc thềm hoa
157. Lời chuông khuya tỉnh thức
158. Yêu mãi ngàn năm
159. Xin nắm lại bàn tay Lam ấm cúng
160. Vườn thơm rộn rã
161. Suối thơm trong ngần
162. Nhớ thương anh cả
163. Nhớ về Phật Đản một chín sáu ba
164. Vòng tay chới với tương lai
165. Vạt nắng chiều hôm
166. Một chuyến chơi xa
167. Dáng đời thoảng qua
168. Đại hội nâng cánh ước mơ
169. Xuân vẫn còn mãi mãi thương yêu
170. Phật Đản nở Vô Ưu
171. Cha vẫn còn đây
172. Huyền Trang lên đường
173. Giấc mộng thoảng qua
174. Gặp lại Ôn Tuệ Sĩ
175. Ai hay từ độ nào
D. Lời sau cuối

Thô ! một ngôn ngữ nghệ thuật, được chắt lọc từ những tổ hợp đời thường, cô đọng cấu trúc – tĩnh tại tái tạo từng gam màu – nhân cách hóa những hình ảnh – những âm thanh rì rào – vi vu – vị ngọt tỏa hương thơm lừng hay thì thầm buồn tênh hiu hắt, gợi cảm từng hiện trạng sác na làm dạt dào xao xuyến – rung nhẹ lòng người viết. Từ ngòi bút phát thảo dệt nên những hương vị thơ cảm quang mơn mang mịn màng nhẹ nhàng hay gồ ghề cuộn thốc dư âm đớn đau theo từng giọt nước mắt lãng đãng thoảng qua dòng đời.

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” ‘Nguyễn Du’

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” ‘Nguyễn Khuyến’

“There’s a grief that can’t be spoken.
There’s a pain goes on and on.
Empty chairs at empty tables
Now my friends are dead and gone.”

“Phantom faces at the window.
Phantom shadows on the floor.
Empty chairs at empty tables
Where my friends will meet no more.” ‘Victor Hugo’

Tạm dịch:
“Có những nỗi thương tiếc không bật được thành lời.
Có những nỗi đau lê gót chẳng dừng.
Những cái ghế vắng vẻ bên những cái bàn trống không
Những người bạn của tôi giờ đã chết và không còn nữa.”

“Ảo ảnh của những gương mặt ngoài cửa sổ.
Những bóng ma trên sàn nhà.
Những cái ghế vắng vẻ bên những cái bàn trống không
Nơi những người bạn của tôi không còn gặp nhau được nữa.”




VU LAN CÀI HOA TRẮNG

VU LAN CÀI HOA TRẮNG

Vu Lan về ngực áo em hoa trắng
Một thoáng buồn hoang vắng dõi xa xăm
Mẹ không còn bên dấu đời lầm lũi
Cho quạnh hiu đi suốt mãi mồ côi




Vĩnh Biệt Anh

Vĩnh Biệt Anh

Từ giả cuộc chơi Tịnh Lam anh về
Rời huyễn mộng sen vàng một đóa
Mây ngừng trôi mưa trắng xóa đầy trời
Dáng nguyệt lung linh rơi nến ngọc
Hương trầm xa quyện tỏa khắp trời Lam
Dẫu đời có nắng mưa
Chí Lam chưa nguyện thỏa
Án thơ viết chưa tròn
Đại mộng bổng vụt qua
Nay xa rồi một thời vang bóng
Xây lại tổ xưa
Biết bao đóa Sen Lam bừng nở
Hướng về đón giọt sương mai
Mà tươi mát dòng đời…




TIẾNG NÓI THẲM SÂU

TIẾNG NÓI THẲM SÂU

Sao muốn nói những gì chưa vội nói
Lòng cứ nghe ẩn ức tự thẳm sâu
Mắt cứ nhìn dòng chữ vội tan mau
Trí mụ mẫm não hoài thêm ngất ngú

Đêm nay nữa bao đêm dài ấp ũ
Môi cứ nghe cay đắng xót xa nhau
Bàn tay nào khua dáng trăng vụn vỡ
Sóng sánh chao nghiêng đổ ánh vàng

Một tấm lòng sao nỡ vội sang ngang
Cho ngày tháng vẫn là cơn mộng mị
Gió cứ tuông sao lòng người run rẫy
Mây cử che mặt nhụt khóc đêm dài

Thôi đi nhé mắt dài thêm mối đợi
Một bình yên mộng mị thoảng qua mau
Mỗi bước đi lòng cứ mãi xôn xao
Tay vò nát dẫu sỏi đời ngăn chận

Gối có mối dẫu bụi đời lận đận
Tay có chùn thêm mỗi bước gian nan
Vẫn đứng lên tay ghì chặc vững vàng
Sen trắng nở vang lừng thêm tỏa sáng

Lam nhã Thảo am, 24.39h – 05012553 – 18022010




NGÀY CỦA MẸ




Không ngờ lần gặp gỡ này là lần sau cuối

Không ngờ lần gặp gỡ này là lần sau cuối

Kể từ đây Bóng Cả ngã trời Tây
Cánh Hạt vượt tầng không lộng gió
Nhân dáng Thượng sĩ dép cỏ đường về.
Mai này phái đoàn khởi hành
Vì bệnh duyên không tháp tùng được
Cùng anh chị em kính viếng tang lễ.
Từ phương xa hướng vọng về
Mắt lệ tràn mi – đoạn trường đau đớn
Ngưỡng vọng ai tiễn – kính bái biệt Anh !!!




Chim Oanh Buồn Ngơ Ngác

Chim Oanh Buồn Ngơ Ngác

Mới hôm nào đến chùa
Niềm hân hoan bát ngát
Phật từ bi thanh thoát
Thầy dịu hiền biết bao

Thầy dạy em rộng mở
Tha thứ không giận hờn
Thầy yêu thương tất cả
Lòng hỷ xã vô lường

Hôm nay em đến chùa
Cửa chùa khóa lặng ngắt
Phật từ bi nơi nào ???
Để đàn con ngơ ngác !

Thầy dạy em yêu thương
Nhưng yêu thương bẽ bàng !
Chơi xa ngoài khung của
Cho đàn con hoang mang …




CON NGỰA HOANG TRONG ĐẦM LẦY

CON NGỰA HOANG TRONG ĐẦM LẦY

Ở ngóc ngách thâm sâu nào đó
nơi đáy tận cùng xã hội vẫn còn đây
vẫn tồn tại thế giới ngầm đen tối
được dựng xây bởi thế lực tạo nên
đào luyện nhuộm đen loài ngạ quỉ ăn đêm
đa mưu quỉ kế hóa thân thành nàng hoa hương sắc
sáo trúc ngâm ca đàn múa quay cuồng
tâm hồn dối gian não loạn gầm gừ
cám dỗ cơn mê tóm thâu thế lực
phó mặc đoanh vây phá rối ngầm
gậm nhấm bào mòn rút tỉa dần hồi sức sống
thương tổn thịt da chuyển hướng thành thui chột
mãi ngây hoan tanh tửi đầm lầy
hoang dại mơ hồ khờ khạo ảo tưởng hoa

Có còn đâu đồng cỏ non xanh ngát lưng trời
ánh sáng ban mai không còn rồi tắt ngắm
vết hằn trên lưng oằn nặng bầy ngựa hoang
lạc lõng cơn giông âm thầm ngầy ngụa
bóng tối đen ngòm mông muội hoang sơ

Ôi ! một thời quang huy làm nên sức sống
trên thế giới huy hoàng mở hội đoàn viên
để bây giờ biến động triền miên

uất nghẹn bời bời một phút sơ tâm
hời hợt mềm lòng tạo nên kẻ hở
cho bàn tay thô bạo nham nhúa thò vào
làm tan tác mỗi phương trời dậy sóng
tình cảm khói hương truyền thống
bổng chốc nhạc phai xa mặt cách lòng

Ôi ! đau đớn thay xót xa biết bao công đức
chư lịch đại tổ sư những tiền nhân đi trước
nằm gai nếm mật cân nảo dựng xây tâm huyết
bổng chốc tàn phai bởi thế hệ kỷ nguyên đen

Cả thế giới ba ngàn đổ mồ hôi sôi nước mắt
thấm đẫm máu xương lương tri nhứt nhối
thôi rồi một thời vàng son còn đâu nữa
biết bao người ra đi và nằm xuống
bèo dạt mây trôi lênh đênh cùng vận nước
để mà tiếc nuối hoài thương mộng vỡ tan rồi !…

Houston, 16072024




VƯỜN VĂN – MENU

A. Menu
B. Dẫn nhập
1. Hành trình định hướng sinh hoạt GĐPT
2. Trại Thành Đạo GĐPT thị xã LaGi – Bình Thuận
3. Xuân đáo bách hoa khai
4. Vượt lên hạn cục
5. Vô ngã
6. Thiện tri thức GĐPTVN
7. Thân cận x
8. Tư tưởng Duy Ma Cật
9. Tư duy ngày Thành Đạo
10. Tự chủ hiện thực không như
11. Tu bát quan trai giới
12. Tinh thần vô úy
13. Tiếng hót của con chim sẻ
14. Đại hội ba GĐPTVN trên thế giới
15. Sư tử hống 2
16. Sứ mệnh Huynh trưởng
17. Sứ mệnh GĐPTVN
18. Sơ tâm tu Phật
19. Sóng gió một kỳ thi
20. Sinh hoạt GĐPT
21. Phật giáo Việt Nam – Dân tộc Việt Nam
22. Phát bồ đề tâm – 2
23. Pháp hội thù ân
24. Nhìn lại chính mình
25. Người tri thức
26. Ngủ quên trên thân phận
27. Nghề Huynh trưởng
28. Ngày Hạnh GĐPT Bồ Đề
29. Nữ Huynh trưởng Huyền Trang
30. Nỗi lòng đón Trung Thu
31. Nói thật
32. Nền giáo dục khai phóng
33. Lời thật trái tai
34. Lợi tha
35. Không thành công cũng thành nhân
36. Kiến lập tịnh độ nhân gian
37. Im lặng như chánh pháp
38. Hướng đến giải thoát
39. Huynh trưởng GĐPT
40. Hiệp kỵ
41. Gia Đình Phật Tử định hướng phát triển
42. Dòng chảy quanh đời
43. Dân tộc – Đạo pháp – GĐPT nỗi đau tri thức
44. Chánh niệm tỉnh thức
45. Con ngựa hoang trong đầm lầy
46. Cảm niệm
47. Bồ tát hạnh ý nhị uyên thâm
48. Bốn pháp chuyển hóa tha nhân
49. Bố tát tại gia Bồ tát giới
50. Đạo đức trong nếp sống trẻ
51. Nhìn về một hướng
52. Gia Đình Phật Tử là một dòng tu
53. Bài học về sự dối trá
54. Bất tư nghì giải thoát
55. Bồ tát không đến để phá hủy những gì thế gian đang có
56. Cái tôi thật tồi tệ
57. Hoa đàm ba ngàn năm
58. Ngã mạn
59. Bất tư nghì giải thoát
60. Hiện thực
61. Chó ngáp phải ruồi
62. Huynh trưởng có cấp
63. Trước thềm Xuân năm mới
64. Người có tính gia trưởng
65. Người lãnh đạo
66. Duyên trần còn vương
67. Giải thoát bước vào Niết bàn
68. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
69. Thắt ruột nhả tơ
70. Trung Thu ấm áp
71. Phóng sự Pháp hội Thù ân
72. Từ bi và bạo lực
73. Cô bé bên cửa sổ
74. Tu bát quan trai giới
75. Làm Huynh trưởng
76. Tình yêu và hạnh phúc
77. Ngày Hạnh GĐPT
78. Phát bồ đề tâm
79. Hồi ký bên lề
80. Cuộc hội ngộ trác tuyệt
81. Sự nghiệp trồng người
82. Đức Phật vào đời
83. Phát khởi Bồ đề tâm
84. Tha nhân làm mất bản thân tôi
85. Phóng viên báo tuổi trẻ Phật Việt phỏng vấn Hung trưởng GĐPTVN
86. Những con sỏi lạc lõng giữa đàn sư tử trầm hùng
87. Người Huynh trưởng lãnh đạo
88. Nhà sư và em bé
89. Người Huynh trưởng Việt Nam
90. Ý thức hệ
91. Trại Thành Đạo GĐPT thị xã LaGi – Bình Thuận
92. Tĩnh và động
93. Tình nghĩa thầy trò
94. Thầm lặng một góc sân
95. Tâm sự người lớn tuổi
96. Nhân quả
97. Tâm sự một người đi
98. Em làm đội trưởng
99. Ta còn để lại gì không
100. Sư tử hống thời phương thảo lục
101. Phật giáo Việt Nam – Dân tộc Việt Nam
102. Quyền lực vô ngã
103. Xanh lại tháng năm
104. Sống đời ý nghĩa
105. Em áo dài lam
106. Người lớn tuổi
107. Phóng sự GĐPT Quảng Nam
108. Phật giáo Việt Nam thời hiện đại
109. Phật Di Lặc và Bồ tát Quán Thế Âm
110. Oanh vui đón Trung Thu
111. Nói thật
112. Nỗi lòng đón Trung Thu
113. Phóng Viên Báo Tuổi Trẻ Phật Việt Phỏng Vấn Huynh Trưởng GĐPTVN
114. Như cơn lũ vỡ bờ
115. Nhiệt thành vì sự nghiệp
116. Tinh thần Huynh trưởng GĐPTVN
117. Biến cố GĐPT
118. Độc hành gõ nghịp giữa đường khuya
119. Người cư sĩ tại gia
120. Ngón tay chỉ mặt trăng
121. Ngọn lửa từ bi
122. Ngày hội ngành Nam GĐPT
123. Ngày Hạnh
124. Ngày Dũng GĐPT
125. Lá thư tha phương
126. Một chuyến đi xa
127. Lương tâm
128. Hiệp kỵ GĐPT
129. Lãnh đạo Gia Đình Phật Tử
130. Ký ức mùa Xuân
131. Phật Thành Đạo
132. Huynh trưởng Phật tử vững vàng mà gánh lên
133. Huynh trưởng GĐPT thực tập tinh thần Duy Ma Cật
134. Huynh trưởng GĐPT hướng đến một giá trị nhân văn đích thực
135. Huynh trưởng bậc Lực
136. Hướng về nguồn cội
137. Hướng đến tuổi trẻ
138. Hướng đến tri thức
139. Tiếng hát Ca lăng tần già
140. Hội thảo ngành đồng
141. Hội hiếu
142. Hội chứng Thanh Tiếu Nhi
143. Hãy tự làm cho cuộc đời thăng hoa
144. Cậu bé Giót
145. Giác ngộ và giải thoát
146. Gia Đình Phật Tử Việt Nam
147. Gia Đình Phật Tử một nhu cầu thực tại
148. Hành trình sinh hoạt GĐPT
149. GĐPTVN một thực thể hiện hữu
150. Phật giáo VN – GĐPTVN nõi đau tri thức
151. Lão đánh cá
152. Hạ cánh giữa tầng không
153. Lội ngược dòng đời
154. Thảo am đỉnh tuyết
155. Tham gia phật sự
156. Gia Đình Phật Tử Là Một Dòng Tu
157. Tha Nhân Làm Mất Bản Thân Tôi
158. Doàn sinh cá biệt
159. Dạo Phật là sức sống
160. Đại hội ba GĐPTVN trên thế giới
161. Cuộc Hội Ngộ Trác Tuyệt
162. Cúng dường hoa đăng
163. Pháp nạn
164. Cơn lũ vỡ bờ
165. Chữ nhẫn của người Huynh trưởng GĐPT
166. Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
167. Các dấu câu
168. Bùng vỡ tâm thức
169. Bóp nát tuổi thơ
170. GĐPT khát vọng của dân tộc
171. Binh đoàn GĐPT
172. Đại lễ Phật Đản
173. Biến động GĐPT
174. Mùa Xuân
175. Xua tan ngã ái
176. Văn hóa xin lỗi
177. Văn hóa tương kính
178. Tuổi trẻ hướng đến lương tâm trong sáng
179. Tuổi trẻ GĐPTVN
180. Tưới tẩm yêu thương
181. Tự tánh thanh tịnh
182. Tu Bát Quan Trai
183. Trên hành trình không tuệ
184. Vô thần
185. Ông chủ tịch
186. Trần trụi vào đời
187. Tinh Thần Huynh Trưởng
188. Tinh tấn
189. Tìm về nơi dịu êm
190. Tiếng sư tử hống
191. Thôi thúc lương tri
192. Thôi đừng có cuộc sống như loài ngạ quỷ
193. Thật tội nghiệp đáng thương
194. Tết Trung Thu
195. Tam giới như hỏa trạch
196. Suy tư mùa Xuân
197. Sư tử hống
198. Người có trí tuệ
199. Sứ mệnh trại sinh Huyền Trang
200. Sống Đời Ý Nghĩa
201. Làm mới sinh hoạt GĐPT
202. Phát triển con người thời đại
203. Niệm ân Phật Đản
204. Nhớ hoài Lộc Uyển ngày xưa
205. Người lãnh đạo giỏi
206. Ngũ uẩn giai không
207. Trại Lục Hòa GĐPT Bình Thuận
208. Ngày Hạnh trên một chuyến xe
209. Một con ngựa chứng
210. Làm mới
211. Huynh trưởng người làm công tác giáo dục
212. Huynh trưởng thực tập Bồ tát hạnh
213. Hội nhập văn hóa GĐPT
214. Hòa vào dòng sống
215. Hãy vững vàng trên chính đôi chân của mình
216. Hai người vợ trẻ
217. Em chỉ có một cuộc đời
218. Đừng bao giờ tranh cãi với một thằng ngu
219. Lời nói dễ thương
220. Đời sống thánh giả
221. Định hướng đường về
222. Chọn bạn mà chơi
223. Cầu thị
224. Cậu Bé Giót
225. Cành mai và mùa Xuân
226. Cái tôi không thực thể
227. Ô sào Thiền sư
228. Bài học từ một kẻ sĩ
229. Nhìn lại như thật
230. Tư cách tôn giáo
231. Lam nhọc nhằn trên hình cong chữ S
232. Người lái đò thầm lặng
233. Một chuyến thăm viếng
234. Bông lúa cúi đầu
235. Người Huynh trưởng GĐPT thực tập
236. Thầm Khóc !
237. Hội Nhập Văn Hóa GĐPTVN
238. Hòa vào dòng sống
239. Niệm ân sinh thành
240. Ngày Phật Thành Đạo
C. Lời sau cuối

“Lý tưởng chỉ hướng cho thuyền đời và làm nẩy hoa cho cuộc sông” (Thử Hòa Điệu Sống – Võ Đình Cường)

Từ tuổi hoa niên đến lúc trưởng thành tắm mình trong dòng sống Phật chất – hầu như suốt cả dòng đời gắn liền sinh hoạt Gia Đình Phật Tử.

Sự trưởng thành trải qua biết bao gian khó, nhờ sự trưởng dưỡng của Chư Tôn Thạc Đức – của biết bao lớp Đàn Anh – Đàn Chị đi trước – của tổ chức Gia Đình Phật Tử, đã tài bồi – chắt chiu dìu dắt tận tình – lao nhọc chăm bón – gọt tỉa tạo nên thân cành vững chãi.

Niệm ân công đức cao sâu, chúng con – chúng em hy hiến trọn vẹn sứ mệnh truyền trao – thành toàn công quả – không hổ thẹn lương tri!

Từ nhiều năm, qua nét hoa tiên – trải lòng lên từng trang giấy – lưu lại bên đời một thời dấu ấn.

Nếu được quý thức giả bốn phương thương yêu – quá mục xem qua – nếu còn thiếu sót thì xin cúi đầu lắng nghe lời chỉ giáo chân tình – và hoan hỷ xem đây:

“Lời ( ý ) quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh”

(Đoạn kết Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Lam Nhã Thảo Am, Vào Đông, 18092567 – 01112023

Cẩn bút




Hành Trình Định Hướng Sinh Hoạt GĐPT

Hành Trình Định Hướng Sinh Hoạt GĐPT

Rời cuộc sống tha phương để chuẩn bị cho chuyến hành trình mới… chúng tôi gồng gánh trở về lại cố hương. Sau 1975, phía Bắc Bình Thuận, vào những thập niên 80 – 90 sinh hoạt GĐPT nơi này hầu như tan rã tắt lịm.

Sức sống diệu kỳ “sinh hoạt Gia Đình Phật Tử” luôn luôn hừng hực bùng cháy trong trái tim nóng hổi – tôi tìm phương cách tùy duyên tái sinh hoạt GĐPT. Tôi tìm cách liên lạc với Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận (trước 1975, tỉnh Bình Thuận chưa sáp nhập tỉnh Bình Tuy). Vào dịp lễ đặt đá xây dựng lại trường trung cấp Phật học Bình Thuận, nhận được lời mời của Ban tổ chức, chúng tôi lên đường tham dự. Trên mình tôi, chiếc Áo Lam lẻ loi giữa biển người mênh mông. Tôi bắt gặp các anh: Tâm Quang Nguyễn Văn Mẫn, Lệ Duy Phạm Dự (thành viên BHD GĐPT Bình Thuận trước 1975), gặp được nhau chúng tôi tay bắt mặt mừng chào hỏi nhau. Thấy các anh mặc áo sơ mi trắng, tôi chỉ tay vào áo của mình hỏi: Tại sao các anh không có Lam ! Các anh chỉ vào áo trắng của mình trả lời: Chúng tôi thích màu áo này ! tôi ngỡ ngàng. Sau vài câu chuyện xã giao, chúng tôi vội vàng cáo từ.

Vào dịp Lễ Phật Đản, chùa chúng tôi tổ chức đoàn về chùa huyện hội tham dự tại lễ đài chính. Thấy tôi có chung màu áo Lam các anh chị tại địa phương, Nam áo lam quần dài – Nữ áo dài lam ùa đến mừng rỡ bắt tay, qua câu chuyện, chúng tôi biết các anh chị là giáo viên – là Huynh trưởng – Đoàn sinh trước 1975, ước muốn tái sinh hoạt lại GĐPT, tôi hoan hỷ đồng tình, hẹn ngày chủ nhật hằng tuần về đây cùng nhau xây dựng GĐPT. Thế là GĐPT Thiện Định được hình thành.

Năm 1995, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra Thông bạch 455/TB-HĐTS ngày 21/7/1995 hướng dẫn việc thực hiện việc quản lý sinh hoạt GĐPT. Năm 2001, Phân ban HHD GĐPT Bình Thuận (phía Bắc Bình Thuận) ra đời. Các anh chị Huynh trưởng GĐPT Thiện Định, trước 1975 sinh hoạt cùng BHD GĐPT BÌnh Thuận, nay thấy các anh chị của mình thành lập Phân ban HHD GĐPT, đồng lòng đăng ký. Tôi không đồng tình, sau khi thuyết phục không được tôi rời khỏi GĐPT Thiện Định.

Nhận lời mời của thầy Trưởng ban pháp chế huyện hội mời tham gia Ban tổ chức và giao nhiệm vụ MC điều hành chương trình lễ lạc thành chùa, trong thời gian này – tại đây tôi tiếp xúc nhiều Thanh niên thường xuyên đến chùa lễ Phật tụng kinh – làm công quả, tôi tranh thủ trao đổi Phật pháp – gieo ý thức hướng thiện – phụng sự đạo pháp hướng đến hình thành tái sinh hoạt GĐPT Thiện Duyên, chúng tôi tổ chức đêm văn nghệ cúng dường lễ lạc thành. Sau lễ khánh thành chùa, tôi tiến hành tổ chức Trại A Nô Ma – Ni Liên khóa đào tạo Đội – Chúng trưởng, thu hút trên năm mươi trại sinh. Chúng tôi đang tiến hành đồng phục và đội ngũ hóa Ngành Thanh (chưa có Ngành Thiếu và Ngành đồng). Không biết lo sợ điều gì – không chịu tìm hiểu – không biết lắng nghe, sau khi tác động với thầy trụ trị, vào một đêm tối trời CA đột nhập chùa, với lý do cư trú bất hợp pháp họ trục xuất tôi ra khỏi chùa.

Về lại chùa làng, tôi đến gặp thầy chánh đại diện (lúc bấy giờ chưa có chức danh Ban trị sự) huyện hội và cũng là Phó Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Thuận, được sự đồng ý, chúng tôi tổ chức văn nghệ cúng dường Phật Đản – Vu Lan – văn nghệ quần chúng tại địa phương, qua đó chúng tôi vận động tập hợp trên 30 Thanh – Thiếu niên Nam – Nữ, mở Trại A Nô Ma – Ni Liên (Đội – Chúng trưởng) chuẩn bị tái sinh hoạt GĐPT Thiện Lương. Trại đang tiến hành trong niềm hân hoan phấn khởi kỳ vọng của đồng bào Phật tử. Chính quyền địa phương tác động, thầy buộc phải dừng lại – không cho tái sinh hoạt GĐPT Thiện Lương. Thầy chánh đại diện thuộc hệ phái Cổ Sơn Môn – có gia đình riêng – không trường chay – hành nghề thầy cúng. Có lần chúng tôi tổ chức khóa tu Bat Quan Trai cho cư sĩ Phật tử, chúng tôi cung thỉnh thầy thuyết pháp, trong thời thính pháp, có lẽ do không có tu học – không thẩm thấu giác ngộ Phật pháp, thầy giảng về ý nghĩa Bát Quan Trai: Bát là tám – Quan là ánh sáng hào quang chớp qua xẹt lại, Trai là ăn chay…

Có lẽ thấy được khả năng tập hợp Thanh – Thiếu niên, ông chủ tịch Hội Chữ Thập Đỏ đến gặp và trao đổi với tôi mong muốn thành lập Đội xung kích Chữ Thập Đỏ. Nhận thấy đây là công tác xã hội – nhân đạo đúng với năng khiếu – sở trường của mình, tôi nhận lời. Tại những buổi sinh hoạt Thanh niên địa phương, tôi tiếp cận trao đổi nói lên tinh thần nhân đạo và sinh hoạt cộng động, sau gần một tháng vận động, nhiều Thanh niên (Nam – Nữ) hưởng ửng đăng ký tham gia Đội xung kích CTĐ. Chúng tôi vận dụng sinh hoạt vòng tròn – hoạt-động-thanh-niên tạo nên sân chơi sinh thú hấp dẫn thu hút trên bảy chục Thanh niên tham gia. Chúng tôi tổ chức nhiều chương trình văn nghệ quần chúng tại địa phương và đem trống đi đánh xứ người – lưu diễn tại nhiều địa phương khác nhau.

Có lẽ do lý lịch tốt – có trình độ học thức cao và đã từng là giáo viên giảng dạy – là cán bộ quản lý ngành giáo dục huyện, các hoạt động an sinh tại địa phương, các tổ chức ngành – đoàn thể – chính quyền và cấp ủy đảng tại địa phương đều muốn nghe ý kiến tư vấn của tôi. Có lần anh Bí thư đoàn địa phương tổ chức khóa bồi dưỡng cảm tình đoàn, qua hơn một tháng, chỉ lèo tèo vài Thanh niên quần chúng đăng ký học, anh bức súc gặp chúng tôi, khó từ chối được. Các buổi sinh hoạt Thanh niên tại các thôn ấp, tôi được trịnh trọng mời đến, qua các đề tài diễn thuyết tôi lồng vào những bài thơ những mẫu chuyện hài về tình yêu trong sáng – về tinh thần dân tộc yêu quê hương đất nước, tôi nhận được nhiều tràng pháo tay phấn kích – hưởng ứng nhiệt liệt. Thế là lớp cảm tình đoàn có được gần một trăm Thanh niên (Nam – Nữ) tham dự.

Nhận được lời mời của Ban trị sự Phật giáo tỉnh, về việc tổ chức cái gọi là ngày hội xem xét – góp ý Nội Quy – Quy Chế GĐPT. Tôi đồng phục nghiêm chỉnh vào tỉnh hội dự hội. Tại cuộc họp tôi bắt gặp cả một rừng Lam, mới biết được có Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận, do quý anh chị phía Nam Bình Thuận (Bình Tuy) lãnh đạo – điều hành. Tối hôm đó chúng tôi gặp nhau chia sẻ tâm tình cùng các anh Trưởng BHD – anh Phó Tổng thư ký và anh Bổn Đồng-Phạm Lợi. Tôi mừng mừng – tủi tủi như người con thơ dại sau những năm tháng lưu lạc tha phương bây giờ gặp lại được êm ái ấm cúng trong vòng tay mẹ hiền thân yêu, tôi gặp lại đúng hệ thống truyền thống GĐPT, thế là tôi đã có điểm tựa tinh thần – an trú vững chãi, tiếp tục tu học – sinh hoạt lại từ đó ./-

Lam Nhã Thảo Am, 09102567 – 21112023.




TRẠI THÀNH ĐẠO GĐPT THỊ XÃ LAGI – BÌNH THUẬN

TRẠI THÀNH ĐẠO

Chúng tôi, những cánh chim lam từ nhiều hướng, đổ dồn về đây vào một chiều lộng gió. Ngoài xa kia vọng đến, tiếng sóng biển rì rào như hát, như mời gọi đón chào. Từ mỗi lòng xe túa ra, tiếng cười giòn tan, tiếng nói rộn rã gọi nhau ơi ới, làm xao động cả một góc trời. Các trại sinh các đơn vị gặp nhau, tíu tít bắt tay, thắm thiết chào hỏi nhau sau một năm dài xa cách

Trại Thành Đạo, hằng năm, Ban Đại Diện GĐPT thị xã Lagi chọn ngày Phật Thành Đạo, làm ngày lễ trại truyền thống. Trại được diễn ra trong thời khắc giao duyên giữa học kì 1 đi qua và học kì 2 đang bước đến. Mỗi kì trại được diễn ra trong 2 ngày, mỗi năm ở mỗi địa điểm khác nhau. Ở mỗi nơi đến đều có mỗi hoài niệm khó phai, nó luôn luôn là dấu ấn, luôn luôn là nỗi hâm hấp rạo rực, như âm ỉ nao nao trong mỗi lòng lam viên suốt một năm dài mong đợi, để rồi được bùng cháy trong mỗi lần gặp lại nhau trong kì trại năm mới

Đặc biệt kì trại lần này, Khối Sinh Hoạt Trại tạo ra một một sân chơi kỳ thú mới. Trò chơi lớn dành cho Ngành Thiếu được diễn ra trong đêm, khi mà ánh mặt trời chưa kịp thức giấc. Sau khi nhận tín hiệu morse, từng đội – chúng tỏa ra, phải mò mẫm tìm dấu đi đường dưới ánh đèn pin. Lắm lúc màn đêm cũng làm cho nhiều trại sinh chùn lòng co cụm lại. Nhưng nhiều hứa hẹn lạ lẫm hấp dẫn của cuộc chơi, đang thu hút, đón chờ phía trước. Thế là từng đội – chúng cứ lướt đến, xông pha tiến lên, vượt qua từng cung đường vắng tênh, bám dây leo núi lên từng vách đá cao nham nhở, vượt qua lòng hồ cam go đầy thách thức, để được đến đích sớm hơn

Trò chơi lớn của Ngành Đồng thì diễn ra trên một lộ trình ngắn hơn, chậm hơn, phải đến lúc mặt trời rực sáng, các em mới được lên đường. Nhưng điểm gặp nhau giữa hai ngành: Ngành Thiếu và Ngành Đồng là những điểm hẹn lạ lẫm đầy hấp dẫn, để rồi đàn anh – đàn chị Ngành Thiếu, đưa đôi tay vững chãi đầy thương yêu, đón từng đàn em Oanh Vũ của mình trên những chiếc phao sáng tạo, vượt qua lòng hồ lạnh ngắt sương mai

Qua sinh hoạt giao lưu, nhiều trò chơi nhỏ hấp dẫn ắp đầy ấn tượng, mà chúng tôi nghe được hàng loạt tiếng cười nổ lên giòn tan, nhiều tràng vỗ tay cổ vũ như muốn làm vỡ tung cả khán trường

Giờ chỉ tịnh buổi trưa sau cùng, chúng tôi tranh thủ làm một vòng quanh đất trại, nhiều trại sinh yên lặng túm tụm với nhau thành từng nhóm, vội vã trao cho nhau từng cuốn sổ xinh xắn, nhiều trại sinh với tư thế bò dưới nền trại, đang chụm đầu vào nhau, đang còng lưng hí hoáy viết, có lẽ là đang vội vã ghi lại cho nhau từng dòng lưu bút nhớ đời

Tại buổi lễ bế mạc trại, thả tầm mắt bao quát, chúng tôi nhìn thấy như ánh hiện lên, làm tỏa sáng trong từng ánh mắt trại sinh. Qua kỳ trại đã làm phấn chấn mỗi lòng. Kỳ vọng mai này, khi rời đất trại trở về trú xứ, các em sẽ là những đoàn sinh tiêu biểu gương mẫu, năng nỗ sinh hoạt, đem kiến thức đã tu học được, làm hành trang thăng tiến bản thân, góp phần công sức xây dựng đơn vị GĐPT tại mỗi địa phương ngày thêm phát triển vững vàng

Cuộc vui nào rồi cũng tàn, cuộc tao ngộ nào rồi cũng phải đến lúc chia xa. Giờ phút chia tay sao mà lưu luyến đến vậy, bài hát Dây Thân Ái sao mà cứ vượt thời gian – mãi dài ra không dứt, bàn tay dây thân ái sao mà cứ siết chặt vào nhau mãi hoài, ai nấy như không muốn rời ra, có lẽ trong mỗi lòng, ai ai cũng đều cảm nhận ra rằng, nếu bàn tay này mà buông rời ra, thì cũng như cánh chim trên khung trời bát ngát kia, mỗi cánh chim lam rồi lại sãi cánh vút về mỗi trú xứ khác nhau, chỉ còn lưu lại từ sâu thẳm ký ức với lời hứa tái ngộ vào buổi tao phùng mai này

Hẹn gặp lại nhau nhé, kì Trại Thành Đạo năm sau !…

2016




XUÂN ĐÁO BÁCH HOA KHAI

XUÂN ĐÁO BÁCH HOA KHAI

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
“Vạn vật xuân vinh thu hựu khô
“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”

Trong mỗi chúng ta, không ai mà không nếm trãi nỗi buồn vui, biến dịch thịnh suy đời thường. Mùa Xuân thì hoa lá xinh tươi khoe hương khoe sắc, hơn thua cuộc đời; để rồi mùa Thu lại đến, hoa lá tàn phai héo khô, sương chiều lạnh giá

Nhận thức được thực tại khổ đau

“Trước mắt việc đời trôi chảy mãi,
“trên đầu thì tóc đã phôi pha”

Nhìn lại, mái tóc đã điểm màu sương bạc, phía trước là nỗi hoang vắng ê chề, một mai trên đường về, ai là người tri kỷ trên hành trình còn lại. Hay chỉ có mỗi riêng ai đó, với đôi tay trần trụi, “Tài, sắc, danh, thực, thùy” bổng chốc hóa thành không, độc hành đi vào chốn vô định

“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết,
“Đêm qua sân trước một cành mai”

“Đêm qua sân trước một cành mai”, một cành mai vẫn hiện hữu sáng ngời tự tánh. Tự tánh được tỏa sáng, thì khổ não bổng hóa không. “Tài, sắc, danh, thực, thùy” vốn không thực có, thì còn than thở với ai trên gối mộng triền miên. Bởi mê mãi với hoa đốm giữa hư không, để rồi mệt mõi đuối hơi đuổi bắt cái bóng không tưởng giữa nắng Hè oi ả.

“Chư pháp tùng bản lai
“Thường tự tịch diệt tuớng
“Xuân đáo bách hoa khai
“Hoàng oanh đề liễu thượng”

Đạo Phật là đạo như thật, khai vọng hiển chân, chỉ rõ tứ tướng vô thường, sinh diệt đến vô cùng.

Thức ngộ được chân đế, hành giả giác ngộ thực tại, vượt lên trên sóng khổ, hướng đến vị tha, thì “Xuân đáo bách hoa khai”, uế độ hóa hiện thành Phật độ ./-




Vượt Lên Trên Hạn Cục

Vượt Lên Trên Hạn Cục

Giác ngộ bốn tướng: Sinh – lão – bệnh – tử, sinh – trụ – dị – diệt, Diệu thánh đế: Khổ – tập – diệt – đạo. Nhận chân pháp ấn: Vô thường – khổ – không – vô ngã. Đoạn diệt vô minh, xa rời cảm thọ phiền não. Hùng lực vượt dòng A Nô Ma dậy sóng cuộn xiết – năm năm lê bước tắm sương đội tuyết nhọc nhằn ròng rã tầm đạo – sáu năm khắc kỉ trơ xương mong manh trước thời tiết nghiệt ngã miệt mài khổ hạnh rừng già. Bên dòng sông Ni Liên lặng lờ mãi miết – ngồi trên thảm cỏ non tơ mơn mởn – dưới gốc bồ đề rợp mát tán lá xanh um. Bốn mươi chín ngày đêm ròng rã quán niệm hành thiền – vượt dòng tâm thức chiến thắng nội ma ngoại chướng – bừng tỉnh tuệ giác. Vào lúc sao mai vừa ló dạng chân mây, con người lịch sử – thái tử Siddhartha thành đạo – hiệu Sakyamuni.

Thuở ấy, cách đây trên hai nghìn năm trăm năm, nền công nghiệp chưa cao – kỷ thuật công nghệ chưa có, đường đất lồi lõm gập ghềnh hoang sơ. Đức Phật cùng với các môn đệ của ngài í chí dõng mãnh xuất trần rũ áo thế tục gia khoát mình áo vuông ba y phấn tảo, đầu trần chân đất dấn mình vào sương gió du phương muôn dặm xa thực hành trung đạo tương ưng tương nhập – hạnh đầu đà du tăng khất sĩ, một bát cơm ngàn nhà ngọ thời hỷ thực. Chuyển pháp luân trao truyền chánh pháp – giáo hóa độ sinh – phụng sự tịnh độ hòa bình nhân loại.

Ngày nay nền công nghệ cao, đường trải nhựa thênh thang dưới nắng trưa bỏng cháy. Với nguyện lực dõng mãnh thù thắng – tinh thần vô úy mạnh mẽ – nghị lực kiên nhẫn bền bỉ siêu phàm – ý chí kiên định vững chãi nghút trời. Với đôi chân trần khẳng khiu chai sạm đen đúa ròng rã xuôi ngược dòng đời. Khắc phục những gian khó ngũ dục lợi dưỡng cám dỗ – chế ngự chiến thắng bản thân – phát nguyện thọ giới tinh nghiêm – thực tập hạnh Phật đầu đà giải thoát khổ diệt – tâm thái khiêm cung tự tại như nhiên thanh tĩnh – tĩnh tại vào định bơi vào đại ngã bổn lai vô nhất vật tìm cầu niết bàn tịch tịnh vô biên.

Lòng người thì trắc ẩn – thế giới thì não loạn tam độc – bản vị xung đột bất ổn vô cùng. Thật giả chân ngụy khó phân, thời gian rồi sẽ định hình – khẳn định lại giá trị bất biến vốn có.

Nhưng cũng chỉ với bấy nhiêu đó thôi đủ để tán thán – chứng minh được giá trị chiến thắng tự ngã vượt lên trên hạn cục tầm thường.

Đạo Phật là đạo tự giác đưa đến giác ngộ viên mãn – giải thoát hoàn toàn, lội ngược triều lưu dòng đời – luôn luôn vươn lên hướng về phía trước. Mọi sự mọi vật trong thế giới hữu hạn đều do duyên sinh và do duyên diệt. Những gì được khởi sinh đều có cái nhân – cái duyên của nó, nếu thiếu nhân – không đủ duyên tác động nên thì không bao giờ thành tựu nghiệp quả. Con người là một sinh vật giữa xã hội có mối tương quan tương duyên trong thế giới hữu hạn não loạn đạo đoạn.

Người Phật tử cư sĩ tri thức thời đại, diễm phúc được các bậc chân sư – đàn anh thiện sĩ truyền trao khai thị, có học – có tu – có hiểu – có biết, thẩm thấu kinh văn bác học – thấm đẫm pháp Phật – tầm mắt vươn xa – kiến thức thăng hoa mở rộng.

Kinh Kâlâma Đức Phật dạy: Đừng vội tin vào kinh điển huyền bí đã được biên chép đọc tụng, hay được thầy của mình hoặc các thầy nổi tiếng rao gảng, chúng giống như điều mà mình và mọi người chung quanh đã tin tưởng, cũng đừng tin vì những điều đó mình cần bênh vực. Mà hãy tin vào những điều đã chứng nghiệm có lợi ích thiết thực trong đời sống thực tại.

Với cái nhìn duy thức chánh kiến sáng tỏa như thật, đủ để phản quang – hồi chiếu chứng minh – đánh giá được thực tại. Chẳng lẽ cứ mãi áp đặt – vô tâm đẩy con người mãi mãi mù mờ cúi đầu vâng phục lui về thời kinh văn áo nghĩa khúc chiết huyền bí mông muội mơ hồ.

Đạo Phật có nhiều trường phái cấp độ tu học hành hoạt khác nhau – tám vạn bốn ngàn pháp môn tu. Thời đức Phật nhất thừa duy nhất, không phải chùa to Phật lớn, mà là tịnh xá vườn rừng u tịch thanh tu, thế mà hào quang tỏa sáng thu hút hằng hà sa số tín đồ quy hướng – thực tu thực chứng thành toàn đạo quả. Thời pháp nhược ma cường – hòa nhập hiện đại – công nghệ kỷ thuật phát triển. Nhị thừa tùy nghi phương tiện hóa thành, không phủ nhận hình thức sắc tướng tăng tài – những nhà văn hóa tri thức đã cống hiến đời mình sống trong đời sống tăng già lục hòa cọng trụ dưới mái viện đại hùng uy nghiêm tráng lệ, thu hút quần chúng sơ cơ, thực hiện nghi thức ngoại giới hành lễ cầu nguyện – giải quyết nhân sinh bác ái từ thiện – phụng sự sự nghiệp vị tha hoằng pháp lợi sinh – hướng nhân loại đến nẻo thiện lương tốt đời đẹp đạo.

Từ tục đế hư vọng muốn vươn lên chân đế tối thượng vượt thoát sinh tử khổ đau, thì nhu cầu thiết yếu bất biến là phải có những bậc đạo sư uyên nguyên xuất thế chân tu cao tăng thạc đức thạch trụ già lam bảo tồn di sản Như lai – duy trì mạng mạch chánh pháp – giữ vững giềng mối truyền đăng – chuyên tu liễu ngộ Phật pháp – thực chứng bồ đê bổn vô thọ, đủ năng lực huyền nhiệm “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”, đáp ứng thỏa đáng nhu cầu tâm linh – truyền tải năng lượng giác ngộ vô hạn – củng cố tín tâm vững chãi – giải tỏa vấn nạn hóa giải xung khắc – tập hợp dưới ngọn cờ lục hòa – chuyển hóa nhân sinh ra khỏi nhà lửa tam giới bất an – tái lập hòa bình hữu nghị thế giới ./-

Houston, 08072024




VÔ NGÃ

VÔ NGÃ

NGÃ, một luận lý thực nghiệm, được hình thành bởi ngũ uẩn:

I. NGŨ UẨN: Một tổ hợp hình thành bởi năm nhóm, năm yếu tố cấu thành tâm, vật:

  1. Sắc: Lục căn, sáu giác quan: mắt, tai. mũi, lưỡi, thân, ý, do Tứ đại: Đất, nước, gió, lửa hợp thành. Sắc, giác quan tiếp xúc hiện tượng, hình thành đối tượng phân biệt.
  2. Thụ: Xúc giác tiếp xúc lục căn, cảm nhận được: dễ chịu, khó chịu, hay trung tính.
  3. Tưởng: Tri giác, biết được, phân biệt được: âm thanh, màu sắc, mùi vị, kể cả ý thức được hiện tượng chung quanh.
  4. Hành: Những hoạt động tâm lý sau tri giác: nhận định, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh thức; dẫn đến hành động tạo nên nghiệp thiện, nghiệp ác.
  5. Thức: Là cái biết, sự phân biệt. Qua mối quan hệ với sáu giác quan (lục căn): Mắt (nhãn), tai (nhĩ), mũi (tỷ), lưỡi (thiệt), thân (thân thể), ý (tâm lý), tiếp xúc với sáu trần: Sắc (hình tướng), thinh (âm thanh), hương (hương thơm), vị (muồi vị), xúc (cảm giác), pháp (hiện tượng, khái niệm của vật chất và ý thức); hình thành nên lục thức:

II. LỤC THỨC:

  1. Nhãn thức: Cái biết của mắt. Nhãn căn tiếp xúc với sắc trần hình thành nên.
  2. Nhĩ thức: Cái biết của tai. Nhĩ căn tiếp xúc với thanh trần hình thành nên.
  3. Tỷ thức: Cái biết của mũi. Tỷ căn tiếp xúc với hương trần hình thành nên.
  4. Thiệt thức: Cái biết của lưỡi. Thiệt căn tiếp xúc với vị trần hình thành nên.
  5. Thân Thức: Cái biết của thân. Thân căn giao tiếp với xúc trần hình thành nên.
  6. Ý thức: Cái biết của ý. Ý căn nhận thức được các pháp hình thành nên.

Trên hành trình đi vào vô định, con người thật sự vong thân, mong manh; được vay mượn bởi năm uẩn hiện hành, là một chuỗi hiện tượng tương quan tương duyên hoạt động đến vô cùng, đến khi hết duyên, tổ hợp này tách rời, tan rã thì cũng chỉ là giả hợp, vô ngã, không có cái ta ảo tưởng, một nhân cách độc lập thật thể.

III. NGHIỆP: Là nguyên nhân dẫn đến một kết quả tuần hoàn chãy suốt dòng luôn hồi:

  • Nghiệp được hình thành bởi một hành vi, hay một hành động, thông qua tư cách xử sự của Tam nghiệp (còn gọi là tam độc): Thân (thân thể), khẩu (miệng), ý (suy nghĩ).
  • Nghiệp, là một năng lực tiềm tàng, được lưu lại, đến khi thuận duyên, được nẫy mầm, tạo nên một kết quả khác cho mai sau.
  • Nghiệp có tốt, có xấu; có thiện, có ác; nghiệp có đồng nghiệp, biệt nghiệp:
  • Đồng nghiệp: Chung cùng một chủng loại, một hoàn cảnh. Do nghiệp chiêu cảm, mà có chung một cuộc sống cộng đồng, cùng một hoàn cảnh.
  • Biệt nghiệp: Là khác loại, nghiệp riêng biệt khác nhau. Có một cuộc sống đồng sàng, nhưng dị mộng. Cùng có chung một đời sống cộng đồng, nhưng mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau.
  • Vị kỷ vô minh, mù mờ, lệch lạc, thiếu nhận thức đúng đắn, không nhìn thấy được hết sự lợi lạc tích cực thiết thực vì cộng đồng; chỉ vì dục vọng tồn tại tư lợi, hay quyền lực cá biệt, để cho tham, sân, si mê muội, tạo nên hành vi dẫn đến nghiệp ác.
    • Thiện nghiệp: Tỉnh tại sáng suốt, nhận định, phân tích đúng sai, phát nguyện tinh tấn dấn thân, vì lòng từ bi: giải khổ, đem vui, vì nhiêu ích thiết thực tha nhân.

Nghiệp đoanh vây bao quanh cuộc sống, dẫn dắt con người tái sinh. Được hưởng nhờ bởi tài sản của nghiệp, một cuộc đời hay một hoàn cảnh sống nhất định được tái lập, đây là sự tái hiện của nghiệp.

Dưới sự tác động của nghiệp, hình thành nên quả = Nhân quả.

IV. NHÂN QUẢ: Nhân, duyên và quả:

Là một luật tắc tất yếu được hình thành bởi nhân sinh và vũ trụ quan, qua mối tương quan duyên khởi.

Quả hay nghiệp, được hình thành bởi nhân (chủng tử, năng sinh), một khởi đầu hành nghiệp, và được xúc tác bởi duyên để cấu thành quả (sở sinh) báo ứng tái hiện trong cuộc vay trả luân hồi.

Pháp nào có khả năng làm phát sinh ra quả, thì được gọi là nhân. Những tác động môi sinh, những hiện tượng chung quanh, nhiều yếu tố góp sức, tổ hợp hình thành, gọi là duyên. Và nhân cũng là duyên để tạo nên sự sinh tồn, gọi là quả.

a. NHÂN, có lục nhân:

  1. Năng tác nhân: Nhân là năng tác, quả là sở tác. Là tác nhân tạo nên năng lực phát sinh.
  • Hữu lực năng tác nhân: Là tác nhân tích cực làm cho phát sinh.
  • Vô lực năng tác nhân: Là một tác nhân tiêu cực, nhưng không chướng ngại, làm cho tăng trưởng.

2. Câu hữu nhân: Nhân khác thời gian, nhưng quả được phát sinh cùng không gian .

  • Hỗ vi quả câu ữu nhân: Nhân hỗ tương với quả để tác thành.
  • Đồng nhất quả câu hữu nhân: Nhân đồng nhất với quả để hình thành.

3. Đồng loại nhân: Các pháp tương tự như nhau, được tạo tác bởi quá khứ để được liên tục hình thành hiện tại. Thiện sinh thiện, ác sinh ác…

4. Tương ưng nhân: Nhân nương vào quả, quả nương vào nhân để hòa hợp tồn tại.

5. Biến hành nhân: Có khả năng thay đổi, biến động.

6. Dị thục nhân: Nhân quả khác loại, nhưng thuần thục đồng tôn tại.

b. DUYÊN, có tứ duyên:

  1. Nhân duyên: Nguyên nhân nội tại trực tiếp sản sinh trong trật tự. Nhân cũng là duyên.
  2. Đẳng vô gián duyên: Do một sát na tâm lý khởi niệm từ quá khứ để tương tục sinh ra trong thời hiện tại.

Đẳng: Một ý nghĩ, niệm tưởng vừa diệt đi, ý nghĩ sau như nhau lại tiếp tục phát sinh.
Vô gián: Những ý niệm phát sinh liên tục, không rời cách.

3. Sở duyên duyên: Nơi ý thức y cứ, liên tục duyên duyên phát sinh.
4. Tăng thượng duyên: Những dữ kiện từ bên ngoài, y cứ tương trợ nhau làm phát sinh:

  • Thuận tăng thượng duyên: Trợ giúp thêm thuận lợi để phát triển.
  • Nghịch tăng thượng duyên: Giúp thêm ngang trái dẫn đến sụp đổ, thất bại hoàn toàn.

c. QUẢ, có ngũ quả::

Quả hữu vi: Có sanh, có diệt, có biến dị; do nhân duyên phối hợp mà thành.
Quả vô vi: Do thánh giả, thiện tri thức chứng ngộ, thường hằng.

  1. Dị thục quả: Nhân khác quả, nhưng tương tác phát sinh
  2. Đẳng lưu quả: Nhân đồng loại sinh ra quả cùng loại, giống nhau.
  3. Sỹ dụng quả: Do tác dụng của nhân mà hình thành nên quả:
    • Nhân sĩ dụng: Do tri giác thông qua công nghệ tạo thành.
    • Pháp sĩ dụng: Do pháp vô tình (không phải con người) tác động lên mà hình thành, như nắng làm hạn hán, mưa làm ngập lụt v.v…

4. Tăng thượng quả: Là kết quả tốt xấu được tác động bởi nhân và duyên làm tăng trưởng.
5. Ly hệ quả: Là quả vô vi. Nhờ năng lực trí tuệ, được cách mạng, khai phóng, vượt thoát lên trên sự ràng buộc của vô minh phiền não, đem đến tự do bình đẳng. Không phát sinh từ nhân duyên.

Nhân quả là một nguyên lý, một quy luật tất yếu, được phản ảnh chung nhất, bởi một biệt nghiệp hay cộng nghiệp, cá nhân hay tập thể tạo nên dưới một điều kiện giai đoạn nhất định. Một kết quả tốt, vị tha hướng đến tha nhân, luôn luôn đem lại sự thanh bình, bình đẳng, tự do, hạnh phúc thật sự cho cá nhân hay cộng đồng. Một suy nghĩ, một hành động cố ý, một ý đồ tàn hoại, sẽ mang đến đến một hậu quả tự sát bi thảm.

Thời gian báo ứng nhân quả:

  • Ngay trong lúc tạo nhân. Đương kiếp nhân quả
  • Được thể hiện bởi cái nhân từ trước. Tiền kiếp nhân quả
  • Báo ứng vào mai sau. Hậu kiếp nhân quả

V. VÔ THƯỜNG:

Đây là một nguyên lý chứng nghiệm như thật. Mọi dòng chảy của hiện tượng từ tâm đến vật lý, được hình thành trên cơ sở lệ thuộc, không độc lập; tất cả đều không chắc chắn, luôn luôn luân chuyển thay đổi một cách hiển nhiên, chuyển biến liên tục, từ trạng thái này, sang trạng thái khác; sinh ra, tồi tại trong một khoảnh khắt thời gian nhất định, rồi mất hẳn; không thường còn:

– “Vạn vật, nếu có một khởi đầu, thì cũng phải có một chung kết”
– “Hoại diệt là bản chất của chư hành”

Đức Phật đã dạy:
“Ác ngiệp do chính mình tạo ra, tự mình sinh ra. Ác nghiệp làm hại kẻ ngu dễ dàng như kim cương phá hoại bảo thạch… Làm dữ bởi ta, mà nhiễm ô cũng bởi ta; làm lành bởi ta, mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể làm cho ta thanh tịnh được”.

Tha nhân hay siêu nhiên ngoại giới không có năng lực chi phối lên nhân chủ nhân sinh. Với đạo đức nhân bản: Phải tự khai phóng chính mình, tự mình vươn lên để làm một cuộc cách mạng đổi mới chính mình, xây dựng hoàn chỉnh uế độ thành tịnh độ tự tâm, phải tự mình làm trong sạch tam nghiệp, ngộ nhập tri kiến, để được thanh tịnh và giải thoát.

Trong thế giới hữu hạn, không có cái gì, kể cả tâm lẫn vật, được tồn tại bất biến. Ngã (cái ta) được hình thành bởi năm uẩn, nhưng ngũ uẩn giai không, sinh diệt vô cùng. Ngũ uẩn được hình thành bởi duyên sinh, phụ thuộc vào tha lực để tạo nên cái tự ngã, như vậy ngã không có thực thể. Chúng ta có tồn tại hay mất đi, thì thế giới này vẫn cứ vận hành theo định luật như thật. Không ai có thể ngông cuồng, vô minh, phóng tưởng tự phong cho mình cái quyền lực bá chủ, có khả năng làm thay đổi chuyển hóa vận mệnh, áp đặt thế giới này tuân phục dưới một chủ thuyết đạo đoạn.

Một con người hoặc cả thế giới này được tồn tại hay mất đi, là do nghiệp lực của biệt nghiệp hay cộng nghiệp. Một cá nhân hay một tập thể tùy thuộc vào nghiệp thiện hay nghiệp ác đang tạo, sẽ được tái hiện bằng quy luật nhân quả, cá nhân hay tập thể đó sẽ được hưởng nhờ vào cái hậu quả đã tạo nhân.

Ngã được vô tâm nuôi dưỡng bởi tham lam ích kỷ, tự ái, thỏa mãn tham vọng, cố ý xem thường, dẫm đạp nhân tâm, cũng cố xây đắp trên cát lên đỉnh cao bao nhiên, thì đau khổ cũng được phát triển lớn dần lên theo cấp số nhân.

Quy luật vô thường tác động lên thời gian, gậm nhấm, bào mòn dần vũ lực, đến lúc đủ duyên lão hóa suy sụp thì hoang mang, dù chấp nhận hay không chấp nhận, tự thân vẫn cứ sụp đổ hoàn toàn.

Với tâm lượng từ bi vị tha chan hòa cuộc sống, vì hạnh phúc cá nhân và cộng đồng, ứng dụng tinh thần vô ngã tích cực, mạnh dạn dẹp cái tội vị kỷ, giác ngộ như thật, vị tha góp phần làm đẹp, xoa dịu phần nào cuộc đời vốn dĩ đã đa mang quá nhiều đau khổ ./-




THIỆN TRI THỨC GĐPTVN

THIỆN TRI THỨC GĐPTVN

“Chư Phật và Bồ tát có pháp giải thoát Bất tư nghì. Khi Bồ tát trụ nơi pháp, đem núi Tu Di (Sumeru) để vào trong một hột cải vẫn không dư không thiếu. Hình dạng núi Tu Di cũng không biến đổi, trời Tứ thiên vương và chư thiên cõi trời Ba mươi ba (Ðao Lợi) cũng không biết là mình vào trong đó. Chỉ những bậc Ứng hợp độ thế mới có thể biết rằng núi Tu Di đã được đem vào trong hạt cải. Ðó là pháp môn Bất tư nghì giải thoát”

“Bất tư nghì giải thoát”, pháp môn không hai, vượt thoát vô ngã, không còn suy tưởng

Không! Một trạng thái tỉnh thức, một tìm lực làm chuyển biến cả thế giới – chơn không diệu hữu

Không! Không phải là trống vắng hoàn toàn “ngoan không”. Những khái niệm về tâm lý, không có một hình thái tư hữu để hình thành một cái tôi riêng biệt. Những hiện tượng được phơi bày, là trò chơi phóng tưởng của “tánh không” – không tự ngã

Trong cái không vô cùng “chân không”, không phải là không có gì, bởi vì sự vật không thực tại, chứ không phải là không tồn tại, vẫn hiện hữu một tìm lực – một nguồn năng lượng vô biên, dù sinh ra – tồn tại hay mất đi, cũng chỉ là một chuyển thể đến vô cùng – duyên sinh

Đạo Phật xuất hiện từ một thực tại vô ngã, từ trạng thái hữu ngã vô minh – đoạn trừ phiền não, thể nhập biện chứng nhân bản, giác ngộ – ngã không – giải thoát. Có – không – còn – mất – hơn – thua, dù trong nguy khó là vậy, nội ma ngoại chướng vây bủa nghìn trùng, Người Huynh trưởng PT chứng nghiệm vô biên Phật pháp, phát nguyện vững vàng, gánh vát gian nan, an nhiên tĩnh tại vô úy đi tới, giữ vững tay chèo, cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, đưa con thuyền GĐPTVN cặp bến bình yên

Ngoài trí tuệ siêu việt, ngoài năng lực hiện thực, người Huynh Trưởng thiện tri thức, còn phải có tâm huyết thiết tha – nồng nhiệt. Với cái tâm hết lòng vì tổ chức mà phụng sự, mang lại một giá trị đích thực cho cuộc sống. Không thể có những Huynh trưởng bàng quang – hời hợt – cưỡi ngựa xem hoa, xem tổ chức GHĐPT chỉ là nơi chốn nương náu đoạn tháng – mua vui chốc đó – làm đà tiến thủ cá nhân vị kỉ

Người Huynh trưởng tri thức, là người có đầy đủ kiến thức về cuộc sống, không mụ mẫm trước niềm tin thiếu kiểm chứng. Vào đời với biết bao thao thức – khát khao đi tìm một định hướng sống mới mẽ thiết thực, thăng hoa tốt đẹp cuộc đời

Người thiện sĩ Huynh trưởng GĐPTVN, vững vàng trong thế đứng thẳng tắp, với tấm lòng vị tha bát ngát vào đời, vì tha nhân mà phụng sự. Chọn tuổi trẻ làm đối tượng để khai thị tuệ giác. Chọn nhân sinh làm nấc thang thăng tiến, kiến thiết một xã hội công bằng an lạc. Mỗi tham vọng – mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm từ dục vọng thấp hèn, từ hận thù nghi kỵ, từ ganh tị hơn thua, xô đẩy nhau đọa đày đau khổ

Người Huynh trưởng GĐPT biết nhóm lên ngọn lửa thương yêu, đem lại niềm tin yêu và vui sống cho mọi người, xua tan đi mê mờ kiến chấp

Người Huynh trưởng GĐPT, là người nghệ sĩ biết rung cảm trong từng mỗi suy tư, sáng tạo nên những công trình nghệ thuật vĩ đại, đáp ứng vẹn thỏa những khát khao thưởng thức nét đẹp tâm linh thanh thoát

Người Huynh trưởng GĐPT, là người biết dóng lên những hồi chuông tự tại ngân dài, như những đợt sóng hải triều âm, làm lắng xuống vạn lòng siêu thoát

Người Huynh trưởng GĐPT, là một chiến sĩ trên mặt trận tâm linh, một kỹ sư tâm hồn, một thiền sinh đang đối mặt trước thực tại vô minh – khai phóng tuệ giác. Phải luôn luôn nổ lực, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng GĐPTVN hướng về phía trước. Không lùi bước khi nhắm vào mục phiêu cứu cánh, không xuê xoa trước những sai trái đời thường, không chùn bước trước những xuyên tạc, những kẻ rắp tâm bẻ cong chân lý. Trên hành trình đi tìm lẽ sống, mỗi trở ngại – mỗi gian nan, đều có giá trị riêng của nó. Nếu đường đời mà bằng phẳng cả, thì khó mà đánh giá được giá trị – là vốn sống dài lâu

Hoa sen tinh khiết sinh trưởng trong bùn, từ bùn mà vươn lên, nhưng không bị bùn tanh làm ô nhiễm. Huynh trưởng GĐPT sống giữa lòng đời, nhưng tâm tư tĩnh tại. Từ tục đế mà vượt thoát lên trên dòng ngũ trược, mang theo hương sắc tinh khiết làm thơm đẹp cuộc đời ./-




Thân Cận Xứ

Thân Cận Xứ

Trong sinh hoạt GĐPT, chúng tôi được phân công làm công tác Lãnh đạo. Chúng tôi được tổ chức điều động trãi qua 4 đơn vị GĐPT – 4 ngôi Chùa.

Trong những thập niên 80 – ảnh hưởng một thời bao cấp lạc hậu – tối tăm – tồi tệ!

Chúng tôi đến đây, phố núi thưa thớt đìu hiu, cư dân nghèo nàn cơ cực. Với chiếc xe đạp cọc cạch chạy quanh khắp các ngã phố. Được người dân ở đây hướng dẫn, chúng tôi tìm đến, Chùa chỉ còn là một kho bãi. Tìm hiểu những vị cao niên, được cho biết:

Kể từ sau 1975, chùa không còn bóng dáng Tăng Già – người dân âu lo không dám đến Chùa. Nhà nước địa phương chiếm dụng, ngôi Chùa trở thành kho chứa hàng hợp tác xã mua bán.

Sau nhiều lần tới lui thăm viếng, vận động – động viên bà con địa phương xin lại ngôi tín ngưỡng. Trãi qua một thời gian dài nhọc nhằn – gian nan, cuối cùng cũng được toại nguyện.
Sau nhiều ngày thui thủi – tích cực dọn dẹp vệ sinh – lau sạch tượng Phật – hương trầm xông ngát – tiếng chuông chùa lại được ngân nga đầm ấm, như giục giã lòng người tục lụy, quên đi hư vinh, mau chóng quay về bờ giác.

Dưới ngọn đèn dầu tù mù – leo loét, tiếng chuông – tiếng mõ – tiếng kinh trầm lặng – lẽ loi – đơn độc, ê a gọi thức bao đêm. Rồi dần hồi cũng rung động – cảm ứng lòng người. Ban đầu là những trẻ em hiếu kỳ, rồi đến những người lớn tuổi. Được động viên – được phân tích nhân quả – thiện ác – tội phước, ai nấy đều hẹn nhau, hằng đêm về chùa lễ Phật – tịnh độ cầu kinh. Sau thời kinh, chúng tôi quây quần bên tách trà xanh đàm đạo – trao đổi Phật pháp, lâu dần thành nề nếp, không đêm nào thiếu vắng được. Những đêm thứ Bảy – Chủ Nhật, sau thời kinh tịnh độ, chúng tôi tập hợp các em lại, tập cho các em những bài hát sinh hoạt, kể cho các em nghe những mẫu chuyện đạo và sinh hoạt vài trò chơi nhỏ. Nhiều Bác đạo hữu thấy vui, cũng thích thú hòa mình tham gia.

Sau đại lễ Vu Lan Báo Hiếu được tổ chức hoành tráng, chúng tôi tập họp các em – tay trong tay, hát lại bài ca:

“Chúng ta là chim bốn phương bay về đây…

“Đây gia đình cùng nhau chung thân ái…”.

Để rồi năm sau, mùa Phật Đản về. Trước ngày Đại Lễ, chúng tôi mời quý Bác đạo hữu có uy tín trong làng, hình thành Ban Hộ Tự, thống nhất cử chúng tôi làm thư ký. Và tập hợp những Huynh trưởng – Đoàn sinh trước năm 75 có tham gia sinh hoạt GĐPT, hình thành Ban Huynh Trưởng, thống nhất cử chúng tôi làm Liên Đoàn Trưởng (mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi chưa qua bậc tu học nào – chưa qua trại huấn luyện nào và dĩ nhiên là cũng chưa có có cấp). Chúng tôi vận động các nhà hảo tâm tài trợ, cùng nhau thực hiện vườn Lâm Tỳ Ni – trang trí Lễ Đài rực rỡ. Tổ chức may cờ GĐPT – may áo lam. Gấp rút thực hiện một chương trình văn nghệ hoành tráng.

Trong ngày Đại Lễ Phật Đản Sinh – ngày trọng đại ra mắt GĐPT, trong niềm hoan hỷ vô biên, tất cả chúng tôi, gần 60 anh – chị – em đều đồng phục tề chỉnh, lá cờ nền xanh – Hoa sen trắng tung lượn phất phới. Một buổi lễ Đoàn được chính thức cử hành trang trọng trong xúc động tràn trề – nghẹn ngào nước mắt. GĐPT gần 20 năm bị chựng lại, giờ đây được tái sinh hoạt! Từ đó, chúng tôi đưa màu Áo Lam đi khắp các Chùa – đến các địa phương sinh hoạt – vận động tái sinh hoạt lại các đơn vị GĐPT.

Có lẽ các Anh – các Chị, trong mỗi chúng ta, ai nấy đều nhớ lại cái thuở ban đầu ấy!… Ai mà không ngậm ngùi rơi nước mắt khi nhìn thấy lại màu cờ – sắc áo thân thương, cứ ngỡ rằng đã bị vùi dập mai một với thời gian mưa sa – bảo táp. Trong khó khăn là vậy, ai nấy cũng ẩn nhẫn dùi mài ý chí, tự giác vận động tự thân vươn lên dưới mọi hình thức, để cho mầu cờ – sắc áo kỳ vĩ được sống mãi. Thế là chúng ta đã được sống – tự sinh – tự tồn…
Nhưng hôm nay thì sao ?

Một dấu hỏi to lớn đang được đặt ra, một công án thách đố ý chí mỗi Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPTVN!

Chúng ta đang đối mặt trước vô vàn khó khăn (lòng người tráo trở – khúc mắc), một thách thức lớn trước thời cuộc, một sa bàn của một trò chơi lớn đang được mở ra trước mắt, đòi hỏi mỗi tự thân phải có đủ năng lực huyền nhiệm, để kiến giải – chuyển hóa – định hướng đường về ?!…

Sau năm 1986, nhà nước VN mở cửa, mở rộng tầm mắt nhìn ra thế giới bên ngoài – kinh tế tư sản dần hồi phục hồi – phát triển.

Trong giai đoạn mở rộng lộ giới, mặt tiền Chùa bị thu hẹp. Chúng tôi tư vấn, Ban Hộ Tự và đồng bào Phật tử địa phương nhất trí ủng hộ, đất Chùa được chia lô – sang nhượng lại. Nhờ nguồn tài chánh này, chúng tôi chọn mua một đồi cây bên ngoài khu dân cư và tiến hành xây dựng Chùa mới. Ai nấy đều than thở: Chùa nằm giữa khu phố – đông dân cư, còn ít người lui tới, bây giờ dời Chùa xa khu dân cư, lại ở trên đồi cao, không biết có còn ai đến Chùa ? Chúng tôi hết lòng – tùy duyên trấn an, mọi người ai nấy phần nào nguôi ngoai.

Đến ngày khởi công, GĐPT nhận nhiệm vụ san mặt bằng – đào móng – mở đường – trồng cây tạo cảnh quang. Chúng tôi và Ban Hộ Tự chia nhau đi khắp các thôn – xóm, vận động đồng bào Phật tử, chia thành nhiều đội – nhiều tổ – xoay vòng – tham gia – nhiệt tình công quả. Gần một năm nhọc nhằn – gian khổ trôi qua, ngôi Chùa dần hồi được hình thành – trang nghiêm – thanh tĩnh – đẹp đẽ.

Có lẽ như là duyên định. Sau khi xây dựng Chùa xong, chánh quyền địa phương quy hoạch: Một một công viên – một ngôi chợ mới được mọc ngay dưới chân đồi – phố thị mở ra rộng rãi – đường xá thênh thang – dân cư đông đúc – nhà cửa mọc lên như nấm bao quanh chân đồi. Chúng tôi thường hay nói vui với nhau: Chùa tuy xa mà gần – tuy động mà tịnh. Vì chùa thì ở trên đồi, núp mình dưới những tán lá cây xanh yên tĩnh, còn chợ và khu dân cư tấp nập – náo nhiệt thì ở dưới chân đồi.

Được Thầy Chánh Đại Diện thị hội (lúc bấy giờ cấp huyện – thị chưa có danh hiệu Ban Trị Sự) giới thiệu 1 Thầy thanh tu ẩn cư. Sau 3 lần phái đoàn chúng tôi đến tư am đảnh lễ – thiết tha – thành tâm cung thỉnh, Thầy mới nhận lời – chấp thuận về Trụ trì.

Thực hiện mô hình cơ cấu tổ chức GHPGVNTN. Sau khi trình bày – thỉnh ý, được Thầy thống nhất. Chúng tôi tập họp quý đạo hữu có uy tín, đại diện các thôn – xóm, hình thành các Chúng – Vức cư sĩ Phật tử theo từng khu phố – mỗi khu dân cư. Hưởng ứng cuộc vận động, nhận thấy quyền lợi thích đáng khi tham gia Đạo tràng. Đồng bào Phật tử truyền tai nhau: Nếu không vào Đạo tràng – không về chùa, khi gia đình riêng gặp hữu sự, thì không ai quan tâm – không đến tương trợ – không được giúp đỡ. Thế là, ngoại trừ người theo đạo Thiên Chúa Giáo. Từ những hộ gia đình đã quy y cho đến những hộ gia đình chưa quy y – chưa từng đến Chùa, ai nấy đều lũ lượt – tấp nập đổ dồn về Chùa – nhiệt thành đăng ký tham gia Đạo tràng – Tham gia các Lễ Quy Y. Kể từ đó, những đêm tịnh độ không dưới trăm Phật tử. Chưa nói đến các ngày lễ trọng, chỉ nói đến các ngày Lễ Sám Hối hàng tháng, đồng bào Phật tử về Chùa đông đảo – nườm nượp, chánh điện lớn như vậy mà không đủ sức chứa, phải đứng tràn ra ngoài sân – chung quanh Chùa, hàng hàng lớp lớp nghiêm trang chấp tay – hướng về Đại Hùng Bảo Điện – tâm thành – niệm kinh – làm lễ.

Chúng – Vức nhiều, Đạo tràng đông đảo thì GĐPT cũng khởi sắc. Số lượng Đoàn sinh tham gia sinh hoạt bình thường hàng tuần lên trên 500 – những ngày lễ – ngày trại thì tập trung quá tải. Nhờ đất vườn chung quanh Chùa rộng rãi – thoáng mát, được chia thành nhiều khu vực cho mỗi Đoàn. Lều trại – cổng trại từng Đàn – Đội – Chúng (Nam – Nữ riêng biệt), được dựng dưới những tàng cây rợp mát, cờ xí – đèn hoa giăng đầy – trang trí rực rỡ như từng khu phố thu hẹp, làm khởi sắc – huy hoàng ngày lễ. Những buổi chiều Chủ Nhật sinh hoạt – hoặc các ngày trại lễ, GĐPT đều được quý Cô – Bác đạo hữu thương yêu – ưu ái dành cho bánh trái – những thùng nước chanh – tắc – hoặc sắn dây giải khát và tổ chức những buổi cơm chay đầy đủ – suốt thời gian GĐPT ở lại Chùa.

Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT, ai nấy đều xem Chùa là ngôi nhà thứ 2 – là mái ấm thân yêu của mình, hằng ngày, không hẹn mà lên, ai nấy đều dành thời gian rảnh rỗi lên Chùa công quả, chia nhau dọn dẹp vệ sinh, xới đất trồng rau, tưới cây, chăm sóc vườn hoa – cây cảnh, trồng thêm cây xanh.

Sau khi ổn định cơ cấu tổ chức, chúng tôi tư vấn, được Thầy đồng ý. Dưới sự hướng dẫn của Thầy, chúng tôi tiến hành tổ chức – điều hành các khóa Tu Bát Quan Trai và thực tập quán niệm hơi thở – hướng dẫn tu học Phật pháp trong 1 ngày – 1 đêm, mỗi tháng 2 lần vào các ngày 14 – Rằm và 30 – Mồng Một hàng tháng. Số lượng cư sĩ Phật tử tham gia mỗi khóa tu giao động trên 7 – 8 trăm người. Ngoài số Huynh trưởng – Đoàn sinh tham gia khóa tu, các chị Ngành Thanh lớn tuổi nhận nhiệm vụ Trai soạn (nấu ăn), các em Ngành Thanh tuổi trẻ tham gia Hành đường.

Các ngày lễ trọng trong năm: Tết Nguyên Đán – Phật Đản – Vu Lan – Giỗ Tổ khai sơn (chùa cũ) – Trai Tăng – Trai Đàn Chẩn Tế, Thầy là Trưởng Ban – anh Liên Đoàn Trưởng là Phó ban điều hành Tổ Chức, tất cả Huynh trưởng và Đoàn sinh – cùng đạo hữu bổn tự tham gia trong các Tiểu Ban – Ban Tổ Chức. Trong suốt thời gian trước và sau tổ chức Lễ, GĐPT tích cức phục vụ hoàn thành các phật sự được giao. Sau khi đồng bào Phật tử thập phương trai phạn xong, thì GĐPT mới cùng Thầy thọ trai, những buổi thọ trại này, lần nào cũng vậy, đều được nhà trù – ban trai soạn thiết đãi đặc biệt ngon hơn.

GĐPT là cánh tay đắc lực, luôn luôn sát cánh cùng Thầy trong mọi hoạt động của Chùa. Mỗi lần Thầy cần – chùa có hữu sự, là GĐPT sẵn sàng có mặt. Cho nên GĐPT luôn luôn được Thầy yêu thương – cư sĩ Phật tử quý mến. Mỗi lần GĐPT tổ chức cứu trợ, tổ chức trợ cấp học bổng cho học sinh là Đoàn sinh nghèo, tổ chức các sinh hoạt quan trọng – hay đi sinh hoạt – phật sự xa, chúng tôi vào thưa trình, được Thầy hoan hỷ mở hầu bao trợ cấp, được quý Bác đạo hữu – mạnh thường quân vui vẻ ủng hộ. Mỗi lần Ban Tổ Chức Hội Chợ địa phương, mời GĐPT tham gia tổ chức các gian hàng trò chơi, hoặc GĐPT tổ chức Hội Hoa Xuân tại Chùa – gian hàng trò chơi – lô tô hoặc xổ số nhận thưởng, đều được quý đạo hữu mạnh thường quân, chủ các cửa hàng hoan hỷ – sẵn sàng – tích cực đưa các mặt hàng hóa đến từng gian hàng để hỗ trợ, qua Lễ Hội mới thanh toán – nếu hàng còn tồn đọng, vẫn vui vẽ nhận lại. Qua đây cho thấy, muốn tổ chức một ngôi chùa mạnh – một GĐPT mạnh, thiết nghĩ không khó. Với tinh thần Thân Cận Xứ – với tấm lòng vị tha cao cả – với tâm Bồ đề kiên cố, với lý tưởng son sắc, biết găn bó – hy sinh cá nhân, biết tổ chức –- biết tập hợp, có kế hoạch – có ý chí – sẵn sàng gánh vác gian nan, thì việc gì cũng làm nên – kết quả thành toàn viên mãn .

Trong giai đoạn khủng hoảng – tranh tối tranh sáng, một vài anh chị em quay lưng, Phân ban GĐPT thọc sâu tạo mâu thuẩn chia rẽ nội bộ, đa số Đoàn sinh bi lôi kéo sang Chùa tỉnh hội sinh hoạt Phân ban. BHD điều động chúng tôi về đây.

Quan điểm của chúng tôi, khi đi đến bất cứ nơi đâu, bất cứ ngôi Chùa nào. Muốn phát triển một đơn vị GĐPT, điều tiên quyết là phải thực hiện tinh thần “THÂN CẬN XỨ”, phải tiếp cận chư tôn đức tại trú xứ – tạo sự tín nhiệm ở quý Thầy. Thầy thương – thầy mến, thầy xem chúng ta là một phần thân thể vốn có – không thể thiếu, mọi tổ chức – hoạt động – sinh hoạt của Chùa – Thầy đều cần đến sự có mặt trợ duyên của chúng ta.

Vào năm 1996, chúng tôi về đây, chùa Đạt Ma – thành phố Phan Thiết – Bình Thuận. Với tâm nguyện phụng sự tổ chức Áo Lam – phụng sự Đạo pháp – phụng sự dân tộc. Trên chiếc xe 4 chỗ quá date – cũ mèm, đã cọc cạch đưaThầy trò chúng tôi lủi thủi đi đến các Chùa, trong các thành phố – thị xã – huyện – xã trong tỉnh, vận động chư tôn đức Tăng – Ni để hình thành Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận. Sau khi được chư tôn đức hứa khả, thống nhất cử chúng tôi làm Thư Ký Ban Đại Diện. Hòa thượng Trưởng Ban tiến hành tập hợp tổ chức các phiên họp hàng tháng. Đa số chư tôn đức Tăng – Ni và cư sĩ Phật tử tham gia BĐD lúc bấy giờ, hiện nay vẫn còn đó, tấm lòng trung trinh vẫn luôn luôn hướng về

Trên chuyến xe bôn ba đây đó, có lần Thầy cho xe ghé lại tư gia chúng tôi. Bà xã chúng tôi lăng xăng cúng dường nước và bánh – trái mời Thầy thọ thực. Thầy ngỏ lời động viên:

  • Anh Nguyên Hoàng (pháp danh chúng tôi) tham gia nhiều phật sự, thường xuyên đi cùng Thầy. Cô hoan hỷ để cho anh đi làm việc Phật. Anh Nguyên Hoàng làm việc Phật là lập hạnh Bồ Tát. Nhưng cô mới là một vị Bồ Tát tại gia đáng quý, nhờ cô ủng hộ – hoan hỷ giúp đỡ mọi điều kiệu và cô ở nhà tận tụy lo toan gánh vác mọi công việc gia đình, để cho anh Nguyên Hoàng an tậm đi theo Thầy làm tròn phật sự !

Bà xã tôi chấp tay cung kính Mô Phật – y giáo – đảnh lễ Thầy.

Ở đây, không như các vùng nông thôn hay huyện – thị, mỗi địa phương có một ngôi Chùa. Chùa ở đây nằm trong lòng thành phố. Trong thành phố có rất nhiều ngôi Chùa, mỗi phường cũng có vài Chùa. Người cư sĩ Phật tử ở đây về Chùa tùy thích, mỗi nhóm cư sĩ Phật tử ở mỗi phường khác nhau, mến – thích Thầy nào là về Chùa đó, không có ranh giới – mà liên kết với nhau dưới dạng da beo – không tập trung. Chúng tôi nhận thấy tổ chức loại hình chúng – vức cư sĩ Phật tử khó thực hiện được.

Chúng tôi quay ra – hằng tháng tổ chức khóa tu Bát Quan Trại kết hợp tu Chánh Niệm (quán niệm hơi thở) – thọ trai dưới hình thức khất thực (tự chọn).

Thời gian đầu, giới tử tham gia khóa tu vài chục cư sĩ Phật tử thường xuyên về chùa tịnh độ hằng đêm. Có lẽ do tiếng lành đồn xa, có lẽ hình thức tu tập mới lạ tại địa phương, có lẽ do quá trình thực tập có kết quả an lạc thực tại trong đời sống. Cư sĩ Phật tử ở các Chùa khác trong thành phố đổ dồn về tham gia tu tập, mỗi khóa tu có số lượng lên đến 7 – 8 trăm người.

Trong thời điểm đó, tôi có nghe quý vị cư sĩ Phật tử thân quen nói lại, Hòa thượng Trưởng ban Trị Sự Phật Giảo tỉnh nói:

  • Ông HT về đây thu hút hết Phật tử Chùa tỉnh hội và các Chùa khác trong thành phố.

Về phía chánh quyền gọi chúng tôi là: Nhà hoạt động tộn giáo từ đó.

Trong những khóa tu, tiếp xúc với chúng tôi, nhận thấy có nhiều thành phần xã hội, từ những anh – những bác cư sĩ Phật tử trong giới xe xích lô – xe ba bánh, đến các em học sinh cấp 2 – cấp 3 – sinh viên, có những vị cư sĩ Phật tử là giáo viên – kỹ sư – bác sĩ – thương gia V.v… mỗi người đều thể hiện tự thân tỉnh thức – nhiệt thành tham gia khóa tu. Sau mỗi năm, chúng tôi tổ chức tổng kết mãn khóa dưới hình thức truyền đăng mới lạ – hấp dẫn, mỗi người ai nấy đều nhận lại một cuốn sổ ghi nhận kết quả tu học – thực tập trong năm, làm cho giới tử ai nấy đều nhiệt thành – phấn khởi – thích thú.

Hằng năm, sau lễ Vu Lan, kết hợp cùng Thầy viện chủ tổ chức Đại lễ cúng dường Trai Tăng. Hình thành một Ban Tổ Chức khá quy mô – đầy đủ ban bệ. Tiến hành vận động tài chánh – vật thực, dự trù trên 5 ngàn phần ăn – trong đó có phát chẩn bố thí cho người dân nghèo. Chúng tôi tham gia cùng Thầy – đi khắp các Chùa trong thành phố và các huyện, đảnh lễ cung thỉnh đủ 100 chư Tăng về dự. Và tại buổi lễ này hàng ngàn đồng bào Phật tử trong thành phố về dự lễ – cúng dường và thọ trại. Nhờ kết quả các khóa tu, chúng tôi tiến hành vận động phụ huynh cho con em về tham gia sinh hoạt GĐPT.

Trong quá trình sinh hoạt, chúng tôi tổ chức mỗi Đoàn có từ 2 đến 3 Đoàn Phó (ĐP), chúng tội tận dùng cử làm ĐP các em đang học từ lớp 9 trở lên. Em đang học lớp 9 được cử vào làm ĐP, được chúng tôi bồi dưỡng – thực tập, đến năm lớp 10 các em đã quen dần – biết cách điều hành và hướng dẫn, đến năm học lớp 11 thì các em đã hoàn chỉnh. Khi em đang học lớp 12, đang là Đoàn Trưởng (ĐT), em này tốt nghiệp 12, đi Sài Gòn vào Đại học, thì em đang học lớp 11 lên thay làm ĐT và cứ phải bổ xung như thế để có nhân sự liên tục xoay vòng.

Có một câu chuyện rất hài lòng – đáng nhớ:

Có lần, trong một buổi sinh hoạt, sau giờ học Phật pháp, mỗi Đoàn tách ra sinh hoạt riêng và Đội – Chúng sinh hoạt tự trị.

Chúng tôi vòng tay sau lưng, lững thững đi quanh các Đoàn xem tình hình sinh hoạt. Chúng tôi vừa bước đến phòng của Đoàn Thiếu Nữ đang sinh hoạt, em Đoàn Trưởng – Đoàn Thiếu Nữ bước ra, đi song song bên tôi em nói:

  • Anh HT thấy không, em bây giờ cũng vòng tay sau lưng, và đi lòng vòng cũng giống như anh.

Tôi dừng lại, ngạc nhiên nhìn em, như chợt hiểu ra – tôi bật cười sảng khoái !

Chúng tôi bước trở lại phòng Đoàn Thiếu Nữ đang sinh hoạt, đứng ngoài khung kính nhìn vào, thấy khung cảnh sinh hoạt trật tự – nền nếp. Em Đoàn Trưởng giới thiệu:

  • Các bạn đang thực tập môn nữ công.

Tôi nhìn thấy các em, trên tay mỗi em đang cầm 1 khung thêu, mỗi khung căng 1 mảnh vải trắng, trong đó có lẽ là những cánh hoa sen đang thêu dang dỡ. Em Chúng Trưởng đang đi đến từng bạn, tay chỉ vào khung thêu hướng dẫn. Chúng tôi nhìn sang các Chúng khác ở mỗi góc phòng, thấy mỗi Chúng, Chúng nào Chúng nấy cũng trình tự sinh hoạt y như vậy.

Sau những năm tháng tâm huyết tận tình hướng dẫn, em nỗ lực tu học – rèn luyện – thực tập. Em bây giờ đã được trưởng thành – xứng đáng là một Đoàn Trưởng. Đây là kết quả truyền trao, chúng tôi cảm thấy sung sướng – hoan hỷ vô cùng.

Mỗi tuần sinh hoạt, chúng tôi tổ chức luân phiên mỗi Đoàn trực 1 lần, Đoàn trưởng trực tuần đó, chúng tôi ủy quyền Xử lý Liên Đoàn Trưởng. Các Anh – Chị điều hành từ A đến Z tất cả mọi sinh hoạt của đơn vị trong tuần trực. Nhờ vậy mà Đoàn trưởng nào cũng vững vàng – đủ năng lực quán xuyến tất cả. Mỗi khi có phật sự phải đi xa, chúng tôi rất yên tâm, không phải bận bịu – lo lắng.

Mỗi dịp Đại Lễ Phật Đản – Vu Lan, GĐPT đều tổ chức đêm văn nghệ cúng dường. Trước đây, mỗi lần tổ chức văn nghệ đều thực hiện trước tiền đường Chùa, phục vụ nội bộ. Khi chúng tôi về đây, chúng tôi xin phép Thầy cho dựng sân khấu lộ thiên ngoài mặt tiền Chùa – bên đường nhựa – giữa khu phố đông đúc dân cư. Nhờ đó, đêm văn nghệ thu hút hằng ngàn quần chúng tham dự, đứng tràn lan đầy đường – trên hè phố, làm cho nguồn thu lớn lao vô cùng.

Hằng năm chúng tôi đều tổ chức lễ Chu Niên đơn vị. Cứ 1 năm thì tổ chức nội bộ – trong đơn vị – trong phạm vi Chùa, 1 năm thì tổ chức rộng rãi, mời tất cả các đơn vị GĐPT trong toàn tỉnh về tham dự. Năm nào tổ chức rộng rãi, thì chúng tôi lo lắng chu toàn hơn. Chúng tôi hình thành 1 Ban Tổ Chức quy mô lớn, đầy đủ các ban bệ phục vụ. Khi tổ chức lớn, thì yêu cầu phải có nguồn tài chánh lớn để chi phí các mặt tổ chức, trong đó nguồn chi phí cho ẩm thực là lớn nhất. Nhờ vào đạo tràng khóa tu cư sĩ Phật tử nhiệt tâm ủng hộ và tham gia hỗ trợ các mặt, cho nên tổ chức năm nào cũng thành công viên mãn.

Lễ Chu Niên, trong vườn dừa rộng rãi, chúng tôi tổ chức chia ra nhiều khu vực trại: Trại trung tâm, khu vực mỗi Đoàn Nam – Nữ riêng biệt. Trước khu vực trại mỗi Đoàn có 1 cổng trại, có giây găng chung quanh làm hàng rào, chia ranh giới. Trước mỗi lều Đàn – Đội – Chúng đều có 1 cổng trại – trong mỗi lều đều có thiết trí 1 bàn Phật trang nghiêm, hoa – quả đầy đủ.

Có một phòng triển lãm, được chia ra làm nhiều khu vực trưng bày sức sống của Đơn vị – của mỗi Đoàn – mỗi Đàn – Đội – Chúng. Trước đó, các ngày Chủ Nhật, dưới sự hướng dẫn của Đoàn trưởng, các em Đoàn sinh tập trung về Chùa, khẩn trương thực hiện các sản phẩm để trưng bày triển lãm.

Dễ thương nhất là các em Oanh Vũ, Nam có – Nữ có, với bàn tay nhỏ nhắn – xinh xắn, các em đã cặm cụi – chăm chỉ làm ra những sản phẩm theo ý tưởng của riêng mình đã tu học được.
Đêm văn nghệ Chu Niên, chiều hôm đó mưa bay lất phất. Anh Đoàn Trưởng – Đoàn Thiếu Nam phụ trách sân khấu, vào thưa với chúng tôi, cho phép các anh chuyển sân khấu vào trước tiền đường Chùa, lúc ấy chúng tôi đang tiếp chuyện với chị Phó Trưởng Ban Ngành Nữ Ban Hướng Dẫn. Được sự đồng ý, toàn thể Nam Huynh trưởng và Đoàn sinh túa ra, mỗi người 1 tay chuyển sân khấu vào tiền đường. Sau khi anh ĐT bước ra, Chị PTB nhắc nhở chúng tôi:

  • Tại sao anh không ra hướng dẫn cho anh em làm, mà lại để cho AE tự làm có được không vậy ? Tôi nói với Chị:
  • Thưa Chị ! AE tự chủ làm rất tốt. Em xin đưa chị ra xem.

Khi chúng tôi đưa chị đến tiền đường, thấy sân khấu được thiết trí lại, đâu vào đó rất đẹp đẽ. Chị nhận xét – khen:

  • Tôi nhận thấy, Anh hướng dẫn – điều hành đơn vị, tổ chức các mặt sinh hoạt – các hoạt động rất tốt.

Trong quá trình vận động tái sinh hoạt, có 1 em Đoàn sinh Thiếu Nữ. Gia đình em theo Thiên Chúa Giáo, nhưng em xin gia nhập GĐPT. Gia đình em không đồng ý, mỗi ngày Chủ Nhật sinh hoạt, bằng mọi cách, em trốn tránh gia đình để vđến Chùa sinh hoạt. Có lần mẹ em đến Chùa gặp chúng tôi, nói rõ trường hợp và ý kiến của gia đình. Sau khi nghe chúng tôi trình bày tường tận về mục đích hướng thiện con người của tổ chức GĐPT. Bà gọi em vào, nghe ý kiến quyết tâm của em, bà đành nhượng bộ đồng ý, và xin chúng tôi cho gửi gắm con em sinh hoạt GĐPT.

Còn có một em Đoàn sinh Thiếu Nữ, gia đình em từ miền Bắc chuyển vào, cả cha – mẹ đều là đảng viên – cán bộ cấp tỉnh. Mỗi lần đi sinh hoạt, em luôn luôn bị cha – mẹ ngăn cấm, không cho em sinh hoạt GĐPT. Em đến Chùa khóc nấc nở, các bạn đưa em vào Đoàn quán gặp chúng tôi, chúng tôi trấn an, hứa hẹn với em sẽ đến tư gia gặp cha – mẹ em. Được các em Đoàn sinh hướng dẫn, tôi vào nhà gặp cha – mẹ em. Có lẽ như biết trước mục đích, sau khi mời uống nước, 2 ông bà im lặng nhìn chúng tôi. Chúng tôi tình cảm chân thành, trình bày mục đích hướng thiện cao cả của tổ chức GĐPT, và cũng nhằm mục đích góp phần cống hiến hiền tài cho đất nước. Sau khi nghe chúng tôi trao đổi, 2 ông bà im lặng, có lẽ đang suy ngẫm. Ông lên tiếng:

  • Chúng tôi là đảng viên, gia đình không có tín ngưỡng tôn giáo. Từ trước đến nay, chúng tôi chưa từng nghe ai phân tích tỉ mỉ về tinh thần Phật Giáo và đủ sức thuyết phục như anh.

Qua lời trình bày của anh, chúng tôi đã nhận thấy được sự lợi ích thiết thực của Phật Giáo.

Chúng tôi đồng ý cho cháu tham gia vào GĐPT. Chúng tôi tin tưởng gửi cháu cho các anh, kính mong các anh quan tâm thay gia đình dạy dỗ cháu nên người !

Hai ông bà vui vẻ bắt tay, tiễn đưa chúng tôi ra đến tận cổng.

Hàng tháng, cứ đến kỳ Lễ Sám và các dịp Lễ Phật Đản – Vu Lan, chúng tôi đều thấy 2 ông bà thường xuyên đưa các con của mình lên Chùa tham dự lễ. Những kỳ họp phụ huynh và vào dịp Lễ Chu Niên hằng năm, nhận được thừ mời, 2 ông bà cũng đến đơn vị để dự lễ.

Sau khi ổn định sinh hoạt đơn vị GĐPT, chúng tôi tiến hành vận động thành lập Ban Đại Diện GĐPT liên huyện – thành phố. Chúng tôi được tập thể cử làm nhiệm vụ thư ký.

Hai anh Trưởng và Phó BĐD, có anh sinh hoạt trước 1975 có anh anh mới sinh hoạt sau này. Có lẽ vì lớn tuổi, cho nên hiểu biết về tổ chức không nhiều. Mỗi lần chúng tôi lên đề án tổ chức sinh hoạt, vì muốn được việc – đạt kế hoạch trong năm, với chiếc Vetba cà tàng, chúng tôi phải đến tận tư gia từng anh để tư vấn – xin ý kiến cụ thể, sau khi được thống nhất, mới tổ chức phiên họp trển khai phật sự, thành lập Ban Tổ Chức – Ban Quản Trại V.v….

Những năm tháng ở đây, chúng tôi cùng nhau kết hợp các đơn vị GĐPT, tổ chức nhiều khóa tu học các bậc học, tổ chức Trại Dũng, Trại Hạnh, trại dã ngoại vượt núi cao, trại huấn luyện Tuyết Sơn – Đầu – Thứ Đàn, Trại huấn luyện A Nô Ma – Ni Liên Đội – Chúng Trưởng, và Trại huấn luyện Huynh trưởng sơ cấp Lộc Uyển …

Năm 2004, chúng tôi được Ban Hướng Dẫn chuyển sinh hoạt về đây, chùa Huyền Long – thị xa Lagi – Bình Thuận. Chúng tôi được mời vào làm thư ký Ban Hộ Tự. Khi đến đây, đơn vị GĐPT Khánh Long sinh hoạt lèo tèo vài mươi Đoàn sinh. Do hiểu biết cách tổ chức mà Chư Tôn Đức trước năm 1975 đã chỉ dạy, và chúng tôi đã thực hiện thành công tại một số địa phương. Căn cứ địa giới hành chánh địa phương, chúng tôi chia thành 13 khu dân cư Chúng Cư sĩ Phật tử.

Chúng tôi mới tiến hành thành lập được 2 chúng Cư sĩ Phật tử, đồng bào Phật tử địa phương nô nức về chùa. Mỗi buổi Lễ Sám, ngôi chánh điện lớn như vậy mà không đủ sức chứa, người dân phải đứng tràn ra ngoài sân – chung quanh chùa, chúng tôi hướng dẫn qua loa, mọi người nghiêm trang chấp tay, hướng vào Đại hùng Bảo điện làm lễ.

Hằng tháng chúng tôi tổ chức các khóa tu Chánh Niệm, số lượng Giới tử tham gia thường kỳ lên đến 7, 8 trăm người. Có lần chúng tôi tổ chức Lễ Phóng Sanh Đăng, dự kiến làm 1 ngàn cây đèn hoa. Nhưng khi đến giờ làm lễ, hàng ngàn người dân cả làng đổ xô về chùa. Chúng tôi thông báo trên loa phóng thanh, đồng bào tự động vào các quán bán tạp hóa bên đường, mỗi người tự mua cho mình 1 cây đèn nến cầm tay, có người trên tay không có đèn nến, vì không còn có quán nào còn nến để bán. Số lượng người quá tải, Ban Tổ Chức bó tay không còn xắp xếp được theo từng hàng quy định, người dân đi – đứng tràn lan hết cả con đường to lớn. Đoàn dẫn đầu đã đến cửa biển, cách xa hơn 2 ngàn met, mà cái đuôi vẫn còn ở trước cổng chùa và số lượng người vẫn còn kẹt 2 bên lề đường chưa nhập đươc vào đoàn. Nhận được thông tin, an ninh tỉnh vào gặp chúng tôi, được chúng tôi trấn an, cuộc lễ Phóng Sanh Đăng vẫn trình tự diễn ra tốt đẹp.

Đạo hữu đông thì GĐPT cũng đông, số lượng Đoàn sinh lúc bấy giờ tăng lên trên 2 trăm 5 mươi ĐS. Nếu chúng tôi tiếp tục tiến hành hình thành đủ 13 chúng Cư sĩ Phật tử, thì thử hình dung, số lương Đoàn sinh tăng lên biết bao kể xiết. Sau khi rời quê hương ra đi xuất cảnh, khi chúng tôi trở về lại, nhìn thấy chùa đìu hiu, đạo tràng tu chánh niệm không còn hoạt động, GĐPT rơi rớt còn lại vài chục em. Như vậy thì đủ biết rằng, người H.Tr được giao lại, không đủ khả năng – không điều hành được tổ chức (nhân chứng sống vẫn còn đó).

Tôi tiếp xúc Ban Huynh Trưởng, thì được nghe nói, Sư Cô tham quyền, nhận chức Phó Ban Trị Sự thị xã, nghe lời giáo hội – nghe lời chánh quyền, nhiều lúc Sư Cô đóng cửa chùa, không cho GĐPT vào chánh điện làm lễ, không cho tổ chức trại – không cho tổ chức văn nghệ vào các dịp lễ tại chùa.

Sau thời gian rời chùa, chúng tôi về lại, tham gia đạo tràng – tịnh độ hằng đêm, hy vọng tiến hành kế hoạch sắp đến. Qua tiếp xúc gần gũi, qua những lần thầy trò tâm sự, Sư Cô cho biết:

  • Sư Cô rất thương mến GĐPT. Như thời gian qua Chú về lại chùa, Chú Nguyên Hoàng đã thấy rồi đó, những buổi về chùa sinh hoạt, Ban Huynh Trưởng xem quý Chư Ni như người xa lạ, có bao giờ vào gặp gỡ – chào hỏi – trao đổi thân tình.

Có lẽ Ban Huynh Trưởng thiếu tinh thần Thân Cận Xứ, nên các em GĐPT đành phải mất trắng – lủi thủi mồ côi.

Trước tình hình GĐPT tại đây èo uột – thiếu sức sống, Phân ban GĐPT xâm nhập lấn áp phá rối. Năm 2010, Ban Hướng Dẫn điều động chúng tôi về đây GĐPT Khánh Hiệp, thị xã Lagi, Bình Thuận củng cố lại đơn vị. Sau khi anh Liên Đoàn Trưởng từ trần, tôi tiếp nhận một đơn vị sinh hoạt lèo tèo chỉ có hơn 10 em. Chúng tôi cố gắng củng cố phục hồi sinh hoạt lên dần 5, 6 chục em. Trước đây, vào các ngày lễ, nhà bếp không cho các em ăn cơm, các buổi chiều Chủ nhật sinh hoạt, không cho các em vào uống nước. Thầy không thường xuyên ở chùa, Ban Hộ Tự lấn át, đạo tràng tách ra riêng tư. Chùa mất đoàn kết, chia ra làm 2, 3 phe nhóm. Khi chúng tôi về đây thì khác, hằng đêm tôi về chùa, các đạo hữu Nam trí thức dần hồi về chùa lại, trong đó có cả giáo viên, có đêm lên đến trên 20 người, cùng nhau uống trà đàm đạo – hướng dẫn Thiền tập. Có lúc vì lý do công việc, chúng tôi vắng đến chùa, thì chùa trở lại vắng teo. Có đêm tôi về lại chùa, thì Bác Ban Hộ Tự vội vàng nhấc máy gọi báo từng người một: Có anh Tâm về chùa, mau mau gọi nhau lên chùa. Thế là anh em lần lược lại về chùa, làm cho không khí ngôi chùa rộn rã – vui tươi hẵn lên. Chúng tôi gắn kết các nhóm lại với nhau, tuy bằng mặt – nhưng không bằng lòng. Còn GĐPT thì được quý bác ưu ái thương yêu. Các ngày lễ, GĐPT được ưu tiên hai dãy bàn dài đầy ắp thức ăn – thức uống đặc biệt, các ngày chủ nhật sinh hoạt, quà bánh – nước giải khát được quý cô trong đạo tràng gửi đến ăn – uống thừa mứa.

Vì Thầy không thường xuyên có mặt ở chùa, chúng tôi không trình bày được kế hoạch – thống nhất thực hiện chúng – vức cư sĩ Phật tử. Chúng tôi lên kế hoạch phát triển đơn vị. Chúng tôi xuống tận dưới làng, vận động bà con về chùa. Chúng tôi gặp quý Bác đạo hữu, trong đó có Huynh trưởng và Đoàn sinh kỳ cựu trước đây. Trước đây vì tranh chấp ảnh hưởng hơn thua, bị Ban Hộ Tự đương nhiệm đang nắm quyền hành trong tay, cấn cái – xem thường – ruồng rẫy đẩy đuổi ra khỏi chùa. Các Bác và các Huynh trưởng – Đoàn sinh kỳ cựu, đề nghị chúng tôi thành lập Ngành Thanh, họ sẽ kẻo cả dân làng về hết gia nhập GĐPT, còn con em thì tùy vào lứa tuổi mà vào các Đoàn. Hởi ôi ! Nếu tôi mà đồng ý, thì chùa trở thành một bãi chiến trường, đấu tranh khốc liệt, một còn – một mất.

Vào dịp lễ Phật Đản, Thầy mời họp để phân công phụ trách ngày lễ. Oái oăm thay, Thầy không giao cho các Bác Ban Hộ Tự, mà đề nghị thẳng chúng tôi thủ chương trình, tôi vô tình nhận điều hành buổi lễ. Ngờ đâu vì tự ái, bị Thầy xem thường, nghĩ rằng tôi hớt tay trên, làm danh dự mấy bác mất mặt. Một cuộc chiến tranh lạnh âm thầm diễn ra. Vì bảo vệ tôi, đạo tràng lại tách ra, đấu võ mồm tay đôi với nhau kịch liệt. Chúng tôi vào đề nghị Thầy chủ trì xử lý vụ việc, nhưng thầy lúng túng, không biết phải ngã về bên nào. Vì mong muốn để cho Thầy được yên tĩnh, vì mong muốn để cho ngôi chùa được êm ấm, chúng tôi đành phải chấp nhận lui về. Còn ở đó thì 2 phe cứ tranh chấp với nhau diễn ra âm ỉ mãi mãi. Còn một phe ở dưới làng, thì âm thầm chực chờ thời cơ bộc phát ./-




TƯ TƯỞNG DUY MA CẬT

TƯ TƯỞNG DUY MA CẬT
ĐẠI BIỂU LÝ TƯỞNG CHO GIỚI CƯ SĨ PHẬT TỬ TẠI GIA

Kinh Duy Ma Cật, được mang tên trưởng giả Duy Ma Cật, một cư sĩ giàu có, sống cuộc đời thế tục, nhưng vẫn đi lên trên con đường Bồ tát hạnh. Từ mười điều phi pháp, dẫn đến ngã rẽ các bộ phái Phật giáo tại thành Tỳ Xá Ly, Kinh Duy Ma Cật đã có mặt sớm nhất, nhằm mục đích phát triển đại thừa. Kinh Duy Ma Cật là cái nôi kiến giải tư tưởng đại thừa, đưa đạo vào đời, thực tiễn trong đời sống dân sinh, hướng đến giải thoát, nhưng không bị đời làm ô nhiễm. Với cái nhìn khách quan, bằng trí tuệ bát nhã, Duy Ma Cật soi rọi vào lòng xã hội nguồn văn hóa tri thức vô ngã, đây là một tinh hoa siêu việt, vươn lên trên sự nghiệp xiển dương đại thừa.

Tư tưởng Phật giáo trước giai đoạn đại thừa, hình ảnh người tu sĩ xuất gia, có cuộc sống nghiêm mật, giới luật tịnh hạnh, được xem là đối trọng. Nhưng thành quả của Duy Ma Cật, một thương gia giàu có, có gia đình, sinh sống tại thành Tỳ Xá Ly, được giới cư sĩ hướng đến tôn vinh, là một thánh giả thượng sĩ tại gia quán chúng nổi bật, ông là đại biểu lý tưởng cho giới cư sĩ Phật tử tại gia. Tư tưởng Duy Ma Cật tạo nên một luồng sinh khí mới mẽ, trẻ trung hóa Phật giáo, được hình thành từ đại chúng. Từ tục đế mà phương tiện diệu hữu, đem lợi ích thiết thực tại nhân gian: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” không cần thiết phải từ bỏ thế tục, vẫn thực hiện được chí hướng giải thoát. Quan điểm trọng yếu của kinh Duy Ma Cật là tính không của tất cả các pháp. Trong tính không này đều có hữu lẫn vô, đều được hợp nhất, bất nhị, đó là nền tảng giáo lý của Duy Ma Cật.

Bất nhị rất khó diễn bày, 32 vị Bồ tát (chương thư 3 – phẩm Chúng đệ tử), khó trình bày được hết tinh túy. Ngay cả Văn Thù Sư Lợi, hiện thân của trí tuệ siêu việt, cũng chưa phân tích được rốt ráo, bởi vì ngôn ngữ trần gian đạo đoạn, làm sao diễn tả được hết sự uyên thâm của tư tưởng bất nhị. Bằng sự im lặng sấm sét, mặc như tôi, Duy Ma Cật đã lột tả được tinh thần siêu việt bất tư nghị.

Kinh Duy Ma Cật, minh họa nên chân dung người cư sĩ Phật tử, hướng đến giải thoát, áp dụng tri kiến tánh không trong cuộc sống đời thường. Kinh Duy Ma Cật, diễn tả khung cảnh trưởng giả Duy Ma Cật thị hiện thân lâm trọng bệnh tại tư gia, nhằm mục đích chuyển hóa nhân sinh. Đức Thế Tôn đã cử các đại đệ tử đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật, nhưng tất cả đều thoái thác, vì đã từng được trưởng giả Duy Ma Cật, chỉnh sửa sai sót trong những lần thừa hành Phật sự, nên không ai dám thay Phật đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. Cốt tủy uyên áo của kinh Duy Ma Cật được cô đọng tại chương thứ ba, phẩm Chúng đệ tử. Tại đây đã nêu lên lập trường thiền đại thừa. Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật:.

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. Vì sao vậy? Con nhớ lại, có lần, con đang ngồi tĩnh niệm dưới tàn cây trong rừng, Duy Ma Cật đến đó, và bảo con rằng: Kính thưa ngài Xá Lợi Phất, bất tất ngồi như vậy mới là ngồi tĩnh niệm. Hiện thân và ý mà không ở trong ba cõi, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện các oai nghi mà vẫn không xuất khỏi diệt tận định, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện thân làm các việc phàm phu mà không xả Đạo pháp, ấy mới là tĩnh tọa. Tâm không trụ trong, không trụ ngoài, ấy mới là tĩnh tọa. Tu hành ba mươi bảy phẩm mà không làm dao động các kiến chấp, ấy mới là tĩnh tọa. Nhập Niết bàn mà không đoạn trừ phiền não, ấy mới là tĩnh tọa. Ngồi được như vậy, thì mới được Phật ấn khả”.

“Si và hữu ái là nguồn gốc của bệnh tôi. Vì hết thảy chúng sinh bệnh mà tôi bệnh. Bao giờ hết thảy chúng sinh đạt đến chỗ không bệnh, bệnh tôi sẽ hết. Vì sao? Bồ tát, vì chúng sinh mà đi vào sinh tử. Có sinh tử thì có bệnh. Nếu hết thảy chúng sinh được thoát ly bệnh khổ thì Bồ tát không còn bệnh. Ví như, vị trưởng giả chỉ có đứa con một; khi người con ấy bị bệnh, cha mẹ nó cũng bị bệnh. Nếu nó bình phục, cha mẹ nó khỏe. Cũng vậy, Bồ tát yêu thương chúng sinh như cha mẹ yêu con, nên chúng còn bệnh thì Bồ tát còn bệnh; khi chúng hết bệnh, Bồ tát khỏe! Câu hỏi tiếp theo: Bệnh của Bồ tát từ đâu phát sinh? – Bệnh của Bồ tát xuất phát từ tâm đại bi”.

“Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.

Bộ kinh Duy Ma Cật, tổng hợp toàn bộ tư tưởng đại và tiểu thừa. Với trí tuệ bát nhã quán chiếu, hành giả chắt lọc những tinh túy, rút ra những tinh hoa làm trang nghiêm thân tâm, thăng hoa cuộc sống. Với hạnh nguyện vị tha, đem nguồn giáo lý giác ngộ thù thắng, soi rọi cuộc đời, kiến tạo xã hội văn minh, hạnh phúc. Huynh trưởng cư sĩ Phật tử, thực tập tinh thần Duy Ma Cật, với tâm lượng từ bi, với nhận thức trong sáng, xây dựng hoàn chỉnh tự thân, chuyển hóa tha nhân, góp phần kiến tạo xã hội toàn thiện, thịnh lạc, tịnh độ nhân gian ./-




TƯ DUY NGÀY THÀNH ĐẠO

TƯ DUY NGÀY THÀNH ĐẠO
– Phan Văn Huy Tâm –

Nếu không có sự giác ngộ của Đức Phật, thì không có sự hiện diện của Đạo Phật. Con người lịch sử ấy đã đi vào lòng nhân loại với một kho tàng tinh hoa tư tưởng bát ngát, đong đầy tinh thần từ bi – vị tha – vô ngã bất diệt, làm xua tan rào chắn bất công, khai phóng ý thức hệ vô minh, nô lệ đặc quyền, đáp ứng vẹn thỏa mọi nhu cầu bức thiết trong đời sống xã hội. Bằng một phong cách tĩnh tại.

Đạo Phật đi đến đâu thì kiến tạo hòa bình đến đó, mỗi bước đi của Đạo Phật chưa bao giờ nhuộm máu thương đau, làm tổn thương đồng loại. Âm hưởng của Đạo Phật bàng bạc, tồn tại mãi mãi giữa cõi đời này bất biến đến muôn sau.

Đối diện trước thực tại khổ dau mà chúng sinh phải hứng chịu. Bốn nỗi khổ lớn: Sinh – lão – bệnh – tử, luôn luôn đè nặng lên kiếp nhân sinh. Với tình thương bao la, với chí nguyện đại hùng – đại lực, biến khổ đau thành hành động thực tiễn, xác định lí tưởng phụng sự, lấy tha nhân làm đối tượng giác ngộ. Thái tử Tất Đạt Đa mạnh dạn xả bỏ nếp sống phù du mong manh, là vật ngoại thân, vượt dòng A Nô Ma, lên đường giải thoát

Sinh – tử được chi phối bởi nghiệp lực, hình thành nhân quả, chịu sự quán tính luân hồi. Giải thoát là vượt qua, là ý chí thù thắng, quyết định vươn lên vòng xoáy quy luật quán tính.

Nghiệp, được cấu thành bởi lời nói và hành vi tạo tác. Do lời nói – hành vi nhất định mà hình thành nhân quả tốt xấu, tác động lên tái sinh, dẫn dắt đi suốt sáu cõi luân hồi. Muốn vượt thoát vươn lên quy luật luân hồi, là phải quyết định dứt nghiệp.

Bên dòng Ni Liên Thuyền, với chí nguyện sâu sắc:

“Nếu không thành đạo, dù thịt nát xương tan, quyết không rời cội Bồ Đề”

Phía sau sự thành công lúc nào cũng lưu lại những vết tích tàn phá thương đau. Sự Thành Đạo của Đức Phật, không phải được dễ dàng thăng hoa. Trên hành trình năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh và suốt bốn mươi chín ngày đêm hành thiền, Đức Phật nếm trãi biết bao nghiệt ngã, dẫy đầy cam go thử thách, lắm lúc ngỡ rằng gục ngã trước khổ đau. Bằng cả một quá trình công hạnh, với đạo lực kiên cường, bằng năng lực từ bi, bằng đỉnh cao trí tuệ bát nhã, Đức Phật tĩnh tại nhận thức, nguyên nhân của sinh tử là phiền não.

Sự sống không thật có, được hiển bày bởi hiện tượng duyên khởi, do vận hành của nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt, vô thủy vô chung, không từ đâu đến và rồi cũng không đi về đâu. Trong nhân có quả, trong quả có nhân, nối tiếp không dừng, chỉ vì động dụng vô minh mà có sinh có diệt. Nhận chân được thực tướng năm uẩn vô ngã, trong phiền não có Bồ đề, niệm trước là vô minh tác ý não loạn, niệm sau là giác ngộ giải thoát, Đức Phật đã diệt tận lâu hoặc, vô úy vượt qua – chứng ngộ – thành toàn đạo nghiệp cao cả.

Bằng tuệ giác thực chứng, với bản hoài tự giác viên mãn, khi ánh sao mai vằng vặc xuất hiện trên bầu trời xanh trong vắt, rời gốc Bồ đề, Đức Phật tuyên bố:

“Như Lai là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”

Đã khẳng định: Tất cả chúng sinh đều có quyền bình đẳng như nhau, đều có thể tinh tấn để đạt đến quả vị giác ngộ thành Phật.

Đức Phật là một người bình thường như những người bình thường khác, cũng thân mạng do tứ đại hợp thành, cũng đói ăn – khác uống, cũng sử dụng cùng ngôn ngữ xã hội, cũng chi phối bởi quy luật vô thường.

Nhưng Đức Phật là một bậc phi thường – kỳ vĩ. Đức Phật đã đại hùng – đại lực vượt lên trên đời sống ngũ dục, luôn luôn ưu tư khắc khoải hướng đến chân lý siêu việt. Với tuệ giác vô lậu, đoạn tận gốc rễ vô minh phiền não, thâu suốt pháp tánh duyên khởi, phát Bồ Đề Tâm, thực hành sáu pháp Ba La Mật, nhiêu ích quần sinh, thành tựu vô thượng chánh đẳng – chánh giác.

Sự thành đạo của Đức Phật đã soi rọi một cái nhìn mới – một tư duy mới. Mọi hiện hữu đều dung thông với nhau. Ảo vọng cho sự tồn tại của cá thể tự tôn – độc lập, chỉ là ảo tưởng điên đảo, được khởi lên bởi vọng tưởng vị kỷ – ngạo mạn mù quáng. Những cái nhìn cục bộ phiến diện do nhận thức vụng dại sai lầm ấu trỉ từ bản ngã biến động phàm tục, đã đẩy nhân loại chênh vên bên hầm lửa tự hủy diệt.
Tư duy mới không thiết lập trên bản chất hữu ngã, mà hình thành trên tự tánh chứng nghiệm vô ngã. Không phục vụ cho bản ngã cá thể, mà nhằm mục đích hiển thị lợi ích cho toàn thể, thành tựu nhiêu ích cho vạn hữu, và sự tồn tại dòng sinh mệnh.

Hãy giải thoát cho nhau những ràng buộc của tham sân si – cố chấp – tà kiến. Hãy mở cho nhau những ràng buộc mù mờ vô lối, những qui ước phàm tục. Hãy hiến tặng cho nhau những tự do – nhân chủ căn bản. Từ đó cùng nhau thực tập bước tới quả vị giác ngộ hoàn toàn, đem lại lợi lạc cho nhân quần xã hội.

Đức Phật đã hiện hữu sống động thực tế, quên mình vì người, viên mãn hạnh nguyện độ sinh. Mặc dù Đức Phật an trú Niết bàn tịch tịnh cách nay 2561 năm, nhưng suối nguồn tuệ giác vi diệu luôn luôn tuông chảy ngọt ngào trong hàng triệu con tim dạt dào phật chất, hướng tới thường – lạc – ngã – tịnh ./-




TỰ CHỦ HIỆN TƯỢNG KHÔNG NHƯ

TỰ CHỦ HIỆN TƯỢNG KHÔNG NHƯ

Khi mặt nước đã được tĩnh lặng, thì phản ánh in hình mồn một các hiện tượng trôi qua

Tâm đã được tĩnh lặng trong suốt, hành giả nhận chân được hiện thực tâm hành. Những trạng thái giận hờn – sợ hãi – lo lắng – tuyệt vọng được xuất phát từ tâm hành. Nhờ chánh niệm tỉnh thức mà nhận diện được sự thật một cách trung thực

Nhờ thực tập quán niệm tỉnh thức, hành giả kịp thời phát hiện được tâm hành thất tình: mừng – giận – buồn – vui – thương – ghét – muốn, biết làm lắng dịu được cảm xúc vừa phát khởi. Tự chủ không dễ dàng bị chi phổi bởi hiện tượng không như làm căng thẳng đau nhức, làm đổ vỡ những tấm chân tình

Sự phá rối của thế quyền, sự không đồng tình của giáo hội, sự khủng hoảng – chia chẻ làm phá sản GĐPT, sự e dè thờ ơ của xã hội, nó chỉ là hiện tượng. Đã là hiện tượng thì chỉ là khách thể – thứ yếu – không như, thời gian rồi sẽ được đánh giá lại
Điều quan trọng là ở nội tại, tự thân đã xác tín được lập trường, đã định hướng được hướng đi, hay chỉ lập dị, lưỡng tính, chưa được đồng nhất. Lắm lúc, dường như đã được xác định phải như thế này, nhưng khi đụng việc, lại bân khuân lo lắng, sợ bị đánh giá, rồi lại dối lòng, quay ngoắc ứng dụng như thế khác. Diễn biến này là một sự thật, đang được diễn ra ở hai luồng tư tưởng lập dị trong một chủ thể!?…

Nhiều cấp huynh trưởng nhìn thấy sự thật thiếu rõ ràng, chưa dứt khoát này, làm ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý, mơ hồ, lung lay lập trường, khó quyết đoán được. Lắm lúc muốn tự tìm ra một giải pháp ôn hòa, bình thường hóa cho sự sinh hoạt tại mỗi địa phương, nhưng không để tách rời quần thể. Nhưng vấp phải sự ràng buộc cơ chế, làm lúng túng trong sự tự ứng xử

Nhà nước – cộng với sự tiếp sức của giáo hội, tham vọng triệt buộc, đưa GĐPTVN vào quĩ đạo để dễ dàng quản lý thao túng, lôi kéo không được, quay ra triệt tiêu, đánh đuổi. Nhà nước – giáo hội đã thấy được các mặt tích cực thánh thiện của GĐPT, nhận thấy mình sai lầm, nhưng đa nghi lo lắng vu vơ, để cho quán tính càng lúc càng sa lầy lún sâu. Tư trào văn hóa GĐPT dân lập, tự thân cứ vô úy kham nhẫn, chịu đựng bền bĩ vươn lên. Nhưng hàng ngũ lãnh đạo, nhìn bề mặt, thấy có thống nhất ý chí, bên trong mỗi cá thể còn có tư ý, chưa đồng nhất, dè chừng vị nể nhau. Nhiều đơn vị GĐPT địa phương bị khoáy rối – đẫy đuổi, trung ương không có giải pháp thực tiễn, có người còn chùn lòng, thiếu quả cảm, không dám đối mặt với thực tại, vô tình đánh mất lòng tin

Tiêu diệt thì không được, bởi vì tư trào văn hóa GĐPT còn có một đội ngũ vững vàng, khi được tập hợp lại thì hùng mạnh đến vô cùng, khó mà tiên liệu trước được, và sau lưng còn có đông đảo quần chúng ủng hộ. Còn bảo theo thì không xong rồi, bởi vì mỗi bên còn có cái nhìn chưa thoáng, đâu đó còn vướng bẩn rong rêu. Không biết cuộc chiến tâm lý này rồi sẽ đi về đâu! Nhà nước – giáo hội – GĐPT, như đang nhai phải một sợi gân gà, nuốt vào thì không đặng, nhưng nhả ra thì nuối tiếc. Cái tự ái của mỗi bên đang nấc nghẹn trong mỗi cuốn họng, làm cho cứ mãi âm ỉ ấm ức mỗi lòng

Lam Nhã Thảo Am, 22602014




TƯỞNG NIỆM ANH NGUYÊN Y

TƯỞNG NIỆM
“Hôm nay anh về – vùng quê hương mới xa xôi
“Sáng hồng lên ngôi – đàn em bổng vắng anh rồi
“Anh đi không hẹn – ngày về thăm lũ chim non
“Chuông rung gát chùa – còn rung những bước âm thầm…”

Bài hát đã đưa bước chân tôi nối gót các anh – chị trong Ban Hướng Dẫn Trung Ương, đến tại tư gia, dự lễ húy kỵ anh Nguyên Y – Lương Hoàng Chuẩn.

Cái nắng gay gắt của Sàigòn, không làm cho chúng tôi nao núng, mặc dù trên vai áo, ai nấy đều thấm đẫm mồ hôi. Tất cả chúng tôi đều quì thẳng tắp, trang nghiêm sau lưng chị Lương Thị Khiêm Cần, con gái anh Chuẩn, cũng là một chị trưởng, bây giờ đã là ni cô Thích Nữ Huệ Ngạn. Trước hương án trầm hương quyện tỏa, dị khẩu đồng âm, chúng tôi hòa theo nhịp mỏ, lời kính cầu cứ âm trầm đầm ấm vang lên siêu thoát.

Ôi ! con chim đầu đàn của ngày nào, hôm nay không còn nữa. Mất anh rồi, thế gới này bổng vắng tênh. “Oanh vũ cồ” của muôn vạn chim lam thuở nào, giờ đây đã bay vào vô tân, bỏ lại sau lưng anh, biết bao đàn em cứ mỗi ngày mỗi lớn khôn thêm. Để rồi hôm nay em lại về, chỉ còn lại đây, với di ảnh, ánh lên ánh mắt trầm hùng, dõi theo từng bước đàn em.

Ngày anh ra đi, còn thuyền lam lạc vào cơn bão dữ, say mèm chuếnh choáng, nhiều lúc cứ ngỡ rằng vùi dập giữa đại dương. Nhưng may mắn thay, nối bước theo anh còn có biết bao tay chèo vững chãi, con thuyền lam lại tiếp tục dương buồm, vững vàng ra khơi.

Anh mất đi, nhưng cái tinh anh trong anh không mất trong hàng vạn trái tim lam, cuộc đời ngời sáng của anh, luôn luôn soi rọi cho chúng em đi tới. Và mỗi lần lá cơ nền xanh hoa sen trắng được phất phới – tung bay giữa trời lộng gió, thì hình ảnh của anh, được hiển hiện rõ ràng trước hàng trăm vạn lời tung hô tinh tấn, và anh vẫn mãi mãi trong mọi trái tim lam là “Oanh vũ cồ” muôn thuở./-

Lam Nhã Thảo Am, 02092554 – 09102010




TU BÁT QUAN TRAI GIỚI

TU BÁT QUAN TRAI GIỚI

Sinh ra có được thân người đã khó, tiếp cận được chánh pháp lại càng khó hơn.

Thực tập tu học, nhằm mục đích thanh lọc nghiệp xấu ác, tăng trưởng nghiệp thiện lành. Không gieo trồng tạo tác nhân xấu thì không gặt hái thu hoạch quả xấu. Nhân quả là qui luật tất yếu không thể loại trừ được, dù cho đã đạt đến thánh quả, vẫn phải trả nghiệp. Nợ đã lỡ vay mượn, thỉ phải thanh toán chi trả cho xong, không tránh trút được, “Thánh nhân sợ nhân, chúng sinh sợ quả”

Các tôn giáo đều tán thành việc tiêu trừ những điều xấu, phát triển điều tốt, hạn chế ích kỷ, phát triển lợi ích cho mọi người, nhưng ở Đạo Phật thì khác

Phật: Là giác ngộ – giải thoát, tu học phật pháp, nhằm phát triển tuệ giác, đạt đến quả vị Phật Đà, “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”, đủ năng lực giác tha

Tam nghiệp: Thân – Khẩu – Ý. Nếu hướng ba nghiệp đến hành vi xấu ác thì cửa địa ngục được mở ra. Hành giả ứng dụng thân khẩu ý thực tập hướng thiện cuộc sống thì trạng thái an lạc giải thoát được hiển bày

Đời sống thì quá nhiều đau khổ, “Ta bà khổ, ta bà chi khổ”. Thực tập tu học, nhằm mục đích giải phóng khổ đau, phát sinh trạng thái an lạc – giải thoát

Nhiều pháp môn thực tập tu học được Phật – Tổ bày ra, nhằm mục đích đưa hành giả đạt đến quả vị an lạc – giải thoát. Kinh văn đã ghi nhận, trong thời mạt pháp, chánh pháp dần dần thiếu vắng, chúng sinh lúc bấy giờ chỉ còn lưu giữ pháp môn tịnh độ, niệm biết hồng danh và cuối cùng chỉ còn một từ Phật duy nhất để cầu tốc vãng Tây Phương

Hàng cư sĩ tại gia, quá nhiều gia duyên bận bịu, khó xuất gia cầu giải thoát được. Đức Phật chỉ dạy pháp môn: Bát Quan Trai Giới, dành cho người cư sĩ tại gia phát nguyện thực tập xuât gia cầu giải thoát trong một ngày một đêm. Duyên lành kỳ ngộ phật pháp, TT Thích Thông Lý Trụ Trì chùa Phước Bình, quay về với nguồn cội Thầy Tổ xưa, thương tưởng Phật tử tại đây, thực hiện lời Phật dạy, tổ chức khóa tu Bát Quan Trai Giới truyền thống, 2 ngày: 22 – 23 (Âm lịch) hàng tháng. Trợ duyên cho hàng cư sĩ tại gia, thực tập tu học, phát triển Bồ Đề Tâm, gieo tạo nhân xuất gia giải thoát ./-




TINH THẦN VÔ ÚY

TINH THẦN VÔ ÚY

Hơn lúc nào hết, tinh thần vô úy phải được trân trọng đặt lại. Huynh trưởng GĐPT không hãi sợ trước các thế lực vô minh mù quàng. Bởi vì trong mỗi chúng ta có sẵn nguồn năng lượng vô biên được thắp sáng – định hướng cho mỗi người, tạo nên một sức mạnh kì vĩ làm chuyển biến thế giới tối tăm, nhằm tạo nên sức sống diệu kì hãnh tiến vào tương lai tuyệt bích.

Tinh thần vô úy phải được nâng cao. Mỗi Huynh trưởng GĐPT phải khẳn định cho được chính mình. Nhờ sức mạnh tối thắng vô thượng mà chúng ta dũng tiến vào đời, làm nên biết bao kì tích.

  • Vô úy ! là ánh đuốc khai phóng vô minh – quét sạch bóng đêm tăm tối.
  • Vô úy xua tan áp bức bất công, tái lập trật tự yên bình.
  • Vô úy ! đã làm nên kì tích lịch sử vẽ vang cho toàn dân tộc.
  • Vô úy ! tạo nên sức mạnh Sư tử hống, làm cho loài chồn cáo tanh hôi phải cúi đầu run sợ.
  • Vô úy ! như đợt sóng triều dâng, làm dập tan rong rêu bọt bèo cặn bã – cuốn trôi rác rưởi nhớp nhơ.
  • Vô úy ! đã tạo nên sức mạnh lịch sử vào những năm của thập niên sáu mươi.

Với tinh thần vô úy, biết bao ngọ lửa từ bi của chư Thánh tử vì đạo đã bùng lên làm thức tỉnh lương tri các chế độ vô minh. Với tinh thần vô úy mà hàng hàng lớp lớp Huynh trưởng – Đoàn viên GĐPT không hãi sợ trước thế lực đen tối, nguyện siết tay nhau hãnh tiến, phá vỡ xiềng xích bất công – đòi lại tự do bình đẳng yên bình cho đất nước.

Khi mà tinh thần vô úy đã được hun đúc nâng cao thì không còn sợ hãi nữa. Có gì mà hãi sợ ? khi mà con đường chúng ta đang đi thênh thang rộng mở tràn đầy chính nghĩa. Vì tự do bình đẳng toàn nhân loại mà sẵn sàng đối mặt – thách thức với thực tai cam go cay nghiệt.

Hôm nay chúng ta không còn cúi đầu nữa, mà phải kịp thời ngẫng cao, mạnh dạn nhìn thẳng vào mặt vô minh, mạnh dạn sấn bước đi tới – đạp lên trên mọi rào chắn – phá vỡ mọi cản ngăn, không sợ khủng bố – hù dọa – trù dập, vì tất cả mọi rào chăn ràng buộc trước quy luật vô thường đều chỉ là giả dối ảo ảnh hư vô, mọi thứ đều tầm thường vô nghĩa dưới bước chân của chúng ta, không bao giờ có thể làm chùn bước chúng ta đi. Dù có hi sinh cả thân mạng để phục vụ tổ chức GĐPTVN – để cúng dường chư Phật – để cảnh tỉnh lương tri các thế lực vô minh, chúng ta vẫn với tinh thần vô úy vị tha cao cả, tay trong tay siết chặc dây thân ái… rạng chiếu khắp núi sông ./-




TIẾNG HÓT CỦA CON CHIM SẺ

Tiếng hót của con chim sẻ

Con chim sẻ giữa vườn xanh. Thời gian trôi nhanh, nó nhìn lại vóc dáng, mỗi ngày thêm lớn, không còn thơ ngây như thuở nào, cái ngày mà tóc còn để chỏm, áo quần lôi thôi lếch thếch, nói năng ngọng nghịu, nũng nịu vòi vĩnh mẹ cha. Chim sẻ cảm thấy bây giờ nó đã trưởng thành, mái tóc mượt mà óng ả, quần áo chải chuốt phẳng phiu – chỉnh chu.

Nó cảm thấy mình thật sự đã lớn khôn. Nó cất cao tiếng hót, khoe mẽ ríu ra ríu rít, nó muốn tiếng hót của mình sắc nhọn vút cao, thật vang xa, lấn át tất cả mọi âm thanh ô trọc chung quanh.

Nó nghiêng nghiểng cái đầu, ánh mắt lúng liếng nhìn xa ngoài kia. Rừng cây bát ngát, bầu trời trong xanh, ánh nắng chói chang. Không gian chung quanh cứ mãi theo từng ánh mắt kéo dài trãi rộng, mênh mông bát ngát.

Nó bất chợt cảm thấy mình lớn khôn hơn, hiểu biết tất cả. Không như ai kia, bộ óc hẹp hòi bó chặt ru rú, quanh quất với núi rừng thâm u tịch mịch – lạc hậu, không thấy được bầu trời trải rộng, đâu là ánh sáng chói chang tỏa ngát thênh thang.

Chim sẻ chợt vùng lên, tung đôi cánh bo tròn hướng ra khoảng trời trong xanh ngát. Bất chợt đập mình vào khoảng không, bật ngửa rơi mình xuống sàn, đau đớn thu mình rụt cổ. Nó hoảng hốt nhìn lại, thì ra nó đang còn ở trong lồng kính, nó chưa thực sự tự vươn mình thoát ra, mà từ lâu nó đã tự đánh lừa lầm nhận sự còn non kém khờ khạo của chính mình.

Khoảng trời xanh trong vắt ngoài kia, lúc bấy giờ chưa đến lúc, chưa phải thực sự là của nó.

Nó nhìn lại chính mình, cái bệnh ham làm thầy đời hiu hiu tự đắc, cái bệnh thà làm đầu con gà hơn là làm đít con trâu, đã cho nó nếm trải trái đắng đau lòng. Tiếng hót của con chim sẻ vẫn chỉ là của loài chim sẻ sằn sặt lè tè bé xíu nhẹ tênh, khờ khạo, chỉ biết tự vỗ béo, chưa phải là tiếng hót hòa điệu, biết chối từ ngã ái, tự gát mình qua một bên, biết trãi lòng vị tha hướng về phía trước của loài chim Họa Mi – Sơn Ca – Khổng Tước – Ca Lăng Tầng Già.

Bởi vì thiểu trí, mê vọng ôm ấp cái ngã ái không hư vô tưởng: Điều ta nghĩ luôn luôn là đúng, việc ta làm luôn luôn là hay. Xa kia, Tào Tháo, một tên gian hùng vẫn nghĩ mình thế thiên hành đạo. để rồi trái bom nguyên tử bùng nổ giữa Hiroshima, gieo thảm họa cho hàng loạt con người, cũng chỉ vì nghĩ là làm một việc nhân đạo, “Sát nhất miêu cứu vạn thử”, để cho chim sẻ mãi hoài quằn quại xót xa – phóng khí tách rời tha nhân, tự đánh mất lòng nhiệt thành hăng hái thuở nào, ngậm ngùi khép mình co ro trong tự kỷ cô liêu.

Cái tâm sự :

“Cả đời đục cả, một mình ta trong
“Mọi người say cả, một mình ta tỉnh”

Đã đẩy Khuất Nguyên vào lòng sông Mịch la, trầm mình lạnh giá

Tại sao không như lão ngư ông, có cái nhìn nhân sinh hoà quang đồng trần:

“Sông Tương nước chảy trong veo.
“Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
“Sông Tương nước đục phù sa
“Thì ta lội xuống để mà rửa chân”

“Thắng một vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng chính mình mới là chiến công oanh liệt nhất” – Kinh Pháp Cú

Chế ngự sự phẫn giận là một công phu tu tập mạnh mẽ, là sức hàm dưỡng chịu đựng không phải tầm thường. Người thực hành pháp kham nhẫn không phải là người yếu đuối.

Chung quanh ta biết bao điều bất như ý, hà cớ gì phải vướng bận đa mang. Nếu có sức kham nhẫn thì phiền não được lắng dịu, an vui tự tại được nẩy sinh.

“Một đóm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả một cánh rừng”, một thái độ bốc đồng nóng giận có thể thiêu đốt cả công đức mà đã bao nhiêu năm sống hạnh thiện pháp mới tích góp đươc.

Giữ không vô minh nóng giận là bảo toàn đức tính tốt vẹn toàn
Nhẫn có ba loại:

1. Một là nhẫn với người:

Nghe lời nói trái tai dèm xiểm công kích, bị xúc phạm đánh đập mà nhẫn nhịn cho qua, không hờn giận trách móc, thì đó là tu nhẫn.

Kinh A-hàm Phật dạy:

Ngài Phú Lâu Na xin đức Phật về phương Bắc giáo hóa, Đức Phật hỏi:

  • Này Phú Lâu Na, người phương Bắc hung hăng lắm, nếu ông về đó giáo hóa, họ sẽ chửi mắng ông, ông nghĩ thế nào ?
  • Bạch Thế Tôn, nếu họ chửi mắng con, con nghĩ họ cũng còn lương thiện vì chưa đánh đập con.
  • Giả như họ đánh đập ông, thì ông nghĩ thế nào ?
  • Bạch Thế Tôn, nếu họ đánh đập con, con nghĩ họ cũng còn . lương thiện, vì chưa giết con chết.
  • Nếu họ giết ông chết thì ông nghĩ thế nào ?
  • Bạch Thế Tôn, nếu họ giết con chết, thì họ là người ơn của con, vì nhờ họ mà con bỏ được cái thân tứ đại hôi thối này.
  • Được, như vậy thì ông nên đến đó giáo hóa.

2. Hai là nhẫn với mình:

Nhẫn với mình là hạnh khó làm. Nhẫn với sự đau đớn, bệnh hoạn, nhẫn với sự đòi hỏi hưởng thụ̣: Ăn ngon, mặc đẹp, nhu cẩu thị hiếu, thỏa mãn khát vọng…

Người biết thực hành hạnh kham nhẫn là biết tiết chế, dừng lại đúng lúc, không buông lung thả trôi dục vọng.

3. Nhẫn với hoàn cảnh, thời tiết:

Thời tiết bất thường là do nghiệp chiêu cảm.

Hoàn cảnh chung quanh thuận hay nghịch, bằng lòng hay không vừa ý, là do cộng nghiệp tùy hiện.

Người thức giả đại trí không nên tự tả oán thân phận, mà phải biết ứng dụng tùy thuận cương – nhu, phải thẩm thấu cái thân phận lau sậy hèn mọn hữu hạn trước cái mênh mông vô tận của vũ trụ bao la.

“Vật cực tắc phản, vật cùng tắc biến”, lấy cái thân phận hèn kém mà đọ sức với guồng máy to lớn như thường, liệu có làm nên !

Phải biết mặc áo kham nhẫn, là “Mặc áo Như Lai để vào nhà Như Lai”, mới là người thức giả tự chiến thắng chính mình ./-




Đại Hội Ba GĐPTVN Trên Thế Giới

TẤM LÒNG HƯỚNG VỀ ĐẠI HỘI III
GĐPTVN Trên Thế Giới

Hoan hỷ và phấn khởi nhiệt thành, là niềm cảm nhận chung của toàn thể Lam Viên từ quốc nội đến hải ngoại, hướng về Đại Hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam Trên Thế Giới đong đầy trí tuệ, triển vọng hướng tới một tương lai sáng lạn.

Đại hội Huynh trưởng GĐPTVN Trên Thế Giới lần thứ III, tại Bangkok – Thailand. Mỗi nhân giả đều biểu hiện mỗi biểu cảm khác nhau, nhưng tất cả đều chung lòng, đặt trọn vẹn niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự thành công viên mãn đầy phong quang của đại hội, đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại, khẳn định một định hướng giáo dục đạo đức tâm linh – ứng dụng giáo lý Phật Đà góp phần làm thanh sạch môi sinh, xây dựng hoàn chỉnh hành tinh này thành cảnh giới tịnh Phật quốc độ nhân gian.

Trong niềm đại hoan hỷ vô biên, toàn thể Lam Viên trên khắp các châu lục – quốc gia chia sẻ trọn vẹn niềm tin, kỳ vọng lớn lao vào sự lãnh đạo tuệ giác của Ban Hướng Dẫn GĐPTVN Trên Thế Giới trong sự nghiệp phát triển nền giáo dục khai phóng.

Từ Đại Hội, lá cờ xanh hòa bình Sen Trắng đã được phất lên, ảnh hiện ánh hào quang rực rỡ – hiệu triệu sự thống nhất GĐPT toàn cầu. Từng tín hiệu truyền tải những sự kiện trọng đại đang diễn ra trong thời khắc bùng cháy khao khát tự do từ muôn vạn trái Tim Lam. Từ mọi ngõ ngách GĐPT, đang chuyền tay nhau từng bản tin nóng hổi. Trong từng câu chuyện, trao đổi cho nhau nghe những thông tin về hoạt động của đại hội, ẩn chứa biết bao mong chờ, hy vọng ở đại hội một sang trang mới mẻ, có nhiều quyết sách lớn, định hướng phát triển, tạo chuyển biến, đưa tổ chức hội nhập quốc tế vươn lên tầm cao.

Ban Hướng Dẫn nhiệm kỳ ba, đang đối mặt trước những thách thức lớn, nhiều thử thách đang đón chờ, phía trước còn lắm bối cảnh bộn bề gian nan, nhiều tồn tại rối rắm cần phải đối phó – tháo gỡ. Những khủng hoảng về mặt ý thức – chánh kiến – tông phái – giáo hội, tạo nên nhiều khoảng cách làm dằng xé đau lòng. Trong thế kỷ bùng nổ thông tin – chạy đua kinh tế, những suy thoái hạnh đức trầm trọng, làm tha hóa ngầy ngụa tuổi trẻ – bào mòn tâm linh – kiệt quệ sức sống.

Gia Đình Phật Tử Việt Nam là điểm hẹn xứng đáng, một khu đất mầu mở, nơi hội tụ tinh hoa, đầy đủ chất liệu từ bi – trí tuệ và hùng lực toàn diện, làm nền tảng chuyển hóa thế tục. Trách nhiệm của nhà lãnh đạo làm công tác giáo dục hiện nay, là cấp thiết hàm dưỡng phẩm chất đạo lực, có đời sống văn hóa tâm linh tốt đẹp, gát lại sau lưng cái tôi vị kỷ – “thể hiện cá tính – lấy cấp đè cấp” – “vú cả lấp miệng em”, xả kỷ – vị tha, có giải pháp thu hút tuổi trẻ – phát hiện tài năng, đầu tư – quy hoạch – chăm lo tài bồi đội ngũ kế thừa, tạo điều kiện cho tuổi trẻ rèn luyện – trưởng thành – góp phần hổ trợ phát huy hoài bảo. Biểu thị quyết tâm sắt đá, mạnh dạn dấn thân – hy hiến để phụng sự tha nhân. Chỉnh đốn cơ chế, yêu nghề dạy trẻ – yêu tổ chức GĐPTVN, làm tròn sứ mệnh truyền trao thực tiễn – hiệu quả. Nghiêm túc lắng nghe ý kiến – tranh thủ sự góp ý – ý thức trách nhiệm – chắc lọc suy tư hí luận, đáp ứng vẹn thỏa từng mỗi nguyện vọng thâm sâu, chuyển hóa vô minh, tỉnh thức nhân loại.

Trên hành trình đi đến tuệ giác, mỗi hành giả gặp phải biết bao gian khó. Sự bạc đãi đối xử thiếu bình đẳng đối với GĐPTVN trong thời gian qua là một thử thách lớn, từ lò lửa của ý thức hệ khắc nghiệt đã trui rèn cho tự thân kim cương vững chãi. Sự thành công của Đại hội ba, đã khẳn định được nguyện lực nhẫn nhục bền bỉ – ý chí sắc thép vô úy tự tại, đạp lên trên đầu sóng ngọn gió lèo lái con thuyền GĐPTVN cặp bến bình yên. Có nhiều nơi, còn có nhiều tỉnh thành, còn gặp nhiều gian khó, bởi ý thức ngoại tại còn có vô minh che phủ – đoanh vây bao quanh bởi những tham mưu xu nịnh – thiếu thực tế – mù mờ về tổ chức GĐPTVN. Còn hạn cục – chưa thoáng – chưa cởi mở, còn dè dặt – âu lo vu vơ thiếu kiểm chứng. Còn nội tại thì thờ ơ, mờ mắt lương tri, phủ phàng – lọc lừa, xu phụ thế tục, mê vọng quyền lực hư ảo, tối mắt trước hư vinh, đang tâm đẩy đuổi đàn con hiếu thảo chơ vơ lăn lóc giữa chợ đời, phó mặc cho sóng đời vùi dập. Cũng có nhiều tỉnh thành, GĐPT đã từng nếm trải khó khăn, nhưng các chức năng nơi đây đã sớm ý thức được, cách đối xử tệ bạc bất công trong thời gian qua là sai lầm, sự có mặt của GĐPT là tối cần thiết. GĐPTVN như là một chất keo hàn gắn, làm dính liền giữa đạo pháp và dân tộc. Sự tập hợp chặc chẽ – đoàn kết nhất trí cao của GĐPTVN, là biểu trưng – là tấm gương sáng – là sức mạnh tạo nên sự đoàn kết cho toàn xã hội – đạo pháp. Nhờ cái thấy thông thoáng đầy trí tuệ của mỗi địa phương, nhiều GĐPT sở tại đang dần hồi được tái lập trật tự – sinh khí sống lại tràn trề, sự góp mặt hữu ích của GĐPTVN đang từng bước xây dựng kế hoạch đi vào thực tiễn, làm tròn sứ mệnh hộ đạo – xây đời.

Trên bãy mươi năm lịch sử GĐPTVN mới có ngày hôm nay, và gần 40 năm đen tối, GĐPTVN kỳ vọng được lóe sáng. Toàn thể Lam Viên chấp tay cầu nguyện cho mặt trời bừng rỡ kể từ đây, tham vọng không còn, chỉ còn có thương yêu. Cầu xin buông dao đồ tể – lập địa thành Phật, hãy mở rộng từ ái – thắp sáng lương tri, chung tay chung sức hàn gắn vết thương đau của đạo pháp – dân tộc và đất nước, đang bị bàn tay vô minh dằng xé, làm nhức nhối từ bấy đến nay ./-




Sư Tử Hống (2)

Sư Tử Hống (2)

Tại buổi họp mặt Ban Hướng Dẫn và Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT tỉnh Bình Thuận.

Trước giờ nhận quà cứu trợ, Thượng tọa Thích Chơn Thức, Trưởng ban An sinh Hội đồng Giáo Giới GĐPTVN, đã đặt câu hỏi:

  • Các anh – chị có biết Đạo Phật đã dùng biểu tượng gì để nói lên tinh thần vô úy ?

Trong hội trường đông đảo, có anh – chị nào đó đã thốt lên:

  • Con Sư Tử !
  • Đúng rồi, con Sư Tử !

Thuở xưa, Sư Tử dũng mãnh thường được chọn để bảo vệ chốn linh thiêng như đền – chùa – cung điện.

Sư tử là linh vật tượng trưng cho sự dẻo dai – bền bỉ – tỉnh táo – dũng cảm – kiên cường, nâng cao vị thế của người đứng đầu, có khả năng đối mặt với nghịch cảnh – khó khăn, hóa giải những chướng duyên xấu ác, đem lại thành công – hạnh phúc – may mắn.

Trong Phật giáo, Sư Tử Tuyết làm nhiệm vụ bảo vệ Chánh Pháp, được mô tả ở tư thế đang nâng pháp tòa của Đức Phật.

  • Con Sư Tử, nói chính xác hơn là: Sư Tử Hống !

Sư Tử Hống, là tiếng gầm của loài Sư Tử, vua của muôn thú. Đức Phật đã dùng ảnh dụ này, để chỉ cho âm thanh thuyết pháp, như tiếng gầm rống của Sư Tử Chúa, không những không sợ hãi bất cứ loài thú nào, mà còn làm cho muôn thú phải khiếp sợ, bị nhiếp phục hoàn toàn.

Không phải chỉ có Đức Phật hoặc Chư Tăng mới có đủ uy lực nói lên tiếng nói Sư Tử Hống. Người Huynh trưởng GĐPT, đứng trước chướng duyên, cũng phải hống lên tiếng rống Sư Tử, tuyên bố dứt khoát, chỉ có ở đây mới là chánh đạo, mới có chân lý tối thượng.

Sư Tử Hống có ba nghĩa: Như thuyết tu hành. Vô úy thuyết. Quyết định thuyết.

  1. Như thuyết tu hành: Lời nói phù hợp với sự thực tập – tu học, không nói suông – hý luận dài dòng, thiếu thực tế.
  2. Vô úy thuyết: Không sợ hãi, biện tài vô ngại, xiển dương diệu pháp, lời nói kiên quyết – xác tín. Vô úy có hai nghĩa: Không sợ người, trái lại nhiếp phục được người.
  3. Quyết định thuyết: Căn cứ vào chân lý nói lên sự thật, có khả năng xiển dương chánh pháp, dẹp tà – hiển chánh, chuyển hóa tha nhân.

Sư Tử Hống được gọi là Quyết định thuyết, nói lên yếu nghĩa:

“Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Như Lai thường trụ, không biến đổi”Kinh Đại Bát Niết Bàn –

Sáng sớm Sư Tử Chúa ra khỏi hang, vươn vai nhìn bao quát khắp bốn phương, hùng lực cất tiếng rống lớn:

  1. Phá dẹp những loài chẳng phải thiệt sư tử mà dối làm sư tử.
  2. Chứng tỏ uy lực dũng mãnh
  3. Khiến chỗ ở thanh tịnh
  4. Muốn bầy sư tử con biết hướng đến
  5. Muốn bầy đàn sư tử không sanh tâm kinh sợ
  6. Làm cho kẻ mê ngủ được thức tỉnh
  7. Làm cho tất cả muôn thú đang phóng dật được tinh tấn siêng năng
  8. Những thú khác đến chầu hầu
  9. Điều phục đại hương tượng
  10. Dạy bảo con cái
  11. Trang nghiêm quyến thuộc

Người Huynh trưởng không phải như con rùa, chỉ biết co đầu rút cổ trong vỏ ốc xơ cứng – vô hồn, tránh né – đùn đẩy trách nhiệm, ẩn núp – dựa dẫm quyền lực.

“Phú quý bất năng dâm,
“Bần tiện bất năng di,
“Uy vũ bất năng khuất”
– Mạnh Tử – chương Đằng Văn Công Hạ –

Là đại trượng phu, không hợm mình – mê hoặc bởi giàu sang, lắm tiền – nhiều bạc, thế lực lớn, quyền uy to. Luôn luôn giữ gìn phép tắc, tuân thủ pháp luật, kiểm soát hành vi. Không dâm ô dục lạc, không tham muốn bất chính, no ăn ỡm cật. Phú quý bất năng dâm.

Dẫu đời sống có nghèo hèn, cũng không đánh mất lương tri – chí khí – nhân cách, giữ gìn khí tiết – phẩm giá sạch trong. Bần tiện bất năng di.

`Đại trượng phu, dù đứng trước thế lực uy vũ – cường quyền, cũng không cúi đầu khuất phục. Uy vũ bất năng khuất.

Với ý chí của bậc trượng phu xuất thế, lội ngược dòng đời, thì hướng đi phải lên trên trượng phu thế tục.

Người Huynh trưởng Phật Tử tri thức, phải có tư duy phê phán, không có khái niệm giai cấp – quyền uy, Không mềm yếu, gục xuống, đầu hàng, rẽ ngoặc, ảo tưởng ngây thơ, bẻ cong chân lý. Ý thức tự chủ – bất khuất. Đầu đội trời – chân đạp đất, giữ gìn chí hướng – tiết tháo, đởm lượt tài ba – đủ năng lực gánh vác sứ mệnh – lý tưởng cao cả, chịu trách nhiệm về tương lai của tổ chức. Có hào khí xung thiên bát ngát – rạng rỡ đến bất tận !




SỨ MỆNH HUYNH TRƯỞNG

SỨ MỆNH HUYNH TRƯỞNG

“Vì còn có chúng sinh bệnh, nên tôi có bệnh”

Còn có một Thanh – Thiếu – Nhi tha hóa, Huynh trưởng GĐPT phát nguyện nhập thế giải khổ cho họ. Huynh trưởng GĐPT thị hiện vào đời, san sẻ những khổ đau người đời, lấy cái khổ của mọi người làm nỗi đau của chính mình để mà độ tận

Huynh trưởng GĐPT hôm nay, tự xác định sứ mênh trước tiền đồ tổ chức, thắp sáng niềm tin, giúp cho đàn em vững chãi noi dấu, luôn luôn chăm lo – làm trong sáng thế hệ mai sau

Các em đến với chúng ta, do một nhân duyên hòa hợp, được gieo trồng từ nhiều đời. Dẫu biết rằng “Do duyên mà hợp, và cũng do duyên mà tan”.

Nhưng “Nghiệp” thì có thể chuyển hóa được. Người Huynh trưởng PT, phải là cái thiện duyên tốt hơn, để chuyển hóa cái duyên xấu ác, tạo nên một cái duyên mới thiện lành – đẹp đẽ hơn, để tập hợp cho được các em, làm cho các em gắn bó hơn với mình – với tổ chức nhiều hơn, mà không vì lý do này, hay điều kiện khác, mà phải rời xa Đoàn. Dẫu mai này do hoàn cảnh, hay điều kiện sinh kế – học tập, mà phải ngậm ngùi chia xa, các em vẫn mãi mãi nhớ về, và nếu thuận duyên, dù ở bất cứ nơi đâu, các em vẫn nhanh chóng, thiết tha tìm về với tổ ấm muôn đời, bởi vì hạt giống này, đã được bàn tay lành nghề, của các anh – các chị cần mẫn chăm bón kĩ càng, cho dù được thả dưới vùng đất nào, các em cũng vẫn nẩy mầm vươn cao – rợp mát bóng đời. Và, bởi vì các em là một phần thực thể, không thể thiếu trong đời sống của người Huynh trưởng GĐPT

Huynh trưởng GĐPTVN đang đối mặt trước những thách thức nghiệt ngã. Nhiều vấn đề bức súc trước mắt, đòi hỏi người lãnh đạo tài ba nhạy bén ứng xử, vững vàng tay lái đưa con thuyền Lam cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, cặp bến bình yên
Nếu cuộc đời là gấm hoa bằng phẳng cả, thì Huynh trưởng GĐPT không thị hiện vào đời. Sự có mặt của Huynh trưởng GĐPT là tối cần thiết trong giai đoạn thực tại. Huynh trưởng PT không vì lý do này hay lý do nào khác, để mà dễ dàng yên phận – thủ thường – cầu an – bàng quan, chối từ trách nhiệm nặng nề trước tiền đồ tổ chức

Gia Đình Phật Tử Việt Nam là sức sống của đạo pháp – dân tộc. Nếu được tầng lớp Huynh trưởng GĐPT thiện hữu tri thức lãnh đạo tài tình – tuệ giác, thì sức sống này được lan tỏa đến vô cùng. Nền tảng của GĐPTVN là đông đảo đoàn viên – đoàn sinh GĐPT, là khối Huynh trưởng đã traix nghieemk kinh qua nhiều thử thách, dạn dày trong sóng gió, vững chãi trong đời sống đạo vị.

Biết bao cấp Huynh trưởng trưởng bối đi trước, đã nêu lên những tấm gương ngời sáng, đã từng xông xáo quả cảm – đầy sinh lực – đầy tài năng, đã thể hiện những hoạt động nóng bỏng, trong những giai đoạn cam go nhứt, qua đó đã khắc họa nên những suy tư, những chân dung kỳ vĩ – đẹp đẽ lạ thường. Những con người ấy, đã trung thực với cuộc sống, và hết lòng vun vén cho những mầm non được nhanh chóng đâm chồi – nãy lộc – đơm hoa, mai này tỏa hương – ngời sắc tô đẹp cuộc đời

Trong giai đoạn rối rắm – khắc nghiệt – chưa sáng sủa như hiện nay, đòi hỏi người Huynh trưởng phải tỉnh thức, nghiêm túc định hướng, chấp nhận một tác chiến gay go – nghiệt ngã nhất. Đòi hỏi với ý chí cẩn trọng – xốc vác – nhạy bén – tinh tường. Biết bao thử thách cam go đang đón chờ phía trước, đòi hỏi ở mỗi Huynh trưởng một tài năng – một đức độ sẵn sàng ứng phó

Nếu mở lại những trang sử rạng ngời ngày qua, làm cho chúng ta không khỏi ngỡ ngàng. Nhưng phấn chấn biết bao, khi thấy nhiều Huynh trưởng GĐPTVN, tình nguyện hiến dâng đời mình, vì sự trường tồn của tổ chức, đã lăn lộn với những giai đoạn khó khăn – uyển chuyển với thời cuộc. Nhiều Huynh trưởng đã lãnh đạo phong trào, nhận lãnh gánh vác những gánh nặng, phụ trách nhiều GĐPT địa phương đầy lửa bỏng. Quả thực, đây là những lò lửa, có nơi đã lên đến cả nghìn độ, rực cháy suốt đêm ngày. Nhưng các anh – các chị vẫn hùng lực, trên ngực áo vẫn hiên ngang gắn nổi huy hiệu hoa sen sáng chói. Những anh chị ấy, có bao giờ cho phép mình được ngơi nghĩ – xuôi tay, mặc dù hiện nay có người đã nằm xuống! Nhưng các anh – các chị, vẫn sống đầy đủ ý chí, và sống một cách sinh động đầy ý nghĩa – tinh anh trong mỗi tâm tư của thế hệ hôm nay và mãi mãi ngàn sau

GĐPTVN xuất phát từ nhu cầu sống, giải quyết đáp ứng thỏa đáng những nguyện vọng thâm sâu nhất của tuổi trẻ. Do đó, người Huynh trưởng lãnh đạo, phải có nhận thức thiết thực, sáng suốt năng động, hiểu biết thâm sâu mỗi người, thắm thiết tình người, khơi mở cho tuổi trẻ, hòa nhập vào dòng sống vô biên, sáng tỏa của đạo Phật. Thế nên người xưa đã nói “Tri đạo – hành đạo”, kết quả của sự biết đạo, mới có cơ sở, điều kiện tâm sinh lý tối cần thiết để làm việc đạo

Xã hội nào cũng có những mâu thuẩn, tổ chức nào cũng tồn tại trong lòng nó những dòng ý thức lập dị khác nhau, đó là qui luật đối kháng của cuộc sống. Chính nhờ những mâu thuẩn đối lập ấy, mà xã hội được vận động đổi mới – tiến bộ hơn. Thực ra, đời sống phức tạp trong xã hội, trong mỗi tổ chức không đáng kể. Chỉ đáng kể là, con người lãnh đạo đó, có biết điều hành tổ chức, hay xã hội phức tạp đó hay không

  • – Người lãnh đạo giỏi, là người biết dựa vào trí tuệ và sức mạnh của tập thể, để xây dựng nên kế hoạch, và biết ứng dụng – điều hành tập hợp tập thể, để tạo nên thành công cho kế hoạch – phát triển tổ chức
  • – Người lãnh đạo tài tình, là người trầm tĩnh – nhạy bén, biết hóa giải bất cứ mọi tình huống xảy ra
  • – Muốn có được một thế hệ trưởng tử Như Lai, với đầy đủ uy lực – đức độ – tài năng. Người điều hành – lãnh đạo hôm nay, không ỷ vào bề dày sinh hoạt – cấp bậc cao. Mà phải cấp thiết, với tấm lòng mẫn ái – cởi mở – vị tha – độ lượng. Mạnh dạn gát mình qua một bên, không tự ngã – nghi ngờ. Hy sinh – thiết tha vì sự nghiệp phát triển tổ chức. Người lãnh đạo tài ba, là người biết ròng rã thắp đuốc đi tìm – phát hiện, tô bồi nhân tài, và xử dụng đúng tài năng
  • Cấp thời – tích cực có kế hoạch lâu dài, chú ý bồi dưỡng đào tạo đối tượng – đội ngũ lãnh đạo kế thừa. Đây là vốn liếng, là nguồn sáng tạo năng lượng – nuôi dưỡng tiềm năng – sự tồn tại sống còn của tổ chức
  • Tập trung vào thế hệ 50, để sẵn sàng thay thế lãnh đạo – được chuyển giao từ thế hệ 60 – 70 – 80… (lệ thuộc bởi quy luật vô thường tấn tốc)
  • Chuẩn bị thế hệ 40, để đưa vào lãnh đạo, đảm nhận các chức vụ, ở các bộ phận chuyên môn – chuyên năng – các cấp… • Đặc biệt quan tâm – chú ý, những nhân tài ở thế hệ trẻ 20 – 30. Có kế hoạch dài hơi – chuẩn bị chu toàn, cho thế hệ này tiếp cận, phụ tá – tập sự lãnh đạo
  • Trong hệ thống tổ chức các cấp GĐPTVN, chúng ta nhìn thấy, hội đủ các chức danh, có tầm cở quy mô – hoành tráng. Nhưng, trên thực tế, còn có nhiều điều đáng tiếc – bất cập xảy ra. Hầu hết chúng ta đều dựa trên cơ sở cấp bậc – sinh hoạt lâu năm, cơ cấu vào các chức vụ, mà thiếu chú trọng – mạnh dạn lựa chọn – đề bạt nhân tố tích cực – đạo đức – tài năng – kỷ năng chuyên môn – chuyên nghiệp, đẫn đến không phù hợp với nhiệm vụ – khả năng – sức khỏe, của từng đối tượng – nhân thân. Có chức vụ, chỉ có hình thức, thiếu năng động, không có tác dụng cụ thể – thiết thực, làm trì trệ – ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động của tổ chức. Chưa nói là dẫm chân tại chỗ, chưa nói là làm nãn lòng – cản trở – cấn cái, làm cho nhiều HTr trẻ năng nổ – có nhiệt huyết, phát huy – cống hiến hết tài năng, góp sức phụng sự tổ chức
  • – Tổ chức trao cấp, là giao cho anh một sứ mệnh nặng nề, phải gánh vát lo toan vì sự tồn tại – vững vàng của tổ chức, chứ không phải trao, để cho anh tự phong cho mình một quyền uy tối thượng, để thỏa mãn tham vọng, lên mặt kẻ cả, lấn lướt người trên – chèn ép người dưới, coi nhẹ cấp thấp, xem thường tuổi trẻ, đè nén tài năng
  • – Xin hãy thành tâm nhìn lại chính mình, mạnh dạn nói không với phong cách làm việc thiếu tôn trọng – thiếu lòng tin tưởng – thiếu khoa học – thiếu hiện đại hóa. Nóng nãy – thể hiện quyền lực – ganh tỵ – hẹp lượng. Không biết lắng nghe, không khắc phục – sửa sai, không đổi mới tư duy, lạc hậu – lỗi thời trong thời kỳ mở rộng – hội nhập. Là sức ỳ, làm cản trở – trì kéo tài năng, làm chậm bước sự phát triển tổ chưc: nghi ngờ – độc đoán – ôm việc – bao biện – làm thay – không biết dừng lại. Mạnh dạn truyền trao nhiệm vụ lãnh đạo – tổ chức – điều hành các hoạt động Phật sự, dưới sự cố vấn tài tình của HTr đã trưởng thành, để bồi dưỡng – rèn luyện – thử thách tài năng trẻ

Tài năng không phải muốn hô lên là có, mở mắt ra là bắt gặp. Mà phải mỏi mòn chờ đợi, vun bồi – nuôi dưỡng – chăm chút tận tình. Phải có sức kích thích lớn, làm bừng nở tinh hoa, vươn lên đỉnh cao thời đại. Được như vậy, kỳ vọng trong tương lai, chắc chắn dòng chãy GĐPTVN, không dễ dàng bị dứt đoạn, mà còn tạo nên kỳ tích, một sức mạnh diệu dụng vô biên – viết thêm trang sử mới, huy hoàng – hùng tráng, làm chuyển biến, kiện toàn – phát triển tổ chức, làm mới – thăng hoa đẹp đẽ thêm hơn

Lịch sử đã minh chứng, trong giai đoạn phôi thai – của những thập niên 40 => 70, thời kỳ vàng son – vẽ vang nhất, vận mệnh của tổ chức đều nằm cả trong đôi tay trẻ trung vững chãi, của thế hệ 20 – 30 lúc bấy giờ, đã làm nên biết bao kỳ tích để đời, còn lưu truyền đến cho chúng ta hôm nay và mãi mãi đến các thế hệ ngàn sau

Đức Phật là một nhà đại cách mạng. khởi đăng trình tử lứa tuổi 20 – 30, hơn bốn mươi năm ròng rã, với những lời thuyết giảng như sư tử hống. Đức Phật đã xua tan màn đêm, xóa bỏ mọi thành trì ngã chấp – bất công, xua tan mê mờ đau khổ, mang đến toàn bộ hạnh phúc – ánh sáng chân lý cho toàn nhân loại

GĐPTVN có mặt trên đất nước này với biết bao gian nan thử thách, đối măt trước những thách thức khắc nghiệt. Đứng trước giai đoạn lịch sử nghiệt ngã này, người HTr lãnh đạo, phải với tấm lòng son sắc, luôn luôn hâm hấp – thao thức trước tiền đồ Tổ chức – Đạo pháp – Dân tộc. Với khí tiết vô úy – không khom lưng – cúi đầu – nô dịch. Với uy lực kỳ vĩ – tạo nên kỳ tích, tĩnh tại – tuệ giác – uyển chuyển, có năng lực huyền nhiệm làm chuyển hóa thế cục. Sẵn sàng hy sinh – dấn thân phụng sự – bảo vệ chính nghĩa đến hơi thở cuối cùng

Phải với ý chí dõng mãnh, với tinh thần vô úy hy sinh, với lý tưởng cao cả, với tình thương vô biên, người Huynh trưởng GĐPTVN mới quên mình, dấn thân nhập thế, làm nên một cuộc cách mạng vinh quang kỳ vĩ cho tương lai GĐPTVN – đạo pháp – dân tộc sáng láng hơn ./-