Hướng dẫn sử dụng ngôn ngữ ký hiệu khi tiếp xúc người khiếm thính
“Ngôn ngữ ký hiệu” hay còn gọi là “thủ ngữ” bao gồm ngôn ngữ ước hiệu, đó là bảng chữ cái và chữ số, để có thể giao tiếp bằng chữ viết, người khiếm thính dùng ngôn ngữ ước hiệu để diễn đạt chính xác một sự vật hiện tượng, ví dụ như tên, tuổi và ngày tháng năm sinh.
Điều này có vẻ hơi phiền phức bởi để mà diễn tả một câu như “Anh yêu em nhiều lắm” thì phải thể hiện trên tay 21 ký tự, rất mất thời gian phải không các bạn?. Chính vì thế mà một phần không thể thiếu là cử chỉ điệu bộ, đây là những mô tả sự vật hiện tượng bằng tay. Chẳng hạn để nói một cái máy vi tính, hay nghề văn phòng thì bạn sẽ để hai tay trước ngực hai bàn tay khum lại như đang gõ bàn phím, thế là ai cũng hiểu không cứ gì người khiếm thính.
Nếu bạn là người mới, khi nói tên bạn, bạn phải dùng tay mô tả đủ các chữ cái ghép thành tên bạn, nhưng sau một vài lần, cộng đồng người khiếm thính đặt cho bạn một cái tên giản lược (có thể gọi là Nickname) chẳng hạn bạn có cái răng khểnh rất duyên thì người ta chỉ lên miệng vào vị trí cái răng duyên của bạn và chữ cái đầu của tên bạn…
Mình phải dông dài một chút để các bạn hình dung, và thông cảm cho người khiếm thính và để các bạn thấy rằng chúng ta thật hạnh phúc và ngôn ngữ nói và viết của chúng ta thật tuyệt vời. Đối với người khiếm thính để giải thích cho họ hiểu sự khác nhau giữa giám đốc, hiệu trưởng, chủ nhiệm, lãnh đạo, chủ tịch, tổng thống,… là cả một sự khó khăn bởi họ không có đủ từ khác nhau để phân biệt, mà tất cả chỉ có một cử chỉ để biệu lộ thôi các bạn ạ.
Khi họ nói chuyện với mình, nếu để ý và hiểu sang ngôn ngũ bình thường thì các bạn cũng thấy rằng nó giống như một người nói trống không, chẳng hạn “Khỏe không,…tên gì” Trong khi đó chúng ta sẽ hỏi: Bạn có khỏe không?… Bạn tên là gì? Hãy thông cảm cho họ, đó không phải là những lời nói trống không, mà do quy ước của họ là như vậy đấy các bạn ạ, và khi nói chuyện với họ, bạn cũng nhớ áp dụng quy tắc đó, nha. Mong rằng các bạn sẽ nói chuẩn và đẹp.
Số trong ngôn ngữ cử chỉ
Bạn đầu, mình học Signlanguage American, có nghĩa là ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ Mỹ, về sau mình mới học ngôn ngữ ký hiệu điệu bộ cử chỉ của VN, do các anh chị trong CLB Người Điếc Hà Nội dạy, ở VN, chưa có sách giáo khoa chuẩn cho người khiếm thính, cho nên các bạn sẽ thấy một số khác biệt trong ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ của 3 miền, nhưng điều đó chẳng sao, tất cả người khiếm thính ở 3 miền họ đều có thể hiểu nhau, kể cả những người khiếm thính chẳng bao giờ đị học hay sinh hoạt tại một câu lạc bộ nào, khi đến với nhau họ cũng hiểu nhau rất nhanh.
Điều này cũng dễ hiểu bởi ngay cả đối với chúng ta cũng có ngôn ngữ địa phương mà, phải không các bạn?
Thủ ngữ – ngôn ngữ ký hiệu tay
Ngôn ngữ ký hiệu hay ngôn ngữ dấu hiệu, thủ ngữ là ngôn ngữ chủ yếu được cộng đồng người câm điếc sử dụng nhằm chuyển tải thông tin qua cử chỉ, điệu bộ của cơ thể và nét mặt thay cho lời nói. 384-322 TCN: Aristotle, triết gia vĩ đại của Hy Lạp, tuyên bố “Người điếc không thể
Ngôn ngữ ký hiệu hay ngôn ngữ dấu hiệu, thủ ngữ là ngôn ngữ chủ yếu được cộng đồng người câm điếc sử dụng nhằm chuyển tải thông tin qua cử chỉ, điệu bộ của cơ thể và nét mặt thay cho lời nói.
Lịch sử
- 384-322 TCN: Aristotle, triết gia vĩ đại của Hy Lạp, tuyên bố “Người điếc không thể giáo dục được. Nếu không nghe được, con người không thể học được”.
- Thế kỷ 16: Geronimo Cardano, nhà vật lý học người Padua, tuyên bố người điếc có thể học tập thông qua giao tiếp bằng ký hiệu.
- Thế kỷ 17: Juan Pablo de Bonet xuất bản cuốn sách đầu tiên về ngôn ngữ ký hiệu, đồng thời công bố bảng chữ cái năm 1620 dựa trên nền tảng là ngôn ngữ ký hiệu đã được cộng đồng người điếc phát triển theo bản năng từ trước.
- Thế kỷ 18:
- 1755: Cha Charles-Michel de l’Épée (người Pháp và được coi là người khai sinh ra hệ thống ngôn ngữ ký hiệu Pháp) thành lập trường học miễn phí đầu tiên dành cho người điếc. Hệ thống ký hiệu tiếp tục được phát triển và được cộng đồng người điếc sử dụng. Hệ thống ngôn ngữ ký hiệu của Pháp được hoàn thiện trong giai đoạn này.
- 1778: Tại Leipzig, Đức, Samuel Heinicke, trường công lập đầu tiên dành cho người điếc không chỉ sử dụng ngôn ngữ ký hiệu mà còn dùng phương pháp nói và đọc khẩu hình (speech-reading) – tiên phong cho việc dùng tất cả các phương pháp để giao tiếp tối ưu (dùng tất cả các biện pháp giao tiếp có thể: ngôn ngữ ký hiệu, cử chỉ, đánh vần bằng ký hiệu, đọc khẩu hình, nói, trợ thính, đọc, viết và tranh vẽ).
- Thế kỷ 19
- 1815: Thomas Hopkins Gallaudet tới châu Âu nghiên cứu phương pháp giáo dục dành cho người điếc. Trở lại Hoa Kỳ cùng với giáo viên ngôn ngữ ký hiệu, Gallaudet và Laurent Clerc mở trường công dành cho người điếc đầu tiên của Hoa Kỳ tạiHartford, Connecticut năm 1817.
- Thế kỷ 20
- 1924: tổ chức World Games đầu tiên dành cho người điếc. Bắt đầu phát triển Gestuno (ngôn ngữ ký hiệu chuẩn quốc tế).
- 1951: Đại hội đầu tiên của Liên hiệp Người Điếc Thế giới (WFD) diễn ra tại Roma.
- 1960: William Stokoe, người Mỹ, xuất bản cuốn sách ngôn ngữ học đầu tiên về ngôn ngữ ký hiệu Mỹ (American Sign Language – ASL).
- 1979: Klima và Bellugi tiến hành nghiên cứu đầu tiên về ngôn ngữ ký kiệu Mỹ (ASL) trên phương diện ngôn ngữ học.
- 1988: Đầu tháng 6, Quốc hội Cộng hòa Séc thông qua một đạo luật chính thức công nhận Ngôn ngữ Ký hiệu Séc là ngôn ngữ chính dành cho người điếc tại quốc gia này. Người điếc có quyền được nhận dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu miễn phí 24/24. Trẻ em điếc có quyền được giáo dục bằng ngôn ngữ ký hiệu bản địa. Thêm vào đó, theo quy định pháp luật, phụ huynh của trẻ điếc được dự các lớp ngôn ngữ ký hiệu miễn phí. Dù vậy, luật pháp vẫn chưa quy định việc phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu trong trường trung học, đại học và tòa án.
Từ những năm 2000, Việt Nam bắt đầu triển khai những nỗ lực của mình nhằm hoàn thiện và hệ thống hóa Ngôn ngữ Ký hiệu Việt Nam. Các CLB, nhóm dạy, sinh hoạt NNKH bắt đầu hình thành và nở rộ. Một số tài liệu khá công phu xuất hiện như: bộ 3 tập Ký hiệu cho người điếc Việt Nam, từ điểm NNKH Việt Nam, v.v.
Đặc điểm
Cũng như ngôn ngữ nói, ngôn ngữ ký hiệu của từng quốc gia, thậm chí là từng khu vực trong một quốc gia rất khác nhau. Điều đó là do mỗi quốc gia, khu vực có lịch sử, văn hóa, tập quán khác nhau nên ký hiệu để biểu thị sự vật hiện tượng cũng khác nhau. Chẳng hạn, cùng chỉ tính từ màu hồng thì ở Hà Nội người ta xoa vào má (má hồng), còn tại Thành phố Hồ Chí Minh lại chỉ vào môi (môi hồng). Điều tương tự cũng diễn ra khi có sự khác biệt lớn hơn trên tầm quốc gia, dẫn tới sự khác biệt của hệ thống từ vựng và ngữ pháp ngôn ngữ ký hiệu giữa các nước.
Tuy nhiên, ký hiệu tất cả mọi nơi trên thế giới đều có những điểm tương đồng nhất định. Ví dụ: ký hiệu ‘uống nước’ thì nước nào cũng làm như nhau là giả bộ cầm cốc uống nước, ký hiệu ‘lái ô tô’ thì giả bộ cầm vô lăng ô tô quay quay, v.v. Mỗi người (dù bình thường hay câm điếc) đều có sẵn 30% kiến thức ngôn ngữ ký hiệu. Do ngôn ngữ ký hiệu phát triển hơn trong cộng đồng người khiếm thính, nên những người thuộc cộng đồng này của hai nước khác nhau có thể giao tiếp với nhau tốt hơn hai người bình thường nhưng mà không biết ngoại ngữ.
Hai đặc điểm quan trọng nhất của NNKH là tính giản lược và có điểm nhấn,
VD:
- Bình thường: Anh có khỏe không ạ?
- NNKH: “KHỎE không”?
Do tính giản lược và có điểm nhấn nên cấu trúc ngữ pháp ngôn ngữ ký hiệu nhiều khi không thống nhất, cùng một câu có thể sắp xếp nhiều cách khác nhau (thường thì điểm nhấn được đưa lên đầu câu để gây hiệu quả chú ý)
VD:
- Bình thường: Hôm qua, tôi gặp lại người bạn thân ở công viên. (Trong câu này, điểm nhấn là GẶP, và BẠN THÂN)
- NNKH: Bạn thân Gặp ở công viên hôm qua
Ngôn ngữ ký hiệu và cuộc sống
Thực ra, NNKH chính là cuộc sống, vì nó bắt nguồn từ cuộc sống. Dù có hay không nhận thức ra, nhưng chúng ta vẫn đã và đang sử dụng NNKH rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Khoa học đã chứng minh chúng ta truyền tải ngôn ngữ 70% thông qua các biện pháp không lời, tức là cử chỉ, điệu bộ, nét mặt… Một biện pháp đơn giản để nhận ra tầm quan trọng của ngôn ngữ không lời là bạn hãy thử nói chuyện mà nhắm mắt và hoàn toàn không cử động thân thể. Chỉ 30 phút thôi, bạn sẽ ngạc nhiên nhận thấy hiệu quả câu chuyện rất thấp. Chúng ta hoàn toàn mất phương hướng và khả năng phán đoán nếu không có các cử chỉ, điệu bộ, nét mắt của người đối thoại “hướng dẫn”, cũng như nếu không dùng tay chân thì hiệu quảtruyền đạt củng giảm hẳn.
Bạn làm thế nào để diễn đạt tính từ “to lớn”? Có phải dùng 2 tay khoát một vòng tròn lớn trong không khí? Thế nếu ai đó giả bộ cầm micro đung đưa nhún nhảy trước miệng thì bạn nghĩ đến động từ gì? Có phải “hát” không? Bạn làm thế nào để biểu hiện đang “gõ cửa”? Có phải giả bộ gõ gõ vào một cái cửa không khí trước mặt không? Diễn tả động từ “ngủ” thì sao? Có phải áp tay lên má và nhắm mắt lại không?
Như thế, NNKH tràn ngập trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta có thể không nhận thức, nhưng nó vẫn tồn tại, phát triển và giúp cho cuộc sống tiện lợi, thoải mái hơn. Nói cách khác, chính những người bình thường “phát minh” ra NNKH, người câm điếc làm một việc là mô phỏng và hệ thống hóa tất cả lại thành một thứ ngôn ngữ của riêng họ.
Vậy tại sao không học NNKH để hoàn thiện hơn 70% khả năng truyền tải thông tin trong mỗi chúng ta?
Chuẩn hóa và phổ biến ngôn ngữ ký hiệu
Tại Việt Nam hiện nay có rất nhiều phương ngữ ký hiệu khác nhau theo từng khu vực: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Đà Nẵng, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, v.v. Trong đó, ba phương ngữ ký hiệu được sử dụng chính là Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, người ta cũng đang nỗ lực xây dựng một hệ thống ngôn ngữ ký hiệu chuẩn quốc gia.
Việc học ngôn ngữ ký hiệu ở các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Nhật Bản rất thuận lợi do tài liệu học rất phổ biến trên mạng. Hiện nay việc học ngôn ngữ ký hiệu tại Việt Nam cũng thuận lợi hơn do một số nhóm, câu lạc bộ đã hình thành và tiến hành giảng dạy (chẳng hạn Câu lạc bộ Ngôn ngữ ký hiệu của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh).
Bảng ký hiệu tay tham khảo
-
-
-
- A
-
- B
-
- C
-
- D
-
- E
-
- F
-
- G
-
- H
-
- I
-
- J
-
- K
- L
-
- M
-
- N
-
- O
-
- P
-
- Q
-
- R
-
- S
-
- T
-
- U
-
- V
-
- W
-
- X
-
- Y
-
Nguồn: me.phununet.com/WikiPhununet/ChiTietWiki.aspx?m=0&StoreID=26631