Tuổi Trẻ Lên Đường – Tuệ Sĩ

Open PDFTuổi Trẻ Lên Đường - Tuệ Sĩ 1




Tình Người – Tâm Quán (Thích Nhất Hạnh)

Open PDFTình Người - Tâm Quán (Thích Nhất Hạnh)




ƯỚC NGUYỆN TĂNG GIÀ HÒA HỢP

ƯỚC NGUYỆN TĂNG GIÀ HÒA HỢP

“Đức Thế Tôn trước khi thị hiện Niết-bàn đã di chúc thâm thiết: “Chớ nghĩ rằng sau khi Ta diệt độ, Chúng Tỳ-kheo không còn Đạo sư hướng dẫn. Sau khi Ta diệt độ, Pháp và Luật mà Ta đã giảng dạy chính là Đạo sư của Chúng Tỳ-kheo”, và lại nữa, “Các pháp hữu vi là vô thường, các ngươi hãy tinh tấn tu tập, chớ có buông lung.”

Di giáo ấy là ngọn đèn soi tỏ lối đi cho Tăng-già đệ tử Phật trong lịch sử hành đạo và hóa đạo, từ quá khứ cho đến hiện tại, từ Đông cho đến Tây. Mỗi khi Tăng-già đối diện trước nguy cơ phân hóa, Pháp và Luật thiện thuyết là sở y kiên cố để trên đó dựng lại những gì đã bị xô ngã, hàn gắn lại những gì đã bị phá vỡ. Đức Thế Tôn, đấng Đại trí, thấu hiểu mọi căn cơ, các tập khí tùy miên, cùng các xu hướng dị biệt, ý lạc dị biệt, của các hàng chúng sanh, đã thấy rõ khi chúng đệ tử sinh hoạt giữa lòng xã hội thường xuyên bị tác động những giá trị thế tục, rất dễ bị dẫn đến dị giới, dị kiến, những nhân duyên dẫn đến Phá Tăng, do đó đã thiết lập bảy pháp diệt tránh là nguyên tắc sở y để dập tắt các tránh sự có thể xảy ra trong Tăng.

Trong trường hợp tránh sự diễn tiến phức tạp đến trình độ mà toàn thể Tăng-già không thể hòa hợp, thì pháp diệt tránh cuối cùng là “như thảo phú địa” nếu được thực hiện như Pháp như Luật, tất cả tránh sự sẽ được dập tắt, và bản thể Tăng-già thống nhất được xác lập.

Đây là điều không thể dựa vào bất cứ nguyên tắc hay đạo lý thế tục nào mà có thể thích hợp để dẫn dụng”.

HT.Thích Quảng Độ)




Áp dụng Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp để hóa giải chia rẽ trong GĐPTVN -Tâm Quảng Nhận-

Áp dụng Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp

để hóa giải chia rẽ trong GĐPTVN

-Tâm Quảng Nhận-

Trong bối cảnh hiện tại của Gia Đình Phật Tử Việt Nam (GĐPTVNHK), sự chia rẽ đã nổi lên như một thách thức đáng kể, làm lu mờ tinh thần đoàn kết của cộng đồng Áo Lam. Những rạn nứt nội bộ, xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự khác biệt về ý kiến, phong cách quản trị điều hành, đa dạng văn hóa và địa lý, cũng như ảnh hưởng từ bên ngoài, có khả năng cản trở nỗ lực của Tổ chức trong việc thúc đẩy giá trị và giáo lý Phật giáo cho giới trẻ. Khi GĐPTVN(HK) đứng trước bước ngoặt này, việc tìm kiếm giải pháp hiệu quả để nối lại những mối liên kết và nuôi dưỡng tình cảm cộng đồng lam viên mạnh mẽ hơn chưa bao giờ trở nên cấp thiết như lúc này. Trong ngữ cảnh đó, các nguyên tắc kinh lịch Phật giáo về Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp không chỉ đưa ra một lối đi cho sự hòa giải mà còn là một khung cảnh cho việc phát triển sâu rộng hơn sự hiểu biết và hợp tác trong Tổ chức. Cách tiếp cận này kêu gọi chúng ta quay trở lại với các giá trị cốt lõi về sự đồng cảm, tôn trọng và hỗ trợ lẫn nhau, nhằm chữa lành những vết thương và hướng dẫn GĐPTVN(HK) tới một tương lai đoàn kết và vững mạnh hơn.

Nhưng, trước hết câu hỏi đặt ra là sự chia rẽ trong tổ chức GĐPTVN(HK) ngày nay, nguyên nhân từ đâu?

GĐPTVN(HK) là một tổ chức Phật giáo dành cho giới trẻ, được thành lập với mục đích giáo dục đạo đức, lý tưởng sống, và kỹ năng sống cho thanh thiếu niên qua các hoạt động dựa trên tinh thần Phật giáo. Tuy nhiên, như nhiều tổ chức lớn khác, GĐPTVN(HK) cũng không tránh khỏi những chia rẽ nội bộ vì nhiều lý do.

Nguyên nhân của sự chia rẽ có thể đến từ nhiều yếu tố khác nhau:

  1. Khác biệt về quan điểm và phương pháp hoạt động: Các thành viên có thể có những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về mục tiêu và phương pháp hoạt động của tổ chức, dẫn đến bất đồng.
  2. Vấn đề quản trị điều hành và lãnh đạo: Sự thiếu minh bạch trong quản trị điều hành, bất đồng về cách lãnh đạo hoặc quyết định đường hướng có thể tạo ra mâu thuẫn giữa các thành viên và cấp hướng dẫn.
  3. Ảnh hưởng từ bên ngoài: Các yếu tố bên ngoài như chính trị, xã hội hoặc các tổ chức Phật giáo khác cũng có thể ảnh hưởng đến sự thống nhất trong tổ chức.
  4. Khác biệt văn hóa và địa lý:GĐPTVN(HK) hoạt động trên nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, do đó, khác biệt văn hóa và địa lý cũng có thể là nguyên nhân của sự không đồng nhất.
  5. Các vấn đề cá nhân và tài chính:Mâu thuẫn cá nhân giữa các thành viên hoặc các vấn đề liên quan đến tài chính và nguồn lực cũng có thể góp phần vào sự chia rẽ.

Để hiểu rõ hơn về nguyên nhân cụ thể và diễn biến của sự chia rẽ trong GĐPTVN(HK), cần thâm nhậm các chi tiết và cập nhật từ các nguồn đáng tin cậy hoặc những người tham gia trực tiếp trong tổ chức.

Nói thêm về “Ảnh hưởng từ bên ngoài”, đặc biệt về sự khác biệt giữa các truyền thống Phật Giáo hay khác biệt của các tổ chức Phật giáo cũng được xem là những “ảnh hưởng từ bên ngoài”.

Sự khác biệt giữa các truyền thống Phật giáo và sự đa dạng của các tổ chức Phật giáo có thể được coi là những “ảnh hưởng từ bên ngoài” đối với tổ chức GĐPTVN(HK). Đây là cách thức mà những yếu tố ngoại vi có thể ảnh hưởng đến hoạt động và quan điểm của tổ chức:

  1. Sự khác biệt giữa các truyền thống Phật giáo: Phật giáo có nhiều truyền thống như Theravada, Mahayana, và Vajrayana, mỗi truyền thống có những giáo lý và phương pháp tu tập riêng biệt. Sự khác biệt trong học thuyết và thực hành có thể ảnh hưởng đến cách một tổ chức Phật giáo tiếp cận việc giáo dục và phát triển tinh thần cho thành viên của mình.
  2. Sự đa dạng của các tổ chức Phật giáo:Có nhiều tổ chức Phật giáo hoạt động trên toàn thế giới, mỗi tổ chức có sứ mệnh, mục tiêu và phương pháp hoạt động riêng. Sự tương tác và quan hệ giữa GĐPTVN(HK) với những tổ chức này có thể ảnh hưởng đến quan điểm và hoạt động của GĐPTVN(HK), từ đó tạo ra sự khác biệt hoặc thậm chí là mâu thuẫn.
  3. nh hưởng từ các yếu tố xã hội và chính trị: Các yếu tố xã hội và chính trị của quốc gia hoặc quốc tế cũng có thể ảnh hưởng đến GĐPTVN(HK). Cách mà một tổ như GĐPTVN(HK) phản ứng với những thách thức xã hội và chính trị có thể bị ảnh hưởng bởi quan điểm và hành động của các tổ chức Phật giáo khác.
  4. Giao lưu văn hóa và tôn giáo: Sự giao lưu và tương tác giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau có thể tạo ra cơ hội cũng như thách thức cho GĐPTVN(HK) trong việc duy trì bản sắc và đồng thời hòa nhập với các giá trị mới.

Những “ảnh hưởng từ bên ngoài” này đòi hỏi GĐPTVN(HK) phải có sự linh hoạt trong quản trị điều hành và điều chỉnh các hoạt động của mình để phản ánh và tôn trọng sự đa dạng của Phật giáo, đồng thời duy trì sự thống nhất và mục tiêu chung của tổ chức.

Muốn khắc phục những điểm khác biệt nêu trên, GĐPTVN(HK) trong bối cảnh toàn cầu đa dạng văn hóa, chính trị và ngay cả Phật giáo, cần phải làm gì?

Để giải quyết những khác biệt đã nêu trên, trong bối cảnh toàn cầu đa dạng về văn hóa, chính trị và ngay cả trong Phật giáo, GĐPTVN(HK) cần thực hiện các biện pháp sau:

  1. Tăng cường giao lưu và hợp tác: GĐPTVN(HK) nên tăng cường giao lưu và hợp tác với các tổ chức Phật giáo khác trên thế giới để học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm. Việc này không chỉ giúp mở rộng hiểu biết về các truyền thống Phật giáo khác nhau mà còn thúc đẩy sự đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau.
  2. Đào tạo và giáo dục: Cung cấp các chương trình đào tạo và giáo dục cho các thành viên, đặc biệt là những người trẻ tuổi, về sự đa dạng của Phật giáo và cách tiếp cận linh hoạt với các khác biệt văn hóa và chính trị. Điều này giúp họ phát triển tư duy phê phán và kỹ năng giải quyết xung đột.
  3. Phát triển đường hướng hoạt động linh hoạt:Xây dựng và phát triển các chính sách linh hoạt để thích ứng với sự thay đổi của xã hội và môi trường chính trị, đồng thời duy trì giáo lý và giá trị cốt lõi của Phật giáo.
  4. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng:Khuyến khích sự tham gia rộng rãi của cộng đồng trong các quyết định và hoạt động của tổ chức, qua đó nâng cao sự minh bạch và tạo dựng lòng tin.
  5. Sử dụng công nghệ: Tận dụng công nghệ để tạo ra các nền tảng trực tuyến cho việc giáo dục, giao lưu và hợp tác quốc tế, giúp vượt qua rào cản địa lý và văn hóa.
  6. Chú trọng đến đối thoại liên tôn: Tham gia vào các cuộc đối thoại liên tôn và liên văn hóa nhằm xây dựng sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau.
  7. Phát triển và thực hiện các dự án chung: Phát triển và thực hiện các dự án chung với các tổ chức Phật giáo và phi Phật giáo khác, nhằm giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường, qua đó thể hiện giáo lý Phật giáo trong hành động.

Bằng cách này, GĐPTVN(HK) có thể vượt qua sự khác biệt và đóng góp vào việc xây dựng một cộng đồng Phật giáo toàn cầu đa dạng, hòa nhập và hòa bình.

Đặc biệt, vai trò của những nhà lãnh đạo GĐPTVN(HK), tức Huynh Trưởng, cần phải nhận thức rõ sứ mệnh của mình như thế nào trước sự phân hóa của tổ chức?

Trong bối cảnh của sự phân hóa trong tổ chức GĐPTVN(HK) và đa dạng văn hóa, chính trị, cũng như sự phong phú của truyền thống Phật giáo toàn cầu, vai trò của các Huynh Trưởng, những nhà lãnh đạo trong GĐPTVN(HK), trở nên hết sức quan trọng. Để đối mặt và khắc phục sự phân hóa này, Huynh Trưởng cần phải:

  1. Hiểu rõ và truyền đạt sứ mệnh của GĐPTVN(HK): Mỗi Huynh Trưởng cần có sự hiểu biết sâu sắc về mục tiêu và sứ mệnh của GĐPTVN(HK), đồng thời truyền đạt rõ ràng những giá trị này đến các thành viên, nhấn mạnh sự quan trọng của việc duy trì tinh thần đoàn kết và hòa bình trong tổ chức.
  2. Phát triển kỹ năng giao tiếp và giải quyết xung đột: Huynh Trưởng cần phải trang bị cho mình những kỹ năng giao tiếp hiệu quả và các phương pháp giải quyết xung đột một cách lành mạnh, nhằm đảm bảo mọi bất đồng có thể được thảo luận và giải quyết một cách cởi mở và tôn trọng lẫn nhau.
  3. Tôn trọng và chấp nhận sự đa dạng: Các Huynh Trưởng cần phải thể hiện sự tôn trọng và chấp nhận sự đa dạng trong tổ chức, từ đó tạo ra một môi trường mở, nơi mọi người có thể học hỏi và phát triển từ những quan điểm và kinh nghiệm đa dạng.
  4. Đào tạo và phát triển lãnh đạo kế cận:Việc đào tạo và phát triển thế hệ lãnh đạo tiếp theo, những người có khả năng tiếp tục sứ mệnh và giá trị của GĐPTVN(HK), là rất quan trọng. Huynh Trưởng cần chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức và kỹ năng lãnh đạo, cũng như tinh thần phục vụ cộng đồng.
  5. Tăng cường giao lưu và hợp tác:Tạo điều kiện cho sự giao lưu và hợp tác giữa các thành viên GĐPTVN(HK) trên toàn thế giới, nhằm thúc đẩy sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các truyền thống và văn hóa Phật giáo khác nhau.
  6. Hướng dẫn bằng tấm gương: Huynh Trưởng cần phải là tấm gương sáng về đạo đức, lòng kiên nhẫn và sự bao dung, thể hiện qua hành động và lời nói hàng ngày, từ đó khích lệ thành viên noi theo.

Bằng cách nhận thức rõ sứ mệnh của mình và áp dụng những biện pháp trên, các Huynh Trưởng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hàn gắn sự phân hóa và xây dựng một tổ chức GĐPTVN(HK) mạnh mẽ, đoàn kết hơn.

Có thể áp dụng Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp để giải quyết sự phân hóa của GĐPTVN(HK) không?

Có, việc áp dụng Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp là một phương pháp rất thiết thực và phù hợp để giải quyết sự phân hóa trong GĐPTVN(HK) cũng như trong bất kỳ tổ chức cộng đồng nào dựa trên tinh thần Phật giáo. Cả hai bộ pháp này đều nằm ở trung tâm của giáo lý Phật giáo về sự hòa hợp và đồng lòng.

Lục Hòa: Lục Hòa là sáu phương pháp tạo nên sự hòa thuận và đồng lòng trong cộng đồng, bao gồm:

  1. Thân hòa:Sống chung với nhau một cách hòa thuận.
  2. Khẩu hòa:Nói chuyện với nhau một cách hòa thuận.
  3. Ý hòa:Chia sẻ cùng nhau một cách hòa thuận về quan điểm và ý kiến.
  4. Giới hòa:Tuân thủ cùng một bộ quy tắc đạo đức một cách hòa thuận.
  5. Kiến hòa:Chia sẻ và hiểu biết lẫn nhau về giáo lý một cách hòa thuận.
  6. Lợi hòa:Chia sẻ lợi ích và thành quả một cách hòa thuận.

Tứ Nhiếp Pháp: Tứ Nhiếp Pháp là bốn phương pháp thu hút và duy trì sự tham gia của mọi người, gồm:

  1. Bố thí:Cho đi hoặc chia sẻ vật chất và kiến thức.
  2. Ái ngữ: Sử dụng lời nói dễ nghe, ý nghĩa, khích lệ và an ủi người khác.
  3. Lợi ích hành động:Hành động vì lợi ích của người khác, không chỉ vì bản thân.
  4. Tương ứng hành:Hành xử theo cách mà mình dạy hoặc khuyên người khác, thể hiện tính nhất quán và chân thành.

Áp dụng Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp trong GĐPTVN(HK) có thể giúp giải quyết sự phân hóa bằng cách:

  1. Tăng cường sự hòa hợp: Khuyến khích các thành viên sống và làm việc cùng nhau một cách hòa thuận, giảm bớt mâu thuẫn và xung đột.
  2. Thúc đẩy đồng lòng:Tạo ra một môi trường đồng lòng qua việc chia sẻ quan điểm, giáo lý và lợi ích một cách cởi mở và công bằng.
  3. Xây dựng niềm tin và tôn trọng: Phát triển mối quan hệ dựa trên niềm tin và tôn trọng lẫn nhau thông qua việc áp dụng các nguyên tắc đạo đức và hành xử.

Những nguyên tắc này không chỉ giúp giải quyết sự phân hóa trong tổ chức mà còn tạo ra một cộng đồng mạnh mẽ, đoàn kết, và tiến bộ, phản ánh đúng tinh thần của giáo lý Phật giáo.

Kết luận:

  1. Nguyên nhân chia rẽ trong GĐPTVN(HK) bao gồm khác biệt về quan điểm và phương pháp hoạt động, vấn đề quản lý và lãnh đạo, ảnh hưởng từ bên ngoài, khác biệt văn hóa và địa lý, cũng như các vấn đề cá nhân và tài chính.
  2. Giải pháp giải quyết chia rẽ được đề xuất qua việc áp dụng Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp, nhấn mạnh vào việc tăng cường sự đồng cảm, hợp tác, và hỗ trợ lẫn nhau.
  3. Vai trò của Huynh Trưởng được xem là yếu tố then chốt, thông qua việc hiểu rõ và truyền đạt sứ mệnh của tổ chức, phát triển kỹ năng giao tiếp và giải quyết xung đột, tôn trọng và chấp nhận sự đa dạng, đào tạo lãnh đạo kế cận, tăng cường giao lưu và hợp tác, cũng như hướng dẫn bằng tấm gương cá nhân.

Nói chung, thông qua việc áp dụng các giải pháp này và tận dụng vai trò lãnh đạo của Huynh Trưởng, GĐPTVN(HK) hướng tới việc giảm thiểu sự chia rẽ và xây dựng một tổ chức mạnh mẽ và đoàn kết hơn.

Mặc dù áp dụng Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp vào thực tiễn có thể gặp nhiều thách thức vì đòi hỏi sự thay đổi về thái độ, hành vi và tư duy của cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên, Giáo Đoàn Phật Tử Việt Nam (GĐPTVN) vẫn có thể thực hiện được những nguyên tắc này vì một số lý do sau:

  1. Nền tảng vững chắc về giáo lý Phật giáo: GĐPTVNHK có một nền tảng vững chắc về giáo lý và truyền thống Phật giáo, giúp các thành viên hiểu và đồng cảm sâu sắc với tinh thần của Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp.
  2. Tinh thần cộng đồng mạnh mẽ: Sự kết nối và tinh thần cộng đồng trong GĐPTVNHK tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các phương pháp hòa giải và thu hút mọi người hướng tới mục tiêu chung.
  3. Huấn luyện và giáo dục liên tục: GĐPTVNHK chú trọng vào việc huấn luyện và giáo dục cho các Huynh Trưởng và thành viên, không chỉ về kiến thức Phật giáo mà còn về kỹ năng sống, giao tiếp và giải quyết xung đột, làm cho việc áp dụng những nguyên tắc này trở nên khả thi hơn.
  4. Sự lãnh đạo linh hoạt và sáng tạo: Lãnh đạo của GĐPTVNHK thường mở cửa cho sự đổi mới và linh hoạt trong việc áp dụng các nguyên tắc và phương pháp mới nhằm đáp ứng nhu cầu của tổ chức và xã hội hiện đại.
  5. Cam kết chung về sự phát triển và hòa nhập: Cả lãnh đạo và các thành viên trong GĐPTVNHK đều có một cam kết chung về việc phát triển cá nhân và cộng đồng, cũng như một ý thức mạnh mẽ về việc hòa nhập các giá trị Phật giáo vào cuộc sống hàng ngày.

Những yếu tố này tạo điều kiện cho GĐPTVNHK không chỉ nhìn nhận thách thức trong việc áp dụng Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp mà còn tìm ra cách thức sáng tạo và thiết thực để vượt qua chúng, từ đó tăng cường sự đoàn kết và hiệu quả trong hoạt động của tổ chức.

Applying the Six Harmonies
and the Four Means of Embracement
to Resolve Divisions in GĐPTVN(HK)

In the current context of the Vietnamese Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK), the division has emerged as a significant challenge, overshadowing the spirit of solidarity within the Ao Lam community. Internal rifts, stemming from various causes such as differences in opinions, management styles, cultural and geographical diversity, as well as external influences, have the potential to hinder the organization’s efforts in promoting Buddhist values and teachings to young people. As GĐPTVN(HK) faces this turning point, finding effective solutions to reconnect and nurture a stronger Lam Vien community sentiment has never been more urgent than it is now. In this context, the ancient Buddhist principles of the Six Harmonies and the Four Means of Embracement not only offer a path to reconciliation but also a framework for developing deeper understanding and cooperation within the organization. This approach calls us to return to our core values of empathy, respect, and mutual support, to heal our wounds and guide the organization towards a future of greater solidarity and strength.

The Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK) is an organization dedicated to the moral, idealistic, and life-skill education of young people through activities grounded in Buddhist principles. However, like many large organizations, GĐPTVNHK is not immune to internal divisions for various reasons.

The causes of division can come from multiple factors:

  1. Differences in viewpoints and operational methods: Members may have different opinions and approaches regarding the organization’s goals and methods of operation, leading to disagreements.
  2. Management and leadership issues: A lack of transparency in management and disagreements over leadership styles or policy decisions can create conflicts between members and leadership levels.
  3. External influences: External factors such as politics, society, or other Buddhist organizations can also affect unity within the organization.
  4. Cultural and geographical differences: GĐPTVN(HK) operates in many countries and territories, so cultural and geographical differences can also be reasons for a lack of unity.
  5. Personal and financial issues: Personal conflicts between members or issues related to finance and resources can also contribute to divisions.

To understand more about the specific causes and developments of the divisions within GĐPTVN(HK), detailed and updated information from reliable sources or those directly involved in the organization is needed.

Expanding on “external influences,” specifically, the differences between Buddhist traditions or the diversity among Buddhist organizations are also considered “external influences.” Here’s how these external factors can impact the operations and perspectives of the organization:

  1. Differences between Buddhist traditions:Buddhism includes various traditions such as Theravada, Mahayana, and Vajrayana, each with its own doctrines and practices. Differences in teachings and practices can influence how a Buddhist organization approaches the education and development of spirituality in its members.
  2. Diversity of Buddhist organizations: There are many Buddhist organizations operating worldwide, each with its mission, goals, and methods of operation. The interactions and relationships between GĐPTVN(HK) and these organizations can impact GĐPTVN(HK)’s perspectives and activities, creating differences or even conflicts.
  3. Influence from social and political factors:Social and political factors at local or international levels can also affect Buddhist organizations. How an organization like GĐPTVN(HK) responds to social and political challenges may be influenced by the viewpoints and actions of other Buddhist organizations.
  4. Cultural and religious exchange:The exchange and interaction between different cultures and religions can create opportunities as well as challenges for GĐPTVN(HK) in maintaining its identity while integrating new values.

These “external influences” require GĐPTVN(HK) to be flexible in managing and adjusting its activities to reflect and respect the diversity of Buddhism, while maintaining the unity and common goals of the organization.

To address the differences mentioned, within a global context marked by cultural and political diversity, and even within Buddhism itself, the Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK) might consider the following strategies:

  1. Promote Dialogue and Understanding:Encourage open dialogue and understanding among members to bridge differences in Buddhist practices and views. This can involve organizing workshops, seminars, and interfaith dialogues that foster a deeper understanding of various Buddhist traditions and cultural backgrounds.
  2. Enhance Flexibility in Practices: Adopt a more flexible approach to religious practices and organizational activities. This could mean allowing variation in practices to accommodate the diversity of its membership base, reflecting different Buddhist traditions and cultural backgrounds.
  3. Strengthen Leadership and Governance:Develop a transparent and inclusive governance structure that allows for the representation of diverse views within the organization. Leadership training programs could be instituted to prepare leaders to manage diversity effectively and promote unity.
  4. Focus on Common Goals and Values: Emphasize the common goals and core values of Buddhism, such as compassion, mindfulness, and the pursuit of enlightenment. By focusing on what unites members rather than what divides them, GĐPTVNHK can foster a sense of unity and purpose.
  5. Engage in Community Service: Engage in community service and humanitarian projects that reflect the compassionate aspect of Buddhism. Such activities can bring members together, promote positive visibility in the community, and provide a platform for cooperation beyond doctrinal differences.
  6. Leverage Technology for Connectivity: Use technology and social media to connect members across geographical and cultural divides. This can help in sharing educational content, organizing virtual events, and facilitating discussions that enhance mutual understanding and solidarity.
  7. Build Inter-Organizational Partnerships: Establish partnerships with other Buddhist organizations and interfaith groups to collaborate on issues of mutual interest. This can help in broadening perspectives and reducing sectarianism.
  8. Educate on Cultural Sensitivity:Implement cultural sensitivity training for members, focusing on understanding and respecting different cultural norms and practices. This is crucial for an organization operating in a global context.

By adopting these strategies, GĐPTVNHK can work towards overcoming the challenges posed by cultural, political, and religious diversity, ultimately strengthening its unity and impact as a Buddhist youth organization in a globalized world.

Specifically, how should the leaders of the Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK), known as Huynh Trưởng, be aware of their mission in the face of the organization’s divisions?

In the context of divisions within the Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK) and the cultural, and political diversity, as well as the richness of global Buddhist traditions, the role of the leaders, known as Huynh Trưởng, becomes extremely important. To face and overcome these divisions, Huynh Trưởng needs to:

  1. Understand and communicate the mission of GĐPTVNHK: Each Huynh Trưởng should have a deep understanding of the goals and mission of GĐPTVN, and clearly convey these values to the members, emphasizing the importance of maintaining a spirit of unity and peace within the organization.
  2. Develop communication and conflict resolution skills: Huynh Trưởng needs to equip themselves with effective communication skills and healthy conflict resolution methods, ensuring that disagreements can be discussed and resolved in an open and respectful manner.
  3. Respect and accept diversity: The Huynh Trưởng should demonstrate respect for and acceptance of diversity within the organization, thereby creating an open environment where people can learn and grow from diverse viewpoints and experiences.
  4. Train and develop the next generation of leaders: Training and developing the next generation of leaders, who are capable of continuing the mission and values of GĐPTVNHK, is crucial. Huynh Trưởng should focus on imparting knowledge and leadership skills, as well as the spirit of community service.
  5. Enhance exchange and cooperation:Facilitate exchange and cooperation among GĐPTVNHK members worldwide to promote understanding and respect among different Buddhist traditions and cultures.
  6. Lead by example: Huynh Trưởng should be moral, patient, and tolerant exemplars through their actions and words, thereby encouraging members to follow suit.

By being aware of their mission and applying the above measures, the Huynh Trưởng can play a significant role in healing divisions and building a stronger, more united GĐPTVNHK organization.

Can the Six Harmonies (Lục Hòa) and the Four Means of Embracement (Tứ Nhiếp Pháp) be applied to resolve the divisions within the Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK)?

Yes, the application of the Six Harmonies (Lục Hòa) and the Four Means of Embracement (Tứ Nhiếp Pháp) could indeed offer valuable frameworks for resolving divisions within the Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK). These principles, rooted in Buddhist teachings, emphasize unity, cooperation, and compassionate action, which can be instrumental in fostering a more cohesive and harmonious organization. Here’s how they might be applied:

Application of the Six Harmonies (Lục Hòa)

The Six Harmonies, a set of principles aimed at promoting unity and cooperation within a community, include:

  1. Harmony in having shared views:Encouraging a shared understanding and acceptance of the core values and goals of GĐPTVN among all members.
  2. Harmony in speaking: Promoting open, honest, and respectful communication to bridge gaps and resolve misunderstandings.
  3. Harmony in living together: Fostering a sense of community and mutual support among members, regardless of geographical and cultural differences.
  4. Harmony in observing the precepts together:Encouraging the collective observance of ethical guidelines and practices that reinforce the organization’s values.
  5. Harmony in experiencing things together:Sharing experiences and practices that deepen members’ connection to Buddhist teachings and to each other.
  6. Harmony in sharing benefits: Ensuring that all members benefit fairly from the organization’s resources and opportunities, promoting a sense of equity and mutual respect.

Application of the Four Means of Embracement (Tứ Nhiếp Pháp)

The Four Means of Embracement, strategies for attracting and maintaining a harmonious community, include:

  1. Giving (Dāna): Offering support, resources, and opportunities to all members equally, ensuring that the organization caters to the needs of its diverse membership.
  2. Kind speech (Priyavācā):Using kind and encouraging words to build trust, heal divisions, and foster a positive, supportive environment.
  3. Beneficial action (Arthacarya): Taking actions that benefit the organization and its members, demonstrating the value of collective well-being over individual interests.
  4. Sameness (Samanārthatā): Sharing in the hardships and successes of the organization, promoting empathy and a shared sense of purpose among members.

By integrating these principles into its leadership, communication, and operational strategies, GĐPTVNHK can work towards healing divisions and building a more unified, compassionate, and effective organization. This approach not only aligns with Buddhist values but also offers practical steps towards fostering a culture of respect, understanding, and cooperation.

Conclusion

The discussion summarizes the causes and solutions for divisions within the Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK) and the role of the leaders, known as Huynh Trưởng, in addressing this issue:

  • Causes of divisions include differences in viewpoints and operational methods, management and leadership issues, external influences, cultural and geographical differences, as well as personal and financial problems.
  • Solutions to resolve divisions are proposed through the application of the Six Harmonies and the Four Means of Embracement, emphasizing the enhancement of empathy, cooperation, and mutual support.
  • The role of Huynh Trưởng is seen as crucial, through understanding and conveying the mission of the organization, developing communication and conflict resolution skills, respecting and accepting diversity, training the next generation of leaders, enhancing interaction and cooperation, and leading by example.

In summary, by applying these solutions and leveraging the leadership role of Huynh Trưởng, GĐPTVNHK aims to reduce divisions and build a stronger, more united organization.

Applying the Six Harmonies and the Four Means of Embracement may seem straightforward in theory but challenging in practice. However, the Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK) can still implement these principles. Why is that?

The Vietnam Buddhist Youth Association (GĐPTVNHK) can effectively implement the Six Harmonies and the Four Means of Embracement despite the challenges in practice due to several reasons:

  1. Strong Foundation in Buddhist Principles: GĐPTVNHK’s deep roots in Buddhist teachings provide a solid foundation for understanding and applying these principles. The organization’s commitment to fostering a Buddhist way of life among its members makes the adoption of these concepts more feasible.
  2. Community Support:The sense of community and mutual support within GĐPTVNHK can facilitate the practical application of these principles. Members can rely on each other for guidance, encouragement, and assistance in overcoming the challenges of implementation.
  3. Adaptation and Flexibility:GĐPTVNHK has the ability to adapt these ancient principles to modern contexts and challenges. This adaptability allows the organization to find innovative ways to apply the Six Harmonies and the Four Means of Embracement in ways that resonate with the current generation.
  4. Leadership Commitment: The commitment of GĐPTVNHK’s leaders, particularly the Huynh Trưởng, to embodying and promoting these principles plays a crucial role. Their dedication to living by these teachings and guiding others to do the same can inspire and facilitate wider adoption within the organization.
  5. Educational Programs: GĐPTVNHK’s focus on educational programs offers a platform for teaching the practical aspects of these principles. Through workshops, seminars, and retreats, members can learn not only the theoretical underpinnings but also how to apply them in daily life and organizational activities.
  6. Cultural Relevance: The principles of the Six Harmonies and the Four Means of Embracement are culturally relevant to the Vietnamese context and the broader Buddhist community. This relevance makes it easier for members to understand their importance and apply them in their interactions.
  7. Persistence and Patience: The organization’s recognition of the value of persistence and patience in spiritual and communal growth supports the gradual and consistent application of these principles, despite the challenges.

By leveraging these strengths, GĐPTVNHK can navigate the difficulties of practical application and successfully integrate the Six Harmonies and the Four Means of Embracement into its operations and community life, fostering a more harmonious and cohesive environment.

Nguồn: https://sentrangusa.com/2024/02/04/tam-quang-nhuan-ap-dung-luc-hoa-va-tu-nhiep-phap-de-hoa-giai-chia-re-trong-gdptvnhk/




GANH GHÉT VÀ TỊ HIỀM

GANH GHÉT VÀ TỊ HIỀM

Hỏi: Trong vai trò của người Huynh trưởng GĐPTVN, trên lộ trình tu tập, không nên dụng công nhằm triệt hạ cộng sự để tiến danh.

Góp ý: Việc một nhà lãnh đạo – Huynh trưởng trong GĐPTVN không sử dụng quyền lực hay ra công đốn ngã người khác để tiến thân (danh) là một ứng xử đúng đắn và có tinh thần Phật tử. Trong môi trường hoạt động của GĐPTVN, những người lãnh đạo thường được kỳ vọng tuân theo các nguyên tắc như lòng nhân ái, sự kiên nhẫn, và tôn trọng đối với tất cả mọi người.

Con đường tu tập trong Phật giáo thường nhấn mạnh vào việc phát triển lòng từ bi, sự nhẫn nhục và tôn trọng đối với mọi sinh linh. Đối với những người đứng đầu trong GĐPTVN, việc không sử dụng quyền lực một cách lạm dụng hay áp đặt tư tâm của mình lên người khác là một biểu hiện của sự hiểu biết về tâm lý con người và lòng trung nghĩa.

Một lãnh đạo có tư duy Phật tử thường tìm kiếm giải pháp thông qua sự đồng lòng và hòa giải, thay vì tìm kiếm sự thống trị hay mưu lợi cá nhân. Họ có thể sử dụng sự lắng nghe và thông cảm để hiểu rõ hơn về quan điểm và nhu cầu của người khác, từ đó đưa ra quyết định chân thật và có tâm.

Với lòng tin vào sự phát triển tâm linh và nhân quả, những nhà lãnh đạo trong GĐPTVN thường xuyên đặt bản thân mình vào vị trí của người khác và tìm kiếm sự hòa giải và hài hòa trong mọi tình huống. Điều này không chỉ giúp họ phát triển bản thân mà còn góp phần vào sự hòa bình và hạnh phúc cho cộng đồng Phật tử.

Hỏi: Làm gì để chế ngự lòng ghanh ghét, tị hiềm (nếu có) trong GĐPTVN?

Để chế ngự lòng tị hiềm trong GĐPTVN hoặc bất kỳ cộng đồng Phật tử nào khác, bạn có thể thực hiện những bước sau đây:

Thực Hành Phật Giáo: Học và áp dụng những giảng dạy của Đức Phật về lòng từ bi, lòng nhân ái, và khoan dung. Thực hành thiền định để làm dịu đi tâm trạng, giảm căng thẳng và tăng cường khả năng kiểm soát tâm lý.

Tiếp cận và Hiểu Rõ: Hiểu rõ nguyên nhân của lòng tị hiềm ganh ghét. Có thể đến từ sự hiểu lầm, sự tự ti mặc cảm, hoặc những trải nghiệm tiêu cực khác. Tìm hiểu về các giảng dạy Phật pháp liên quan đến nhận biết và chấp nhận cảm xúc.

Hành Thiện: Tự cảm thông và đặt mình vào vị trí của người khác. Hành thiện và từ bi, như giúp đỡ người khác, chia sẻ niềm vui và nâng cao tinh thần tích cực.

Tìm Kiếm Sự Giúp Đỡ: Tham gia các buổi lễ, hội thảo, hoặc nhóm thảo luận trong cộng đồng Phật tử để chia sẻ và học hỏi từ những người khác. Nếu lòng tị hiềm ganh ghét là một vấn đề lớn, bạn có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người hướng dẫn tâm lý hoặc bậc thầy Giáo hạnh.

Thực Hiện Thường Xuyên Kiểm soát Bản Thân: Theo dõi tâm trạng và suy nghĩ của mình thường xuyên. Nếu phát hiện tị hiệm ganh ghét nổi lên, hãy chấp nhận nó mà không bị cuốn vào, và tìm cách xử lý một cách tích cực.

Thực Hành Tự Giác: Tự đặt ra những thách thức để phát triển lòng nhân ái và khoan dung. Hãy tự đặt ra những mục tiêu tích cực về tâm linh để theo đuổi và thực hiện.

Nhớ rằng, chế ngự lòng ganh ghét (tị hiềm) là một quá trình dài lâu và đòi hỏi sự nhất quán và kiên nhẫn. Sự hỗ trợ từ cộng đồng Phật tử và việc thực hành đều đặn có thể giúp bạn trên con đường này.

– A leader in GĐPTVN (Buddhist Youth Association of Vietnam), on the path of spiritual practice, refrains from using power to bring others down in order to advance.

The act of a leader in GĐPTVN not employing power or authority to oppress others for personal advancement is considered appropriate and in line with Buddhist principles. In the context of GĐPTVN, leaders are expected to adhere to principles such as compassion, patience, and respect for all individuals.

The path of spiritual cultivation in Buddhism emphasizes the development of loving-kindness, patience, and respect for all sentient beings. For those at the helm of GĐPTVN, refraining from the misuse of power or imposition of personal opinions on others is an expression of understanding human psychology and filial piety.

A leader with a Buddhist mindset often seeks solutions through consensus and reconciliation, rather than pursuing domination or personal gain. They may use listening and empathy to better understand the perspectives and needs of others, making decisions that are sincere and compassionate.

With a belief in spiritual development and the law of karma, leaders in GĐPTVN often place themselves in the shoes of others and seek reconciliation in every situation. This not only helps in personal development but also contributes to peace and happiness within the Buddhist community.

– To overcome feelings of resentment in GĐPTVN (Buddhist Youth Association of Vietnam) or any Buddhist community, you can follow these steps:

Practice Buddhist Spirituality:

Learn and apply the teachings of the Buddha on compassion, loving-kindness, and tolerance.

Engage in meditation to calm the mind, reduce stress, and enhance emotional control.

Study and Understand:

Understand the causes of resentment, which may stem from misunderstanding, dissatisfaction with oneself, or other negative experiences.

Explore teachings in Buddhist philosophy related to recognizing and accepting emotions.

Engage in Positive Actions:

Cultivate empathy by putting yourself in others’ shoes.

Perform benevolent actions and acts of compassion, such as helping others, sharing joy, and uplifting spirits.

Seek Assistance:

Participate in ceremonies, workshops, or discussion groups within the Buddhist community to share and learn from others.

If resentment is a significant issue, seek assistance from mental health professionals or Buddhist teachers.

Regularly Self-Reflect:

Monitor your mood and thoughts regularly.

If resentment arises, accept it without getting entangled and find positive ways to deal with it.

Practice Mindful Self-discipline:

Set challenges for yourself to develop compassion and tolerance.

Establish positive spiritual goals to pursue and implement.

Remember that overcoming resentment is a gradual process that requires consistency and patience. Support from the Buddhist community and regular practice can aid you on this journey.




Bốn Bước Để Tha Thứ – William Martin Fergus

   

William Martin Fergus




GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ
HTr cấp Dũng Tâm Minh-Vương Thúy Nga

Kính thưa quý vị và các bạn!
Tại sao phải thu gọn “giáo dục” lại thành giáo dục trong GĐPT? Xin thưa, bởi vì giáo dục nói chung quá rộng lớn và khi nhấn mạnh giáo dục trong GĐPT chúng tôi muốn nói đến giáo dục Phật giáo mà anh chị em huynh trưởng đã được trao truyền và áp dụng không chỉ trong việc giáo dục đàn em mà còn áp dụng cho chính bản thân nữa. Người làm công tác giáo dục trong GĐPT không phải chỉ cần biết trao truyền kiến thức, cũng không phải chỉ là nhà truyền giáo đơn thuần, mà còn phải biết dùng những phương tiện để thu hút các em, lôi cuốn các em đến học Phật và thấm nhuần Phật pháp một cách tự nhiên. Tất nhiên là không phải đến với GĐPT để tẩy não các em hay để nhồi nhét Phật pháp cho các em, v.v… Giáo dục Phật giáo khác với giáo dục Khổng-Mạnh hay giáo dục của Jean Jacques Rousseau. Trong chương trình tu học của các em từ ngành Thiếu đến Huynh trưởng thì môn học Phật pháp là quan trọng nhất, nhưng vì các em không phải là người xuất gia hay chuẩn bị để xuất gia nên chương trình tu học cần phải có đủ thứ hết: ngoài Phật pháp còn có Hoạt động thanh niên (HĐTN), Văn nghệ, Trại + Sinh hoạt Trại, ở hải ngoại còn có thêm môn Việt ngữ. Trong HĐTN có gút, truyền tin (Morse, Sémaphore, dấu đi đường…), cứu thương, đo đạc, thiên văn, v.v… Trong văn nghệ có báo chí, sân khấu, trình diễn, cách sử dụng những nhạc cụ thông thường, v.v…

Người Huynh trưởng GĐPT là những nhà giáo dục, có người không được đào tạo từ một trường Sư phạm nào cả, có người không có nhiều bằng cấp hay học vấn uyên thâm như những học giả, triết gia… Nhưng với tấm lòng thương yêu trẻ, vì Tam bảo và tổ chức GĐPT nên những anh chị ấy đã thành công trong việc giáo dục các em sống đúng theo chân tinh thần Phật giáo. Với tinh thần trách nhiệm, vì tình thương cho các em, các anh chị Huynh trưởng đã không ngừng thao thức, trăn trở… tìm những phương pháp thích hợp để hướng dẫn cho các em. Không phải đợi đến thế kỷ thứ 21 mới có một nền giáo dục mang tính chất nhân bản dân tộc và khai phóng, mà cách đây gần 3000 năm đức Thế Tôn đã chủ trương một nền giáo dục mang các đặc tính mà hiện nay các nhà trường tiên tiến trên thế giới đang áp dụng: tinh thần thực tiễn, tinh thần hướng dẫn, khích lệ, tinh thần tự tín tự chủ, tinh thần độc lập, tinh thần tùy duyên bất biến, v.v…

Trước khi mời quý vị và các bạn theo dõi buổi hội thoại giữa các huynh trưởng về phương pháp giáo dục trong GĐPT, xin kể quý vị nghe một câu chuyện để chúng ta thấy rằng dạy Trẻ có nhiều điều thú vị bất ngờ, và bài học mà người lớn muốn cho các em tiếp thu không phải khi nào cũng giống như điều mà người lớn đã dự tính đâu!

Có một nhà quý tộc giàu nọ, một hôm đưa cậu con trai về đồng quê để thăm nhà một nông dân rất nghèo, để dạy cho con biết “người nghèo sống như thế nào”. Cậu bé rất vui khi được hít thở không khí trong lành của đồng ruộng và rong chơi suốt ngày. Khi trở về người cha hỏi: con có thích cuộc đi chơi này không? Dạ thích lắm!

Vậy con đã thấy người nghèo sống như thế nào chưa? Con đã học được những gì nào?

Dạ con học được nhiều lắm! Thí dụ như nhà họ có bốn con chó, nhà mình chỉ có một con; nhà mình chỉ có một cái hồ bơi nhỏ ở trong vườn nhà thôi, còn họ có cả con kênh dài vô tận! Lồng đèn của mình chỉ thắp sáng trong vườn, còn họ thì có muôn ngàn vì sao trên trời soi sáng; nhà mình nhìn ra chỉ có cái patio nhỏ xíu, còn họ có thể nhìn xa ra tận chân trời. Nhà mình có người làm phục vụ, còn họ thì phục vụ người khác, mình phải mua thức ăn còn họ tự trồng để ăn; nhà mình có tường rào bao bọc che chở, còn họ có bạn bè, bà con láng giềng che chở.

Người cha không nói được lời nào, cuối cùng cậu con thêm vào một câu: cảm ơn ba đã chỉ cho con biết, chúng ta thật là nghèo nàn biết bao!

Có phải là thú vị bất ngờ không, thưa quý vị và các bạn??! !!

Bây giờ, xin kính mời quý vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại về Giáo dục trong GĐPT sau đây với những huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C:

A: Đề tài của chúng ta hôm nay là vấn đề giáo dục trong GĐPT phải không?

B: Phải, phải, nhưng đi sâu vào phương pháp hướng dẫn các em, và còn định hướng cho các em của chúng ta nữa.

C: Không phải chỉ cho đoàn sinh mà còn cho huynh trưởng nữa đó!

A: Chà! Sao nhiều vậy? Mình cứ thảo luận đến đâu hay đến đó nha! Trước hết bạn nào mở đầu bằng tinh thần giáo dục của GĐPT là gì đi nha!

B: Dạ được, tinh thần giáo dục của GĐPT đã được nêu lên làm châm ngôn của GĐPT, đó là: Bi, Trí, Dũng. Giáo dục trước hết phải thương yêu đối tượng mình giáo dục, phải không các bạn? Người Thầy, người Huynh trưởng, phải mở rộng lòng mình ra để bao dung cho người học trò, người đệ tử của mình (bi). Nhưng lòng bao dung không phải là nuông chiều quá mức để học trò sinh hư mà phải có kỷ luật, nề nếp, vì vậy cần phải có hiểu biết (trí tuệ) mới có thể thương yêu đúng cách được. Sự hiểu biết và thương yêu này không chỉ duy trì trong vài giờ vài ngày vài tháng mà có khi đến vài năm cho nên cần phải có một tình thương vững bền, một sự tinh cần cao độ, một sự hy sinh không tính toán, một sự hỷ xả vô điều kiện (dũng) mới được.

C: Đúng vậy, cho nên ai đã “mang lấy nghiệp” huynh trưởng vào thân thì cũng đừng “trách trời gần trời xa” nha! !!

A: Phải rồi, vì làm huynh trưởng GĐPT không có lãnh lương, không có benefits, không có vacation, mà còn tốn tiền xăng (đưa đón các em đi sinh hoạt, mua pizza cho các em ăn nếu tụi nhỏ đói bụng, v.v…) vậy mà số lượng huynh trưởng GĐPT ở trong nước hay hải ngoại cũng đều đông đảo cả! Nhưng bây giờ chúng ta bàn đến sự áp dụng tinh thần này vào các bộ môn sinh hoạt của GĐPT nha! Mục đích chính của chúng ta là phổ biến Phật pháp, vậy tại sao lại có bộ môn Văn nghệ trong GĐPT?

B: Văn nghệ GĐPT cũng chuyên chở Phật pháp, đạo đức, tinh thần dân tộc, khai phóng, v.v…

C: Khoan đã, các bạn hãy cho tôi biết thế nào là tinh thần dân tộc? Và khai phóng là gì?

A: Nói cho rõ một chút thì tinh thần giáo dục mới của thế giới ngày nay đòi hỏi một nền giáo dục toàn diện là phải đào tạo được một con người toàn diện với 3 tính chất: nhân bản, dân tộc và khai phóng.

B: Tính chất nhân bản (humanity) nghĩa là con người đó phải biết mình là ai (ví dụ người Phật tử thì biết mình là một hợp thể ngũ uẩn, là kết hợp của 12 nhân duyên, v.v… chẳng hạn); tính dân tộc (nationality) nghĩa là giáo dục cho mình biết nguồn gốc của mình, ông bà tổ tiên của mình là ai, đất nước của mình nằm ở đâu, lịch sử dân tộc mình như thế nào, v.v… nếu không biết thì mình được gọi là người mất gốc; tính khai phóng (liberty, liberal education, free) nghĩa là dạy cho mình biết mở mang tâm thức và trí tuệ, biết tiếp thu những tinh hoa của thế giới, những thành quả của khoa học hiện đại, phải biết mở lòng ra đón những ngọn gió mới làm cuộc đời tươi mát hơn… không phải chỉ khư khư ôm lấy quá khứ của mình, của dân tộc mình, dòng họ mình… rồi trở nên lạc hậu lúc nào không hay. Nói cách khác, gắn bó với quê hương dân tộc không có nghĩa là tự trói chặt mình vào những truyền thống, không mở rộng tầm nhìn ra thế giới đổi mới để học tập và tiến bộ.

C: Như vậy thì mình hiểu rồi, văn nghệ GĐPT nói riêng và các bộ môn khác nói chung quả thật đạt được các yêu cầu ấy. Này nha: mình dạy cho các em những điệu vũ dân tộc, có khi các em múa những điệu vũ Tây phương đã được cải biến cho hợp với giai điệu, phong cách của người Việt Nam, v.v… đã áp dụng computer vào chương trình học trên Net, họp viễn liên trên điện thoại để khỏi phải đi lại mất nhiều thì giờ, tiền bạc… Ở cái xứ sở rộng thênh thang này, tài liệu tu học từ ngành Thiếu đến Huynh trưởng, từ sinh hoạt ở Đơn vị đến sinh hoạt các Trại huấn luyện, v.v… đã được thâu vào những băng video, CD, DVD, v.v… để phổ biến rộng rãi. Ngoài ra mình còn dạy tiếng Việt cho các em Oanh vũ, dạy lịch sử và địa lý cho các em ngành Thiếu và Huynh trưởng nữa.

A: Về các bài hát sinh hoạt, các trò chơi nhỏ và HĐTN cũng vậy, không phải bất cứ bài hát hay trò chơi nào cũng dùng cho GĐPT được. Vì vậy đã có nhiều Huynh trưởng sưu tập những bài hát, những trò chơi nhỏ đã được Phật hóa… để dạy cho các em. Còn môn HĐTN, ví dụ với những Trò chơi lớn, cũng đã kết hợp đầy đủ những phương pháp rèn luyện tính tình, sự tháo vát, thông minh, khéo léo (skills), tác phong và đạo đức của các em rồi.

B: Ngoài ra, dù với bất cứ môn học nào, đặc biệt là Phật pháp, phương pháp quen thuộc nhất của giáo dục GĐPT là văn, tư, tu. Văn là nghe, là huân tập vào tâm trí mình những lời kinh, tiếng kệ, lời đức Phật và chư Tổ dạy, lời giảng của quý Thầy, quý anh chị Trưởng, v.v… Tư là suy nghĩ, trầm tư về những điều đã nghe, có gì không hiểu thì phải hỏi (hỏi tận gốc để không còn thắc mắc mới thôi). Tu là thực hành. Sau khi nghe rồi, hỏi kỹ lại những chỗ còn thắc mắc, suy gẫm, thảo luận với bạn bè xong thì phải thực hành.

C: Phải rồi, nếu học Phật pháp mà không thực hành thì chúng ta chỉ là “những cái đãy đựng sách” đó! Ngoài ra, người Huynh trưởng phải là tấm gương cho đàn em soi nữa, nghĩa là vấn đề thân giáo không thể bỏ qua trong giáo dục GĐPT có phải không?

A: Đúng vậy, cái khó của người Huynh trưởng GĐPT là phải “nói sao làm vậy, làm sao nói vậy” không thôi các em hỏi làm sao trả lời? Nếu chúng ta dạy các em ở lớp, ở trường, sắp nhỏ còn sợ chúng ta vì còn có thể bị cho zero, bị phạt, v.v… còn ở GĐPT mình còn khuyến khích cho các em hỏi, các em thắc mắc nữa! Còn nhớ có em hỏi một anh Huynh trưởng “sao anh dạy tụi em đừng sát sanh mà anh đi câu cá?”, anh ấy phải xin lỗi và từ đó về sau không bao giờ đi câu cá nữa. Tóm lại, một người Huynh trưởng GĐPT không chỉ giáo dục các em trong khi cầm còi, đứng trên bảng, trong chánh điện, trên đất trại, v.v… mà còn phải “dạy” các em ở mọi lúc, mọi nơi. Nói cách khác, các em của chúng ta có mặt ở khắp nơi, nếu chúng ta thiếu tỉnh thức, thiếu tu tập, thì một ngày nào đó, ở một nơi nào đó rất bất ngờ chúng ta sẽ lúng túng không biết trả lời các em làm sao nếu chúng ta “nói một đường, làm một ngả”.

B: Đúng vậy. Và người Thầy, người Huynh trưởng không phải chuyện gì cũng bày vẽ được cho học trò của mình đâu; phải để cho người học trò của mình, đệ tử của mình, đàn em của mình tự làm chủ những vấn đề riêng của nó, mình đâu có phải là nó để thay thế nó mà giải quyết được.

C: Phải rồi, bây giờ các bạn nói cho mình nghe những phương pháp hướng dẫn các em như thế nào cho khế hợp với tinh thần Phật giáo trong thời đại mới đây?

A: Mình nghĩ Phật pháp không bao giờ cũ. Những gì gọi là “nhân bản”, “dân tộc” và “khai phóng”, đức Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rồi! Không có gì cần phải thay đổi cả. Chỉ có phương pháp truyền đạt, ngôn ngữ dùng để truyền đạt có thay đổi mà thôi. Mình xin lấy ví dụ: nếu bây giờ dạy Phật pháp cho các em mà dùng lại bài của chúng mình học cách đây 50 năm trong đó toàn chữ Hán Việt, thì đó gọi là cũ; nếu còn dùng lối đọc trong các sách viết từ những năm 60 ra… đó cũng là cũ. Đổi mới là gì? Ví dụ học Lịch sử đức Phật Thích-ca hay Sự tích đức Phật Di Lặc, mình cho các em coi phim Little Buddha (phim nói tiếng Anh) hay Sự tích Phật Di Lặc (phim nói tiếng Trung Quốc, được chuyển ngữ thành tiếng Việt) rồi bảo các em kể lại truyện phim, cho các em đặt câu hỏi và chúng ta cũng đặt câu hỏi cho các em, v.v… đó là một ví dụ về đổi mới.

B: Đúng vậy, đối với các em lớn hơn một chút thì dùng phương pháp hội thoại trong lớp giữa các em với nhau; ví dụ anh/chị trưởng đưa ra một câu hỏi hay một vấn đề, các em trả lời, thảo luận, biện giải, v.v… những vấn đề này là từ những bài Phật pháp trong chương trình chứ không phải ở ngoài; nghĩa là mình phải hoàn thành chương trình để các em thi Vượt Bậc nhưng không khí học tập khác xưa, không phải anh/chị giảng các em ngồi nghe mà các em đều tham gia thảo luận về bài học của mình. Với cách này nội dung truyền đạt vẫn được bảo đảm.

C: Mình có thể chiếu phim cho các em coi về các cảnh chùa ở Việt Nam hay đưa các em đi thăm các chùa nơi thành phố mình ở. Có thể mời quý thầy, quý sư cô đến giảng cho các em một thời pháp, v.v… Quý thầy/ sư cô trẻ dùng tiếng Anh để giảng cho các em, các em rất thích vì sẽ hiểu nhiều hơn nếu chỉ đọc sách Phật pháp mà không có song ngữ hay có song ngữ nhưng văn viết (written language) không phải văn nói (spoken language) làm các em thấy khó hiểu.

A: Hay lắm, tùy theo sáng kiến, các bạn có thể làm cho những bài học của chúng ta trở nên sống động hơn. Ví dụ, mình nhớ hồi đơn vị mình mời nhân viên cấp cứu về hỏa hoạn (firefighter) và toán tìm kiếm và tiếp cứu nạn nhân (search and rescue team) đến dạy cho các em mình cách ứng xử với những tai họa khẩn cấp (emergencies & natural disasters) như hỏa hoạn, tai nạn xe, tornado, lụt, v.v… họ bày cách dập tắt lửa, cách đem người từ trong nhà bị cháy ra hay cách tránh gió xoáy (tornado, vòi rồng), cách gọi cảnh sát giao thông, v.v…các em rất thích vì họ có những kiến thức chuyên môn rất hấp dẫn. Đó là những bài học rất sống động về cấp cứu, cứu thương, thoát hiểm, v.v…

B: Nhiều người nói chương trình HĐTN của GĐPT quá cũ, ví dụ bây giờ đâu có ai dùng đến Morse, Sémaphore, v.v… nữa, các bạn nghĩ sao?

C: Mình thấy những kiến thức đó cũng có giúp ích cho các em nhiều chứ, chỉ là mình diễn tả không được thông suốt thôi! Bạn A góp ý đi!

A: Đúng vậy, vấn đề không phải là vì bây giờ không ai dùng nên học về truyền tin (Morse, semaphore, mật thư, dấu đi dường…) là vô ích đâu! Những bài học ấy giúp các em phát triển trí thông minh, nhanh mắt, lẹ tay, thính tai, óc sáng kiến, khả năng nhạy bén về nhận xét chung quanh mình. Cách viết và giải các mật thư làm phát triển khả năng “trinh thám” và sự khéo léo sắp xếp thành những mật thư mới lạ… rất có ích cho các em sau này gặp những tình huống tương tự. Vấn đề là những cái gì mình thấy thiết thực thì thay đổi một chút để dạy cho các em. Ví dụ ngày xưa ở quê nhà mình dạy các em thay bánh xe đạp, vá xe đạp, bây giờ đổi lại dạy “thay bánh xe hơi” mà thôi! Ngày xưa học vá áo, may áo, bây giờ đổi lại là “thực hiện trang Web” cho đơn vị, cho miền, v.v… Nói tóm lại, tâm huyết của người Huynh trưởng muốn tìm ra cách hay nhất để truyền đạt cho các em mình là điều quan trọng nhất.

B: Như vậy hôm nay chúng ta đã nắm được hướng giáo dục chung và giáo dục của GĐPT trong hướng giáo dục chung ấy, các bạn thấy giáo dục GĐPT có trở ngại gì cho hướng giáo dục con người toàn diện không?

C: Mình thấy hình như ngay trong hướng giáo dục con người toàn diện của thế giới mới này hơi chỏi nhau đó!

Ví dụ như tính dân tộc có làm trở ngại tính khai phóng hay không? Vì một mặt thì dạy phải giữ gia phong nề nếp, một mặt dạy “bung ra” để tiếp thu cái mới, không phải là chỏi nhau sao?

A: Chính vì vậy mà sự tồn tại của hai mặt này mới quân bình lẫn nhau: nếu thiên về dân tộc tính quá thì đó là cố chấp, dính mắc với cái cổ truyền, không chịu tiếp cận với thế giới mới, dễ trở nên lạc hậu; còn nếu phóng khoáng tự do quá thì chỉ biết chạy theo cái mới, đánh mất gốc rễ của mình. Cả hai đều là cực đoan. Nhưng cách đây hơn 2500 năm đức Thế Tôn đã cho chúng ta cái cẩm nang để đối trị sự “chỏi nhau” này rồi!

B: Là tinh thần “tùy duyên bất biến” phải không?
A: Đúng vậy!

C: Vậy là giáo dục GĐPT cũng cùng chung hướng với nền giáo dục mới mang tính chất nhân bản dân tộc và khai phóng, phải không các bạn? Hôm nay mình được biết thêm nhiều từ mới. Buổi hội thoại thật vui và bổ ích ghê! Cảm ơn các bạn nhiều! Chào tạm biệt!

A và B: Tạm biệt! Tạm biệt!

Tâm Minh-Vương Thúy Nga




Phương cách hình thành nên những giảng sư có năng lực hoằng pháp hiệu quả -TT Thích Đồng Trí-

PHƯƠNG CÁCH HÌNH THÀNH NÊN NHỮNG GIẢNG SƯ

CÓ NĂNG LỰC HOẰNG PHÁP HIỆU QUẢ

-TT Thích Đồng Trí-

Làm sao hiển thị được lý Như ?
Hoằng Pháp đang cần những giảng sư
Thiết tha Đạo Pháp, bày phương tiện…
Tận tụy độ sanh với Tâm Từ

Hàng xuất gia là Trưởng Tử Như Lai. Hàng đệ tử Phật tu học với sứ mệnh : tự độ, độ tha, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Như tấm gương Tăng Già thời Đức Phật, người tu sỹ sau khi hấp thụ được những tinh yếu của Phật Pháp, sau đó, với ba Y một Bát, đi khắp nơi để hoằng hóa chúng sanh, theo lời Đức Phật khuyến tấn những đệ tử xuất gia đầu tiên của mình : “Này các Ty Kheo! Không nên đi hai người chung một nẻo đường, không ngủ hai đêm dưới một gốc cây, hãy đem Chánh Pháp toàn thiện đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối đến với khắp chúng sanh, những ai có tai và muốn lắng nghe”. Quả thật, đời người tu sỹ luôn sống với bản hoài: “Hoằng Pháp vi gia vụ – lợi sanh vi sự nghiệp”. Thế nhưng làm sao có thể chu toàn tốt nhất sứ mệnh : Hoằng Pháp độ sanh này, nhất là khi Hoằng Pháp ở nước ngoài, đó là điều quan trọng, thiết nghĩ chúng ta nên suy nghiệm sâu sắc và chia sẻ những kinh nghiệm hoằng Pháp với nhau.

Hoằng là mở rộng, khai triển rộng, Pháp là Chánh Pháp do Đức Phật truyền dạy và để lại. Không nhất thiết phải đợi lên Pháp tòa mới làm công việc “Hoằng Pháp”, mà trong tương tác cuộc sống, nếu ai có thể ảnh hưởng người khác theo chiều tốt đẹp hơn bằng Chánh Pháp, khế hợp với Chánh Pháp, vậy là đã góp phần hoằng Pháp. Cuộc sống này là tương quan, tương duyên, tương tức, tương tồn, nương nhau mà tồn tại, tương tác, giao tiếp nhiều chiều, vậy mọi người đều có nhiều cơ hội lan tỏa Chánh Pháp. Nhưng để có thể lan tỏa Chánh Pháp một cách tự nhiên, đều đặn và sâu rộng, chúng ta cần có những hiểu biết, cân nhắc và tôi luyện phát triển những yếu tố cần thiết sau đây:

I. Tha thiết với chân lý, giác ngộ và hướng đến giải thoát

Đề cập đến những khái niệm này, chúng ta nghe có vẻ “từ chương” và quen thuộc, thế nhưng trên thực tế có người lại cho là khá xa vời, hay biện minh rằng : tôi đang lo những việc trước mắt cho xong, giải quyết cấp thời bao nhiêu thứ việc trong giai đoạn này trước đã, còn chuyện “giác ngộ” và “giải thoát” ấy đến giai đoạn thuận tiện, rảnh rang hơn sẽ tính sau. Chúng ta luôn nhập nhằng và nhiều lúc phải lựa chọn giữa “phương tiện” và “cứu cánh”. Chẳng hạn, tìm nhiều cách khác nhau để “làm kinh tế” cho chùa : may pháp phục, làm vườn, rẫy, làm đồ chay, gây quỹ,….là phương tiện, còn việc dồi trao Giới Định Tuệ hướng đến giác ngộ, giải thoát là cứu cánh. Đời người có hạn, nếu như chúng ta cứ hẹn dần, hẹn dần hoài như vậy, hãy thành thật nhìn lại suốt hành trình chúng ta đã trải qua : bao nhiêu năm tháng chúng ta đã dành cho “phương tiện”, rồi bao nhiêu thời gian chúng ta đã dành cho việc hướng đến “cứu cánh”. Chúng ta có thể biện minh là vì thời gian, không gian khác xa thời Đức Phật, nên chúng ta không hành hoạt giống hoàn toàn như Tăng Già thời Đức Phật. Thế nhưng, với câu nói thông dụng “tùy duyên bât biến”, có quả thật là bất biến hay không, hay không khéo rồi đến ngày “biến chất”, đôi khi chúng ta nhìn lại chính mình và có kịp thời nhận ra : Ta đi xa quá, hay là Ta đã đi sai lệch con đường giải thoát mà Như Lai chỉ dạy hoặc Ta khác với chính Ta có thuở khắc khoải đi tìm chân lý và mới xuất gia, sơ tâm cầu Đạo. Nếu như người xuất gia, trải qua nhiều năm tháng, mà cứ loay hoay với những phương tiện hay vật chất thường tình và về tâm linh, tinh thần hay Trí Tuệ không thăng hoa siêu vượt thì liệu có được những điều gì hay ho, cao quý để chia sẻ cho người khác ?

II. Sự lựa chọn và hướng đầu tư về năng lượng và thời gian:

Mỗi năm có 365 ngày và mỗi ngày có 24 giờ, công bằng cho tất cả mỗi người, việc thành tựu như thế nào tùy thuộc mỗi người biết sử dụng quỹ thời gian như thế nào? Sinh hoạt của vị tu sỹ thời nay có những sự lựa chọn, ví dụ : chọn ở chùa nào, lãnh vai trò gì trong chùa : trụ trì, tri sự, tri khách, tri viên, hay hương đăng,…có khi là quyết định lãnh trách nhiệm chính cho một chùa ở vùng nào, tổ chức sinh hoạt chính trong chùa theo hướng nào : tổ chức khóa tu tập, công phu, tụng Kinh, thuyết giảng nhiều hay là ứng phó đạo tràng cầu an, cầu siêu, … đám xá, sự kiện nhiều. Ngoài ra có sự chọn lựa : thời lượng cho việc tụng kinh, thuyết giảng hay là mỗi đám cúng, thời gian đi làm việc kinh tế cho chùa bao nhiêu là đủ… Hãy thành thật xem lại sự lựa chọn và đầu tư của mình, thời gian và năng lực của con người luôn vốn có sự giới hạn : được cái này thì mất cái khác, quan trọng là ưu tiên cho cái gì? Vậy mỗi ngày, mỗi tuần, chúng ta dành được bao nhiêu thời gian cho công phu tu niệm và nghiên cứu, học hỏi, khai mở Trí Tuệ và hoằng Pháp? Nếu suốt một tuần, hai tuần hay một tháng mà tu sỹ chỉ biết giở ra vài bản Kinh tụng đi tụng lại, cho việc ứng phó đạo tràng, cầu an cầu siêu, mà không đọc thêm trang Kinh nào mới, không giảng bài Pháp thực sự nào cho Phật tử – như vậy hướng lựa chọn và đầu tư có cái gì đó sai sai? Có phải chúng ta đầu tư lầm lẫn, loay hoay vói cái phụ mà lơ là, quên mất cái chính hay không? Tập quán nghiệp hay tích lũy nghiệp cực kỳ quan trọng, hạt giống Trí Tuệ không phải gieo vài ngày hay trong thời gian ngắn mà trổ hoa, kết quả, tất cả phải trải qua quá trình gieo trồng, tích lũy, trưởng dưỡng, chăm sóc và chín muồi. Không ai tự nhiên thông thạo, trở thành nhà hùng biện hay Pháp Sư tài giỏi cả, tất cả đều nhờ nhân và duyên, từ nhiều kiếp trước và cả trong kiếp này.

Nếu như sự lựa chọn của chúng ta : thà là thiếu thốn hơn một chút, thanh bần lạc đạo hơn chút, thảnh thơi tâm trí hơn, có thời gian để tu học, nghiên cứu, vun bồi Trí Tuệ và hoằng Pháp mà vẫn cảm thấy an lạc, cho dù người khác nhìn vào, họ cảm thấy chưa thành công hay đạt được “đẳng cấp” như họ, thì thôi kệ. Chúng ta tìm kiếm vun đắp những gì ở đây, nếu cứ bận rộn loay hoay toan tính hơn thua mãi mà ngày càng xa với chí hướng xuất gia ban đầu của mình? Nếu không khéo để rồi, người xuất gia cứ lấn qua làm việc loay hoay kinh tế, xây dựng, tổ chức, quản lý,… của người tại gia, rồi người tại gia lại tha thiết và làm thay phần việc chính của người xuât gia. Không phải một mình Ta mà có thể lo hết mọi việc thế gian, nên biết buông xả, biết điểm dừng, biết chọn lựa thì chúng ta biết bỏ qua cái gì, chú trọng và đầu tư vào mảng nào. Nếu vị nào có đạo lực tu tập và có đạo hạnh thì có thể chiêu cảm được nhiều vị xuất gia cùng đến ở chung để chia sẻ công việc, hoặc nhiều người Phật tử tận tụy luôn bên cạnh chúng ta để hỗ trợ, bớt gánh nặng.

Hướng lụa chọn và sinh hoạt làm sao, để hàng ngày chúng ta rờ đầu và đọc Quy Sơn Cảnh Sách mà không thấy hổ thẹn:

“Người xuất gia là cất bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác hẳn thế tục, tiếp nối một cách rạng rỡ dòng giống của Phật, làm cho quân đội của ma phải rúng động khuất phục, với mục đích báo đáp bốn ân, cứu vớt ba cõi. Không như vậy thì chỉ là kẻ lạm xen vào hàng ngũ tăng sĩ, lời nói và việc làm trống rỗng, sơ suất, hưởng dụng một cách vô ích cúng phẩm của tín đồ, đường đi năm cũ thì một tấc một bước cũng không đổi dời, quàng hoảng suốt cả một đời thì còn lấy gì mà nương tựa và cậy nhờ ?”

III. Thấm nhuần Phật Pháp thì tự nhiên sẽ lan tỏa Chánh Pháp:

Chánh Pháp là để sống, để thể nghiệm chứ không phải là giáo điều suông hay triết thuyết xa vời, cũng không phải để phô diễn văn chương, khôn lanh vượt bậc, diễn kịch sâu đạt hay hô hào và tuyên truyền ào ạt, quyết liệt. Giáo dục Phật Giáo có 3 phương diện : Thân Giáo – chánh niệm tỉnh giác, sống trọn vẹn với Chánh Pháp, người khác học hỏi nơi tấm gương bản thân và cuộc sống của vị ấy, Khẩu Giáo – sự giáo dục qua ngôn ngữ, thuyết pháp, giao tiếp, Ý Giáo – những điều tuy rằng chưa nói ra, nhưng vận Từ Tâm cảm hóa, người khác có thể giao cảm, cảm nhận được những điều hay thăm thẳm sâu trong tâm khảm vị đó, cái gì xuất phát từ trái tim thì giao cảm với trái tim, cho dù chưa cố ý diễn bày ra thành lời.

Trí Tuệ Phật Giáo khác với trí thức thế gian đòi hỏi có Văn Tư rồi Tu, có Giới Định Huệ. Cùng một đề tài giảng Pháp ấy, nhưng với một vị có tu tập thâm sâu, những gì vị ấy nói ra, giảng thuyết, không đơn thuần chỉ là từ sách vở, mà quan trọng hơn là từ sự thẩm thấu, thể nghiệm, thể chứng của mình, từ nguồn tâm lưu xuất. Lúc đó, vị ấy có những cách trình bày rất riêng, đơn giản,, cụ thể, sống động, sáng tạo, thiết thực, dễ hiểu, đầy ấn tượng. Như trường hợp các Tổ Sư Thiền Ấn Hoa hay Lục Tổ Huệ Năng, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông hay Tuệ Trung Thượng Sỹ,…các Ngài trình bày các vấn đề, trả lời các câu hỏi từ nơi chứng ngộ, sâu sắc, đầy phong cách riêng và ấn tượng.

Những người thiếu sự thực hành Chánh Pháp đúng mức thì không có được Thiền vị, không sống trong chánh niệm tỉnh giác, làm chủ, điều phục, chế ngự chính mình nên có những thô tháo, vụng về nơi cử chỉ, oai nghi, thậm chí có những biểu hiện mục tiêu sinh hoạt không phải vì lòng Từ Bi hoằng truyền Chánh Pháp mà từ động cơ danh lợi tình , vấy bẩn tham sân si, “đấu cấu thị phi tranh nhân ngã”. Tuy rằng có câu: “Y Pháp bất y nhân”, người nghe chỉ chú ý vào lời giảng, có điều gì hay thì học hỏi, không cần quan tâm lắm về đạo hạnh và lực tu của người đó, thế nhưng trong thực tế cuộc sống, nếu đã mất lòng tin, nếu ngôn hành bất nhất hay năng thuyết bất năng hành (nói được mà làm không được) hoặc miệng thì nói trên trời mà chân không đi rời ngọn cỏ thì khiến người nghe có phản cảm và phản tác dụng. Đức Phật khi giảng Pháp có chứng chuyển, thị chuyển, khuyến chuyển nghĩa là : Đức Phật khai thị những điều như vậy, đó là những điều Như Lai đã chứng, đã thực hành qua, trải qua, bây giờ khuyến khích các đối tượng hãy đi trên đường đó…

Hơn nữa, trong cuộc sống hàng ngày, Từ Bi và Trí Tuệ của người thực tu, thực chứng đó lan tỏa ra ngoài một cách tự nhiên, khai ngộ những ai có dịp tiếp kiến họ, tất cả trở thành Pháp Ngữ. Có khi chỉ một lời khuyên cô đọng của bậc chân tu giúp hành giả giữ vững niềm tin, tiếp thêm năng lực đối diện với sóng gió cuộc đời còn hơn bao nhiêu lời giảng Pháp có vẻ hùng hồn, bài bản của bao nhiêu pháp sư khác, vì đến lúc đụng chuyện (ứng cơ xử vật), ngay trong giây phút ấy, cái gì còn có giá trị là những gì còn sót lại, ấn tượng nhất sau khi hành giả đã học và đã quên.

Khi Phật Pháp đã thẩm thấu vào mình thì vị ấy dễ mang đến cho đời nhiều nội dung Phật chất, tất cả ánh mắt, nụ cười, cái vẫy tay, gật đầu,… đều là phương tiện hoằng Pháp và mọi lúc, mọi nơi, với mọi người khi tương tác đều là truyền trao chất liệu Phật Pháp.

IV. Khi hoằng Pháp phải nắm rõ 4 yếu tố : Xứ, Cơ, Thời, Giáo:

Xứ : phải nắm rõ tự viện đó, trú xứ đó đã hình thành nên thế nào, bây giờ đang phát triển thế nào, đang cần gì, hơn nữa cần phải cân nhắc phong tục, tập quán, lối sống của người vùng xứ đó, những điều họ ưa thích và cấm kỵ, ví dụ chúng ta giảng ở Việt Nam miền Nam khác, miền Trung và miền Bắc khác, ở Ấn Độ, châu âu hay Mỹ lại khác. Cụ thể và dễ hiểu hơn, nếu chúng ta bảo : phụ nữ nặng nghiệp và thiếu phước đối với người ở xứ Mỹ thì họ không tin vì ở Mỹ phụ nữ được nhiều quyền ưu tiên : lady first, …

Hoặc nếu đến chùa ở vùng biển mà chúng ta cứ khuyên không sát sanh suông suông vậy họ cũng ngại, vì đa số họ sống bằng nghề đánh bắt cá tôm, hải sản,…. Có những trường hợp họ không chọn nghề được mà nghề chọn họ. Vậy thì vị giảng sư cần phân tích rõ hơn, ở trong hoàn cảnh của họ, người Phật tử nên tư duy, quán sát, tâm niệm và tu học thế nào tốt nhất.

Hơn nữa, đến tự viện nào đó, cũng tùy theo vị trụ trì đang ưu tư những gì, muốn tháo gỡ những gì, muốn Phật tử hiểu rõ hơn về đường hướng sinh hoạt hoặc quá trình mở mang xây dựng, phát triển tự viện thế nào thì vị giảng sư với sự thâm sâu trong Giáo Pháp giải thích rõ về đường hướng, cách thức hoặc sự nỗ lực trong hiện tại của tự viện đó là phù hợp với Chánh Pháp và đáng khuyến khích, cùng nhau đồng tâm nhất trí chu toàn – tất nhiên, nếu vị giảng sư cảm thấy điều gì vị Trụ Trì làm chưa phù hợp thì có thể khuyên vị Trụ Trì thay đổi chứ không phải hễ đến trú xứ nào là hoàn toàn lệ thuộc, luôn phải nói theo đúng ý vị trụ trì bằng mọi giá, không thể bẻ cong chân lý theo ý của ai.

: Giảng giải Phật Pháp cần phải khế hợp căn cơ. Vị giảng sư trước khi thuyết giảng hoặc giao tiếp, nên có những cách tìm hiểu căn cơ đối tượng như thế nào, tu học được bao nhiêu rồi trong Phật Pháp, hoàn cảnh cuộc sống và tâm tư tình cảm ra sao. Cái gì phù hợp sẽ hay, sẽ tốt, hay cho mấy mà không phù hợp thì kể như bỏ đi hoặc phản tác dụng. Ví dụ, họ đang tu Thiền và Bồ Tát Đạo muốn thân cận gần gũi chúng sanh mà khuyên về Tây Phương Cực Lạc thì không phù hợp. Đến một đạo tràng nào, trước khi thuyết Pháp, vị giảng sư nên tìm hiểu quá trình tu học của các hành giả nơi đó. Chọn được đề tài phù hợp và hướng phát triển đề tài cần thiết cho căn cơ thính chúng nơi đó là điều kiện tiên quyết cho thành công của Pháp Thoại hoặc chia sẻ Phật Pháp.

Ngoài ra với lứa tuổi của đối tượng khác nhau : thiếu niên, thanh niên, trưởng thành, già, bệnh hay sắp chết, …căn cứ vào tâm lý theo lứa tuổi, giai đoạn đời người, vị giảng sư chọn ra đề tài diễn giảng phù hợp, đó gọi là tùy bệnh cho thuốc vậy. Thuốc thì hay thì quý đó nhưng nếu bắt mạch không tốt, cho uống thuốc sai bệnh thì càng nguy hiểm cho đối tượng hơn.

Thời : Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian, chú ý đến thời gian là một điều cần thiết cho sự thành tựu mọi công việc. Chẳng hạn, bài thuyết giảng đang vào Xuân, tháng Hai (Lễ Hội Quan Âm), tháng Tư (về Phật Đản), tháng Bảy (về Vu Lan Báo HIếu), tháng Tám về Trung Thu hay tháng mười (về Hạ Ngươn). Phật Pháp vốn phong phú và sinh động, cần chuyển tải được vào hợp với tâm thức thính giả đang ở vào thời gian đó. Hơn nữa, nếu là Đạo Từ vào buổi sáng vừa tụng kinh xong, hay Trai Tăng buổi trưa, hoặc sau khi tụng kinh tối, lúc làm chủ giảng Pháp Thoại hay là lúc Pháp Đàm với nhiều giảng sư khác, lúc hành giả đang còn dồi dào năng lượng hay đã mệt mỏi, lúc đang nóng bức hay đang lạnh, lúc họ đang thong thả có nhiều thời gian để nghe bài Pháp dài hay họ đang muốn nghe vài điều súc tích trong vòng 3 phút đến 10 phút, thì vị giảng sư phải khéo léo nhận ra điều đó, hoặc luôn có đồng hồ nơi mình để theo dõi và tự giới hạn mình. Ít quá, loãng thênh thang, trống giờ, dư giờ, hoặc nhiều quá, dồn nén khi hành giả đã mỏi mệt trông chờ hồi kết cuộc thì đều phản tác dụng và thậm chí còn sanh phiền não.

Hơn nữa, chúng ta đang sống vào thời đại công nghệ 4.0, khác với thời phong kiến xa xưa và nhất là khác với thời kỳ Đức Phật. Do đó, lối giải thích đạo lý, Phật Pháp cũng phải khế hợp và soi đường cho văn minh hiện đại, mạch sống và những biến cố lớn có liên quan ảnh hưởng nhiều người, đang diễn ra trên thế giới. Tất cả nguồn tài liệu nơi điện thoại, máy vi tính, trình chiếu tại lớp học, hội trường, hoặc quay livestream, thu hình Video, đưa vào youtube cho thính chúng về nghe lại, hoặc tương tác trực tiếp với thính giả khắp nơi trên thế giới thì phải cân nhắc về tính chất phổ quát, không đơn giản là chỉ phù hợp cho cục bộ giới hạn thính chúng tại chỗ đó.

Giáo : Vị giảng sư càng ngày càng tự nâng cao mình trong Chánh Kiến và hiểu rõ Phật Pháp và tâm niệm : “Rời Kinh giải nghĩa làm Oan ba đời Chư Phật, nhưng nói y chang như Kinh thì chẳng khác gì Ma nói” với tinh thần bất tức bất ly với Chánh Pháp, nghĩa là có cách diễn giải và hướng dẫn áp dụng phù hợp với hiện tại nơi trú xứ mà đối tượng đang sống. Chọn cho đúng phần nào trong Giáo Pháp để diễn giảng rộng rãi, một cách khách quan phải cân nhắc những điểm ưa thích và quan điểm cá nhân mình có phù hợp với Giáo Pháp hay không – đừng để cho thính chúng lầm lẫn, không biết đâu là quan điểm riêng của giảng sư, đâu là lời Đức Phật dạy. Nói có sách, mách có chứng, khi dẫn chứng thì phải nói rõ, điều đó trích dẫn từ Kinh nào, sách nào, giúp họ có thể truy nguyên, tra cứu và đi sâu được, chứ không phải chỉ phán bảo : Phật dạy, Kinh ghi chép rằng…. một cách chung chung để rồi chuyển tải những quan điểm cá nhân chưa xác chứng của mình. Nên chỉ ra rõ ràng, pháp ấy nằm trong thừa nào của ngũ thừa Phật Giáo (Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát hay Phật Thừa). Hoằng Pháp là giúp cho thính chúng rõ ràng hơn, xác định niềm tin, lập trường và hướng đi cho tu học và cuộc sống, tránh tình trạng thời đại ngày nay Phật tử có thể nghe Pháp trên nhiều phương tiện : Tivi, radio, lớp học, giảng đường, facebook, youtube, Zoom, ticktok, …. với nhiều giảng sư khác nhau, thế mà các vị giảng sư giảng cách sao đó, càng nghe càng rối, càng nghi ngờ, hoang mang thêm nữa, …

Sau đây, chúng ta cùng nhau nghiên cứu những gì là cần thiết mà vị giảng sư phải chú tâm, bao gồm đầy đủ các yếu tố cần thiết để có thể hoằng Pháp một cách lợi lạc nhất.

V. Thiết tha, tận tụy với sứ mệnh hoằng Pháp:

Tục ngữ có câu : “có chí thì nên”, cứ mãi thiết tha và tôi luyện ắt có lúc sẽ thành tựu. Chúng ta hãy xem gương của Ngài Phú Lâu Na, vị thuyết Pháp đệ nhất trong hàng đệ tử Phật đã trả lời với Đức Phật về việc sẵn sàng xả thân cho việc hoằng Pháp lợi sanh:

Phú Lâu Na thấy nước Du Na ( Suna ), một vùng biên địa rất hiểm trở, giao thông khó khăn, dân tình quen thói man rợ bạo ngược. Đó là một xứ mà trước kia người ngoài chỉ nghe tên chứ ít ai dám bước chân đến, vì sợ mất mạng, Phú Lâu Na bèn đề nghị với Phật xin cho Ngài đến đấy mang chánh Pháp đến cho mọi người.

Phật hỏi : Ông không sợ nguy hiểm sao ?

Phú Lâu Na mỉm cười, bạch rằng : Vì mục đích bình đẳng độ sanh, thì bất cứ địa phương nào cũng đáng được lưu ý ngang nhau. Hơn nữa, dân tình chỗ nào càng man rợ bao nhiêu thì lại càng phải được thừa hưởng sự giáo hóa nhiều bây nhiêu. Như vậy mới thật là bình đẳng. Đối với đệ tử, nguy hiểm hay không nguy hiểm không thành vấn đề. Chỉ thành vấn đề là làm sao trên báo đáp được hồng ân Phật, dưới hóa độ được chúng sanh. Vì sứ mạng thiêng liêng cao cả ấy, thân này dù có tan xương nát thịt, tưởng cũng chưa vừa.

Tấm lòng ấy, tinh thần ấy, khí khái ấy, nghĩa cử ấy thật xứng đáng là vị thuyết Pháp đệ nhất.

Một khi tu sỹ thiết tha với việc hoằng Pháp thì sẽ tự tôi luyện, nâng cấp chính mình trong Giáo Pháp, tận dụng mọi cơ hội trong sinh hoạt cuộc sống để chuyển tải giáo nghĩa nhiệm mầu, cho dù là đang tiếp xúc với ai hay làm việc gì. Hơn nữa, vị ấy có thể tùy duyên mà tổ chức nhiều lớp học giáo lý, đạo tràng, Pháp hội, thông qua nhiều cách thức, mô hình khác nhau, hoặc tranh thủ thuyết giảng cho các Phật tử sau mỗi thời khóa tụng niệm,…Khi đến trú xứ nào, nếu được trao cho cơ hội thuyết Pháp thì vị ấy luôn hoan hỷ đảm trách. Có câu nói rằng : khi không thích thì sẽ tìm lý do, khi nào ưa thích thì sẽ tìm cách. Chính sự thiết tha, tận dụng mọi thời gian, sức lực, đời sống mình cho việc hoằng truyền Phật Pháp như vậy, dần dần gọi là “nghề sẽ dạy nghề”, vị ấy càng ngày càng hoàn thiện hơn, phương tiện quyền xảo hơn và hoằng Pháp đều đặn, hiệu quả hơn.

Để có một thời Pháp Thoại thành tựu viên mãn, vị giảng sư nên thực hiện những bước sau đây:

VI. Chuẩn bị trước khi thuyết giảng:

Như trên đã nói, vị giảng sư ấy cần liên hệ vị trụ trì trú xứ hoặc đại diện thính chúng để tìm hiểu về căn cơ, quá trình tu học Phật Pháp của các Phật tử thính giả, tình hình phát triển tự viện, đường hướng sinh hoạt từ vị Trụ Trì để hiểu rõ hơn về căn cơ, hoàn cảnh, nhu cầu và chọn một đề tài thích hợp nhất.
Sau khi chọn đề tài xong, để chủ động, tự tin và bảo đảm bố cục chặt chẽ, chia sẻ đủ ý trong bài giảng, vị giảng sư nên hình thành một dàn bài đại cương về những ý chính sẽ trình bày trong mở đề, thân bài và kết luận bài giảng, có thể ghi chép vào mảnh giấy nhỏ, tranh thủ đọc đi đọc lại vài lần để nhớ. Hơn nữa, vị giảng sư cũng định hình nên những biện pháp tu từ, nghệ thuật thuyết giảng phù hợp. tài liệu tham khảo tra cứu, quán sát những sự kiện lớn đang xay cho thế giới đó đây và cân nhắc xem đề tài vừa chọn có góp phần giải quyết gì cho những vấn đề của con người trong xã hội hiện nay , Khi chuẩn bị như vậy vị giảng sư nhớ đến pháp số hoặc các ý Pháp có liên quan để tra cứu kỹ hơn cũng như chuẩn bị sẵn những trích dẫn thuyết phục để chuyển tải trọn vẹn ý nghĩa đề tài.

VII. Những kỷ năng cần thiết và cách thức trình bày Pháp Thoại:

Khả năng diễn giảng có thể tôi luyện, nâng cấp được, ít nhất là có thể giúp cho vị giảng sư đó mỗi ngày mỗi tốt hơn. Trong Phật Giáo, tất cả đều tuân theo luật nhân quả, không có cái gì ngẫu nhiên, tự nhiên mà có. Nếu gọi là vị nào đó giỏi văn chương, có năng khiếu nói năng lưu loát bẩm sinh, thực ra đó cũng là kết quả của sự tôi luyện nhiều đời kiếp và cả trong kiếp này. Ở ngoài đời, các vị Thầy Giáo đứng lớp đều trải qua quá trình học về Sư Phạm Giáo Dục, Có những kỷ thuật có thể giúp cho việc trình bày Pháp Thoại chất lượng hơn. Sau đây là phần tóm tắt những điều cần lưu ý khi giảng Pháp:
Vị giảng sư có thể mở đề vào Pháp Thoại bằng cách kể một câu chuyện thật ngắn, hoặc đặt những câu hỏi, hoặc nêu phản đề, hoặc những tình hình thế giới đó đây có liên quan rồi đưa đề tài vào. Mở đề hay và khéo léo có thể gây hấp dẫn và lôi cuốn sự chú ý ngày từ đầu.

Trong phần khai triển đề tài, vị giảng sư nên đi từng bước như dàn bài đại cương có sẵn, các ý có liên quan lẫn nhau, từ thấp đến cao, từ việc định nghĩa các khái niệm cho đến việc trình bày, phân tích và bình luận và biết cách bắt cầu nối để các ý liên hệ mạch lạc với nhau.

Giọng nói diễn cảm có trầm bỗng, nói với tốc độ vừa phải, nhanh quá thì thính giả không nghe kịp mà chậm quá thì e rằng không đủ thời gian, có nhấn giọng rõ ràng ở những nơi quan trọng là điều cần thiết – chứ nếu cứ với một tone nhẹ nhàng đều đều sẽ khiến thính giả buồn ngủ. Để đánh thức thính giả, vị giảng sư có thể kể những câu chuyện vui ngắn, hoặc có khiếu hài hước nhẹ nhàng, sáng tạo.

Vị giảng sư cần giữ oai nghi tế hạnh khi giảng, không cười ầm ĩ lớn tiếng, không múa tay quá nhiều, không lắc lư qua lại, trạo cử không yên,…Vị giảng sư có dùng ngôn ngữ hình thể nhẹ nhàng, uyển chuyển vừa đủ để hỗ trợ diễn đạt được nội dung, tránh biểu hiện thô tháo, trạo cử, lăng xăng, thiếu tự chủ

Vị giảng sư cần giữ oai nghi tế hạnh khi giảng, không cười ầm ĩ lớn tiếng, không múa tay quá nhiều, không lắc lư qua lại, trạo cử không yên,…Vị giảng sư có dùng ngôn ngữ hình thể nhẹ nhàng, uyển chuyển vừa đủ để hỗ trợ diễn đạt được nội dung, tránh biểu hiện thô tháo, trạo cử, lăng xăng, thiếu tự chủ.

Vị giảng sư cần khéo léo quán sát những thính giả trước mặt mình, ngầm đánh giá – thông qua ánh mắt và biểu hiện nơi họ, để xem họ có kịp tiếp thu, hiểu được và ưa thích những gì đang truyền đạt hay không, nếu cảm thấy họ còn nhăn da trán, căng thẳng, hay biểu hiện nơi mắt có vẻ lờ mờ chưa hiểu, hoặc không mấy thích thú,…thì có thể dừng lại phân tích thêm, hoặc đổi cách thức giảng, làm sao cho họ nắm bắt được.

Vị giảng sư có thể sử dụng nhiều cách khác nhau trong Pháp Thoại như mô tả, liệt kê, so sánh, bắt cầu, giải thích, bình luận, tam đoạn luận,…Thông thường khi đưa ra luận điểm phải nên kèm theo luận cứ ( căn cứ vào đâu, nền tảng nào – về mặt hợp lý, logic) và luận chứng (bằng chứng). Về thanh minh, để có vốn từ vựng phong phú, câu cú linh hoạt, đúng văn phạm, chánh tả, điều này đòi hỏi vị giảng sư phải đọc nhiều, nghe nhiều, viết nhiều, nắm bắt về thể thức văn chương nhiều. Dù sao thì “văn dĩ tải đạo”, người có năng khiếu về văn chương và nói năng linh hoạt, ứng phó nhanh thì có lợi thế khi thuyết giảng.

Điều quan trọng là vị giảng sư cần làm chủ thời gian, trình bày các ý đúng như khung giờ mình tự phân bố sẵn, để có thể dàn trải được các ý chính, tránh tình trạng đầu voi đuôi chuột. Vị giảng sư luôn kiểm tra có đồng hồ nhỏ trên bàn giảng hoặc có phone hoặc các thiết bị tính thời gian được, khéo léo nhìn nhanh và làm chủ thời gian trong tiến trình khai triển bài giảng.

Thông thường, với 15 phút cuối, giảng sư để dành các ý nhỏ và phần kết luận lại, hỏi đại chúng có câu hỏi nào không, nếu có thì tiến hành Pháp Đàm phù hợp và đúc kết bài giảng luôn, nếu không có câu hỏi thì tiếp tục khai triển các ý cuối đó và kết thúc vấn đề.

Giảng sư luôn lưu ý là : đề tài đang giảng có liên hệ đến Kinh Luận nào của Phật Giáo, có tầm quan trọng như thế nào, giúp ích gì cho mỗi cá nhân hành giả, hướng dẫn phương pháp ứng dụng vào đời sống tu học bản thân, liên quan gì đến cục diện Phật Giáo và xã hội, thế giới nói chung. Giáo pháp luôn có năm đặc tính : đến để mà thấy, thiết thực hiện tại, siêu việt thời gian (thời nào cũng cần thiết, quan trọng cả), người Trí chứng biết (chứ không phải bàn suông, hay lý thuyết suông) và có khả năng hướng thượng, đạt mục đích, chứng Thánh quả, giải thoát, …

Pháp Đàm – nếu xảy ra, vị giảng sư cần nắm rõ câu hỏi của đối tượng, giải thích rõ ràng, đúng vào trọng tâm câu hỏi, theo Chánh Kiến, có căn cứ nơi Tam Tạng Thánh Điển, kinh nghiệm tu học bản thân và khai thị từ chư Tổ Đức. Pháp Đàm có nhiều khi khó hơn Pháp Thoại là trường hợp rơi vào chỗ chưa biết hoặc bị quên lãng. Người giảng sư phải nên thành thật, cái nào biết thì bảo là biết, chưa biết, hoặc biết chưa rõ thì cứ khiêm tốn nói giới hạn bản thân mình và hẹn cơ hội nghiên cứu thêm hoặc thỉnh giáo từ các bậc cao minh rồi trả lời lại. Giảng sư cần tôn trọng người đặt câu hỏi, thể hiện sự nghiêm túc và quan tâm đến đối tượng bằng cách đề nghị cách thức liên hệ lẫn nhau, ngay sau khi kết thúc Pháp Thoại – Pháp Đàm và hẹn khoảng thời gian nhất định để đưa ra câu trả lời thỏa đáng hơn. Chúng ta đang đối diện với chân lý và sự áp dụng tu học cả đời người khác chứ không phải là chuyện làm qua loa, cho xong thủ tục, hoặc tìm những cách thức lãng tránh để che giấu nhược điểm của mình. Chỉ có một cách là không ngừng tu học, quảng bác, đa văn, suy nghiệm nhiều, có kinh nghiệm phong phú thì mới có thể đảm đương các thời Pháp Đàm tốt được.

VIII. Lắng nghe phản hồi, tự nghe lại và đánh giá sau khi giảng để thay đổi tốt hơn.

Có câu nói : “Không ai hoàn hảo cả”. Ngày nay phương tiện ghi âm bài giảng của mình khá dễ dàng, có thể tự mình thực hiện qua phone, công cụ ghi âm hoặc đạo tràng họ phát livestream facebook, youtube, quay Video sẵn. Nghe lại chính mình thì không có gì hấp dẫn, nhưng dù sao cũng nên kiên nhẫn nghe, nhận ra những chỗ chưa tốt, rút kinh nghiệm cho các lần sau thuyết giảng tốt hơn. Cũng có thể gửi link bài giảng đến các bậc cao minh, thỉnh nhờ họ tranh thủ xem nghe và góp ý, hoặc nếu tạo được một không khí cởi mở thân thiện, hỏi thành thật với các thính giả đã nghe Pháp trực tiếp đó xem họ có hiểu không, nắm bắt được bao nhiêu và cảm nhận thế nào về bài giảng. Cứ tạm cho rằng thính giả đa số không đạt được trình độ Phật học như vị giảng sư đi, vấn đề ở đây là hiệu quả của truyền đạt, nếu một số thính chúng nào đó không hiểu, cảm thấy không hấp dẫn, tẻ nhạt thì có những thính chúng khác cũng sẽ cảm nhận như vậy. Giảng sư phải dám đối diện với khiếm khuyết của mình, rút kinh nghiệm sửa đổi để tiến bộ hơn mỗi ngày, phải can đảm, nhìn thẳng, nhìn thật, biết khuyết điểm của mình để tôi luyện, khắc phục và tiến bộ hơn mỗi ngày.

IX. Tự viện và Tăng Đoàn có thể làm gì để thực thi sứ mệnh hoằng Pháp hiệu quả hơn ?

Như đã nói, bản thân mỗi hành giả tinh cần tu học và trau dồi, phát huy Chánh Kiến, khai mở Trí Tuệ, có nhiều kinh nghiệm để lan tỏa chánh pháp nhiều hơn thông qua tương tác, tiếp xúc. Thế còn Tự Viện nên đưa ra chương trình cụ thể, sắp xếp làm sao có tương đối vừa đủ các khóa học, khóa tu, Pháp Hội, Lễ Hội để cho quần chúng Phật Tử nương duyên tu học, thính Pháp. Nếu mỗi tuần đại chúng đến chùa tụng Kinh 3 đêm chẳng hạn cùng với một buổi trưa cuối tuần (thứ 7 hoặc chủ nhật), nếu trên 10 người thì có thể có khí thể chung để tổ chức Pháp Thoại được, còn nếu ở các tiểu Bang (tỉnh thành) ít người Việt, sau khi tụng Kinh, chỉ có 7 người trở xuống thì sao, có thể giảng Pháp cho 3-4 người nghe tại Chánh Điện không? Điều quan trọng là giữa tu sỹ và các Phật tử tụng Kinh thường xuyên đó đã bàn thảo và thống nhất ý kiến với nhau, nếu đã chấp nhận dành ra 10 – 15 phút sau thời tụng Kinh cho việc chia sẻ Phật Pháp tại chánh điện thì cứ theo tinh thần như thế mà tiến hành. Trước kia, Phật thuyết giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như, hoặc vân du, khất thực, rồi gặp 1 người, Ngài cũng giảng Pháp thì sao? Chúng ta hoằng Pháp chứ không phải làm các ngôi sao các nghệ sỹ chỉ thích lung linh hào quang biểu diễn các xô diễn lớn mới hứng khởi, mới gọi là “xứng tầm”. Phật pháp mà, 2-3 người ngồi vây quanh, thảo luận thân tình với nhau, cũng sẽ vỡ lẽ ra, ngộ ra được nhiều điều. Hữu xạ tự nhiên hương, với tinh thần như thế, cần mẫn gieo nhân lành sẽ gặt quả tốt, dần dần sẽ có nhiều người đến tụng kinh và nghe Pháp thường xuyên hơn.

Nếu như mỗi tuần, tự viện có thể tổ chức 4 thời Pháp Thoại : 3 đêm tụng Kinh rồi giảng ( tuy ngắn) và một buổi cuối tuần (hoặc buổi lễ chính nào đó của tuần, tùy theo trú xứ – như Las Vegas, buổi chính lại là giữa tuần), rồi mỗi tháng có được 1-2 khóa tu Bát Quan Trai, 2 Lễ Sám Hối và giảng giải kèm theo, như vậy có thể tính là một trú xứ đã tích cực tổ chức và tạo duyên cho Phật tử nghe Pháp và học Đạo. Những con số chỉ tiêu này chỉ mang tính chất khảo sát chung, còn có thể triển khai tổ chức thế nào thì tùy tình hình cụ thể nơi mỗi trú xứ.

Về phương diện Tăng Đoàn : có thể tổ chức những khóa tu học chung vào mùa hè, mùa thu chẳng hạn cho Phật tử của tất cả tự viện thuộc Tăng Đoàn. Điều này đòi hỏi Ban Tổ Chức phải lên kế hoạch và sắp xếp chu đáo khá sớm để các vị trụ trì nơi các tự viện thông báo rộng rãi và khuyến khích các Phật tử thuộc tự viện mình tích cực lấy ngày nghỉ làm, tham gia khóa tu và vị Trụ Trì sắp xếp dẫn nhóm Phật tử thuộc tự viện mình cùng đến tham dự cho có khí thế chung. Có những vị tu sỹ tổ chức Khóa tu học cho Phật tử theo tính cách cá nhân tu sỹ hoặc một nhóm vài tu sỹ mà Phật tử tham dự đến vài trăm, còn nếu như Đại diện Tăng Đoàn (Giáo Hội – Tỉnh Hội,..) đứng ra tổ chức khóa tu mà chỉ có dưới 70 Phật tử tham dự khóa tu chẳng hạn, như vậy xét ra còn khá ít (tất nhiên, tu học được người nào là quý người đó). Số lượng ít người tham gia đó có thể là việc Ban Tổ Chức chọn thời gian, địa điểm không phù hợp, hoặc là thông báo không kịp sớm, hoặc các tự viện, thành viên Tăng Đoàn không nhiệt tình liên đới hỗ trợ, …

Tăng Đoàn có thể tổ chức lớp bồi dưỡng giảng sư ngắn hạn hay những thời hạn vừa phải, vừa đủ. Những vị hoằng Pháp thâm niên, có nhiều kinh nghiệm và hiệu quả truyền trao kinh nghiệm, những nguyên tắc Sư Phạm, kỷ năng hoằng Pháp, phương tiện khéo léo khi hoằng Pháp, cũng như tạo cơ hội cho Tăng Ni trẻ thực tập thuyết trình về những đề tài Phật Pháp nào đó, quý vị với vai trò Giám Khảo xem nghe và nêu ra những nhận xét, góp ý với tình thương và chân thật nhất để cho mỗi vị tu sỹ đó khắc phục được khuyết điểm, phát huy thế mạnh, phát triển tốt hơn và sau này trở về trú xứ hoặc đi các nơi hoằng Pháp tốt hơn.

Bao năm qua, chúng ta đã không tích cực trong việc tạo duyên cho người học Đạo online qua việc đọc, suy tư, nghiên cứu với sách dịch, sách sáng tác, đặc san, báo chí,… đó vẫn là những món quà tinh thần bổ ích và thức ăn tinh thần cho người học Đạo say mê và nghiêm túc. Tiếc là nhiều thành viên trong Tăng Đoàn không đóng góp bài vở nhiệt tình và kịp thời cho Đặc San Điều Ngự ít nhất mỗi năm 3 lần vào Tết Nguyên Đán, Phật Đản, Vu Lan, hoặc các kỷ yếu, đặc san, báo chí khác, hoặc những bài viết đăng trên các website Phật Giáo, việc đó có thể giúp cho các Phật tử học Đạo có nhiều niềm vui và đi sâu vào Phật Pháp. Ngôn ngữ viết hay ngôn ngữ nói, tất cả đều là phương tiện để hoằng Pháp. Chúng ta đừng lo là thời nay mọi người làm biếng đọc, ít chịu đọc mà chúng ta chỉ lo là trau giồi và nhiệt tình đóng góp các bài viết có chất lượng để có thể lắng đọng, ngấm sâu, hoặc có những chuyển biến nhiệm mầu trong lòng người đọc. Chúng ta hãy xem tấm gương những cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất thế giới (best sellers) của Ngài Đạt Lai Lạt Ma, Thiền Sư Nhất Hạnh,… tất nhiên, có vị sẽ phản biện rằng, đó là nhứng nhân vật siêu xuất làm sao mà chúng ta so bì cho được? Thế nhưng nếu công việc sáng tác, dịch thuật không đầu tư đúng mức ngay từ bây giờ thì thế hệ trẻ tu sỹ Phật Giáo cũng không coi trọng đúng mức, không trau giồi và đầu tư việc đó, vậy có phải là chúng ta bỏ lơ đi một mảng rất quan trọng không ?

Thời đại ngày nay, những vị có đầy đủ khả năng hoằng Pháp nên quan tâm chú ý sử dụng những phương tiện công nghệ truyền thông như : đài truyền thanh, truyền hình Phật Pháp, livestream facebook, youtube, ticktok, Zoom, trong việc hoằng Pháp để mang Chánh Pháp đến khắp tất cả nhừng ai đủ duyên, cho dù là đang ở đâu, làm gì, cũng có thể học Đạo, để thâm nhập kinh Tạng, phá trù vô minh, si mê, khai mở Trí Tuệ ?

Sau mùa dịch Covid suốt mấy năm qua, số lượng tự viện trong Tăng Đoàn tổ chức khóa tu học cho các em thanh thiếu nhi, thế hệ trẻ, lớp Tiếng Việt hoặc sinh hoạt Gia Đình Phật Tử rất hiếm hoi. Cho dù khó khăn thế nào, các vị Trụ Trì cũng thuyết phục và với sự hỗ trợ của Phụ Huynh vốn là Phật tử của chùa, khuyến khích đưa con em đến Chùa tu học – chúng ta hãy nghĩ đến mạng mạch tương lai của Phật Pháp trong vòng 20 năm sau chẳng hạn, khi thế hệ Phật tử lớn tuổi này không còn đi chùa được nữa.

Có bao nhiêu tự viện trong Tăng Đoàn đủ tầm vóc để mở lớp Giáo Lý và thực hành Pháp môn Phật Giáo cho người bản xứ (người Hoa Kỳ và thuộc gốc các quốc gia khác)? Tại sao các tự viên thuộc Phật Giáo Nam Truyền hoặc Tây Tạng làm được mà chúng ta không làm được? Hãy tham quan, học hỏi, đúc kết kinh nghiệm, trau giồi ngôn ngữ, văn hóa bản địa,…. để rồi các tự viện chúng ta mạnh dạn thông báo mở lớp Phật Pháp, giáo lý và thực hành Pháp môn cho người bản xứ và thuộc các sắc tộc khác nhau, mỗi tuần một lần chẳng hạn. Chúng ta gọi là thực hiện sứ mệnh hoằng Pháp nhưng mà đối tượng cho việc hoẳng Pháp là ai? Những người Phật tử rành tiếng Việt lớn tuổi, biết đến Phật Pháp nhiều năm rồi họ sẽ ra đi, theo luật vô thường, vậy còn lại đối tượng nào đây để mà hoằng Pháp, chẳng phải là thế hệ con cháu gốc Việt nhưng sinh tại Hoa Kỳ, người Hoa Kỳ bản xứ và người thuộc các sắc tộc khác nhau đang sinh sống tại đây hay sao? Nếu chúng ta không biết chuẩn bị, không biết nâng cấp chính mình, không biết tổ chức, hoặc không biết tìm kiếm, huấn luyện nhân sự kịp thời thì chẳng phải là chúng ta sẽ chơ vơ hụt hẫng đúng nhìn họ đi theo các tôn giáo khác hoặc các trường phái Phật giáo khác hay sao, cũng chính bởi vì chúng ta chưa chuẩn bị, chưa đủ khả năng, chưa sẵn sàng, chưa có kế hoạch dài hạn và chưa tạo duyên cho họ …

Trên đây là những điểm chính trong việc thực hiện sứ mệnh hoằng Pháp tại Hoa Kỳ, thiết nghĩ mỗi tu sỹ chúng ta nên tu học, rèn luyện, nâng cấp chính mình, cũng như các tự viện nỗ lực khéo léo trong tổ chức sinh hoạt Phật Pháp và sự phối hợp giữa các thành viên trong Tăng Đoàn để có thể hoàn thiện cho nhau, bổ sung cho nhau, giúp nhau phát triển tốt đẹp hơn, chung tay góp sức tổ chức nhiều Pháp Hội có ảnh hưởng lớn, lợi lạc và để lại ấn tượng không phai mờ trong lòng Phật tử, quần chúng. Nếu chúng ta không nỗ lực và can đảm mở rộng ra mà cứ mãi co cụm và thu hẹp việc hoẳng Pháp lại thì tương lai Phật Pháp, những chùa gốc Việt này rồi sẽ về đâu? Chúng ta thường đọc tụng Tứ Hoăng Thệ Nguyện và bày tỏ tâm nguyện : “Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ”, có lẽ chúng ta đừng tự mãn, cho mình đủ rồi mà nên thành thật nhìn lại, tu sửa, bổ sung, phát triển, hoàn thiện hơn để có thể thực hiện sứ mệnh hoẳng Pháp một cách lợi lạc, hiệu quả nhất là khi mang chuông đi đánh xứ người, mà nền gốc căn bản của họ vốn là theo tín ngưỡng tôn giáo khác và các thế hệ con cháu Việt Nam sinh tại hải ngoại đang có khuynh hướng ngày càng lơ là về chùa chiền và Phật Giáo. Đây chỉ là những mạn phép gợi ý, hy vọng quý vị cùng có nỗi quan tâm sẽ chia sẻ những phương cách thiết thực hữu hiệu hơn để thực thi sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp tại Hoa Kỳ và Hải Ngoại cho hiện tại và tương lai.

Mong lắm thay !

Mùa Phật Đản năm Quý Mão, 16/06/2023, PL 2567
Thích Đồng Trí

Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a39558/phuong-cach-hinh-thanh-nen-nhung-giang-su-co-nang-luc-hoang-phap-hieu-qua




CUỘC CHIẾN VĂN HOÁ BẮC NAM MẶT TRẬN KHÔNG YÊN TĨNH -Tuấn Khanh-

CUỘC CHIẾN VĂN HOÁ BẮC NAM MẶT TRẬN KHÔNG YÊN TĨNH

-Tuấn Khanh-

Vào những ngày cuối của tang lễ hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, người ta dần tìm thấy dòng dư luận đập phá và phủ nhận được tổ chức một cách bài bản xuất hiện ở khắp mọi nơi trên các hệ thống diễn đàn mạng xã hội, cũng như xâm nhập vào các bài viết hay hội luận trên YouTube, với những bình luận hết sức tệ hại.

Có thể nhìn thấy ngay, đó là những người bình luận không có tín ngưỡng, hoặc là những người không có một chút thông tin nào về hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Hay bao quát hơn, đó là một, hay vài thế hệ mù tịt về văn hóa của miền Nam cũ trước năm 1975. Sự thiếu hiểu biết là cội nguồn dẫn đến những bình luận ngông cuồng, và thậm chí là hoàn toàn không biết mình đang nói gì về một nền văn hóa đủ rực rỡ, hình thành những con người với nội lực trải dài và mở rộng, bất chấp nhiều năm bị ngăn trở và hủy diệt của chính quyền mới.

Sự kiện này cũng cho thấy rằng cách bóp chặt và không cho kế thừa phát triển văn hóa của miền Nam, dẫn đến sự tăm tối trong tiếp nhận của nhiều thế hệ thanh niên sau nội chiến. Nó giới thiệu rõ việc thống nhất địa lý là chuyện dễ dàng, nhưng hòa đồng thống nhất, và chia sẻ đẳng cấp văn hóa là một điều hoàn toàn khác.

Điều thú vị là trong khi miền Nam, ở chế độ bị coi là thù địch, tất cả những điều độc đáo và đáng quý của miền Bắc, ngay trong khi đang chiến tranh, học sinh trung học, tiểu học cũng đều được học, và được biết, ngưỡng mộ được kính trọng. Vào thời ấy không có ai miệt thì Văn Cao trên đường phố hay trên một diễn đàn nào, và không ai làm chuyện phủ nhận hay thóa mạ Lưu Hữu Phước, thậm chí bài hát của ông còn được dùng làm quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa. Chiến tranh là điều bất đắc dĩ phải đến, nhưng con người Việt Nam trong lịch sử và những giá trị tồn tại đúng, luôn hiển nhiên được văn hóa Việt Nam Cộng Hòa nhìn nhận.

Đó là lý do khi thống nhất địa lý đất nước, người miền Nam đã ngỡ ngàng nhìn thấy cả một hệ thống tuyên truyền miệt thị chửi bới, từ cấp chính quyền cho đến lịch sử cả dân tộc, vốn người miền Nam được giáo dục coi trọng đồng đẳng, được học thuộc với lòng kiêu hãnh là công dân Việt với ngàn năm văn hiến.  Thậm chí với từng cá nhân của những người miền Bắc tham gia vào hệ thống phỉ báng đó, cũng dường như được đào luyện kỹ càng từ nhà trường đến trên đường phố, để luôn suôn sẻ những ngôn ngữ tấn công như vậy. Những ngôn từ như chiến tranh, nặng nề như đấu tố dễ dàng tuôn ra, mà không cần biết rằng họ thực sự đang nói gì, và có đủ hiểu gì về những điều đó hay không.

Ngay cả giới trí thức miền Bắc, sự xóa trắng thông tin về một nền văn hóa trong một vùng đất khác biệt, cũng là điều được tìm thấy trên mạng xã hội với những câu chuyện mỗi ngày dần mở ra. 

Trên trang facebook của giáo sư Mạc Văn Trang, một trí thức đáng kính với tư duy tự do, ông đã bất ngờ khi phát hiện qua lễ tang của hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, về thân thế và cuộc đời hoạt động của ngài, từ trước năm 75 cho đến lúc viên tịch. 

“Trước khi Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ mất, tôi không biết tiểu sử của ông, không hiểu ông có vai trò gì trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; tôi chỉ đọc mấy bài thơ của ông và bài nhà thơ Bùi Giáng bình thơ Tuệ Sỹ… và cảm thấy mến mộ cả hai người.

Nhưng khi Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch, trên mạng xã hội trong và ngoài nước tràn ngập những bài viết về Ngài, tôi bỏ công tìm hiểu, và thấy Nhân cách của Ngài, sự nghiệp của Ngài đã hoàn toàn chinh phục trái tim và khối óc của tôi: Đây đích thực là một vị Chân tu, một Trí thức lớn, một nhà Phật học uyên thâm, một Nhân cách văn hoá không chỉ của Phật giáo mà của Dân tộc”, giáo sư Mạc Văn Trang viết.

Vị giáo sư uyên bác của miền Bắc, lúc này như bị hệ thống mà mình phục vụ cả đời lạnh lùng, vì các phát ngôn độc lập và trung thực, cũng tự mình mở ra thêm một cánh cửa sự thật, về việc văn hóa của hai miền đất nước chưa bao giờ có thể hòa hợp, thực sự không có cánh cổng nào để đi qua nó bằng sự hiểu biết và nhìn nhận trong tình dân tộc.

“Điều ngạc nhiên là sau khi Ngài mất 3 ngày, đến sáng nay tôi gõ cụm từ “HT Thích Tuệ Sỹ viên tịch” trên Google xuất hiện Khoảng 178.000 kết quả (0,29 giây), mà trên toàn bộ hệ thống báo chí Nhà nước chỉ có báo Tuổi trẻ đưa tin về sự kiện này.

Vậy là từ trước đến nay và cả khi Ngài mất, toàn hệ thống truyền thông nhà nước không được giới thiệu về Thích Tuệ Sỹ, ém nhẹm mọi thông tin về Ngài, cố tình vùi lấp đi một Nhân cách Văn hoá, một sự kiện Văn hóa đáng được tôn vinh”, giáo sư Mạc Văn Trang kết luận. Trong văn bản gốc, ông cố ý viết hoa nhiều cụm từ, trong đó có “văn hoá nhân cách”, như một cách lên giọng, nhấn mạnh.

Điều mà người miền Nam vẫn làm – và có thể gây khó chịu trong tính thống nhất địa lý – là họ tự lưu giữ, tự biết ơn và tiếc nhớ những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống và văn hóa mà họ đã thụ hưởng. Mỗi người dân bình thường đã là một cột trụ truyền thông để âm thầm nhắc nhở nhau, về ngày mất, ngày sinh của những người đã đóng góp cho nền văn hóa hình thành con người của họ. Họ nhớ Mai Thảo, nhớ Thâm Tâm Tuyền, nhớ Trầm Tử Thiêng, kể về Phạm Duy, nói về Nguyễn Đình Toàn… Từ cuốn sách nhỏ cho đến những câu thơ đã dựng nên một trời văn hóa của miền Nam, cho đến những khổ nạn mà những con người đó đã chịu qua thời thế biến động. Dĩ nhiên, mọi chuyện chỉ có người miền Nam tự gìn giữ với nhau, tự lưu truyền, chứ báo chí của người nhà nước thì khó mà nhắc đến.

Dường như có một sự chủ trương rất rõ mang tính khiêu khích trong vài ngày cuối của tang lễ Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Trên mạng xuất hiện một người trẻ trong nền văn hoá mới, có hiểu biết về tiếng Phạn, và đưa phân tích rằng Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã nói sai. Sự lên giọng đúng thời điểm, càng làm cho người ta hình dung rõ điều gì đang xảy ra. Điều anh ta nói, không phải là tranh luận về triết học, mà tựa vào vài con chữ, mục đích là giới thiệu mình uyên bác hơn hết.

Nhưng thử nhìn lại, ngay cả với sự hiểu biết Phạn ngữ và Phật giáo đó, đó là chuyện chỉ có được từ khi văn hóa tín ngưỡng tự do từ miền Nam lan sang miền Bắc và thôi thúc việc hiểu biết thêm nhiều thứ ngoài văn hoá của khối xã hội chủ nghĩa. Trong đó có tiếng Phạn và triết học Phật giáo. Bởi trước năm 1975, Phật giáo miền Bắc cũng lặng lẽ như miếu đền thờ cúng cầu an, chứ không có một giá trị Phật giáo xiển dương như trong miền Nam, và điều kiện để dễ dàng học hỏi Tiếng Phạn thì cũng không có. 

Việc phô trương hiểu biết đó, có thể là một ví dụ điển hình của danh xưng và học thức hôm nay. Ở miền Nam trước đây, thật khó khăn để được gọi tên là một dịch giả hay người chuyển ngữ, nhưng thời đại mới hôm nay thì bất kỳ người nào học ngoại ngữ cũng dễ dàng trở thành một dịch giả, bởi đơn giản không cần nền văn hóa, người ta chỉ cần dịch được từ, dịch được câu là đủ để xưng danh.

Người trẻ tham gia phản biện về tiếng Phạn đó, có thể đã 10 hay 20 năm học biết giỏi tiếng Phạn, nhưng chắc chưa từng có cuộc đời đọc qua hàng chục bộ kinh bằng tiếng Phạn, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật… tham khảo với các bậc đại sư các nước để suy tư, nghiền ngẫm về nó nhằm chuyển ngữ đúng với tinh thần triết học Phật Giáo, và sao cho thật gần, hợp lẽ với người Việt Nam, vượt qua rào cản thô thiển và đơn giản của chuyện dịch câu từ nước ngoài. Thật ngại để nói, nhưng để hiểu được miền Nam, hiểu được văn hoá miền Nam không thể ngu ngơ như đọc một cuốn tự điển mở sẵn, mà phải học đủ, sống đủ để biết nơi chốn đó đã viết ra những cuốn tự diển như thế nào. Đó là chưa nói riêng về Phật học hay tiếng Phạn.

Đốt một ngọn đền để xưng danh, là cách làm quen thuộc, nhất là vào lúc thời sự tập trung. Ngọn đền càng cao quý, tên người đốt sẽ được nhắc muôn đời trong khoái cảm bệnh hoạn đã mưu tính. Đốt một sự nghiệp đã lừng lẫy trên thế giới, được khắp nơi trân trọng như thầy Tuệ Sỹ hay đốt ngọn đền Artemis thì cũng một đích đến như nhau. Mà chuyện xưa đã rõ, kẻ đốt đền Herostratus bị nguyền rủa mỗi khi được nhắc đến. Chỉ có khác, chuyện muốn huỷ hoại thầy Tuệ Sỹ, nó là sự ghét bỏ của văn hoá xuất phát không cùng điểm, mà không nhìn thấy đó là sự tự hoại những điều cao đẹp chung của người Việt Nam. Tất cả chỉ bộc lộ tâm bệnh của a dua thấp hèn.

Đó cũng là lý do vì sao nửa thế kỷ sau khi thống nhất địa lý đất nước, những tài liệu học thuật, kể cả sách giải trí của trước 1975 vẫn được săn tìm in lại. Sách cũ vẫn được chuyền tay đáng với giá ngày càng cao hơn. Thậm chí với những tác phẩm văn học đã được dịch mới, in mới xuất hiện đầy trong các nhà sách, vẫn có vô số người tìm đến các ấn bản cũ hoặc tìm lại ở các bản pdf gốc, để được đọc giọng văn và cách dịch thuật của người có học, và có văn hóa – cũng là “văn hoá cũ”.

Có một người khác trên mạng xã hội trong những ngày này đi làm một cuộc thăm dò bỏ túi, Anh nói 100% những người được hỏi, không ai biết thầy Tuệ Sỹ là ai. Điều này hé lộ một tin tức đáng suy nghĩ: Sự kiểm duyệt và bóp nghẹt thông tin mà giáo sư Mạc Văn Trang mô tả là có thật. Và cũng không biết vui hay buồn khi những người lớn lên sau năm 1975 nói mình không ai biết thầy Tuệ Sỹ là ai – như cuộc thăm dò nói – nhưng tên tuổi hay những điều thị phi của những người bán hàng online, dạy làm giàu tiêu biểu lúc này, họ đều thuộc nằm lòng.

“Trên đời này làm gì có đường, người ta đi mãi cũng thành đường thôi”, Lỗ Tấn có nói. Vực sâu hay núi cao là do mỗi người tự quyết chọn để đi tới bằng con đường của mình. Phỉ báng hay trân trọng, hiểu biết hay ngu dốt, thì tuỳ theo giáo dục và văn hoá, mà con người tự do sẽ tìm thấy ngã đường mình phải bước.

Và trên ngã đường được chọn, vươn vai đứng dậy để nhìn thấy nhau cùng là người Việt Nam, trên một đất nước giàu có văn hoá không dị biệt bằng chính trị, đó luôn là lựa chọn của người trí thức.

-Tuấn Khanh-

Nguồn: https://nhacsituankhanh.com/2023/12/01/cuoc-chien-van-hoa-bac-nam-mat-tran-khong-yen-tinh/




KỶ YẾU TRI ÂN HT.TUỆ SỸ-HỘI ĐỒNG HOẰNG PHÁP

KỶ YẾU TRI ÂN HT.TUỆ SỸ-HỘI ĐỒNG HOẰNG PHÁP

LỜI NGỎ

Phật giáo Việt Nam trong hai thế kỷ cận đại và hiện đại, xuất hiện một số nhân vật đạo hạnh cao vời, kỳ tài xuất chúng, có những cống hiến to lớn, dài lâu cho Đạo pháp và Dân tộc. Ngôn ngữ nhà Thiền xưng tụng những vị này là Bồ-tát, Đại sĩ, Thánh Tăng, hay Long Tượng, là những tôn danh chỉ được tìm thấy trong kinh điển, sử sách, trong lịch sử truyền miệng hoặc trên những bia đá ngàn năm nơi cổ tháp.

Triết gia Phạm Công Thiện trong buổi ra mắt tác phẩm “Huyền Thoại Duy Ma Cật” của Hòa thượng Tuệ Sỹ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas ngày 04 tháng 11 năm 2007, đã gọi tác giả là “bậc Long Tượng: Tuệ Sỹ” và diễn giải thêm, “Long Tượng là bậc Thầy của cả một dân tộc, nếu chưa muốn nói là bậc Thầy của thế giới.”

Chúng tôi, những giáo sư, học giả, văn nghệ sĩ, những pháp hữu và học trò Tăng, Ni, Phật tử nhiều thế hệ, từng được tiếp cận, đàm đạo, nghe giảng từ các trường lớp Trung, Cao đẳng và Đại học Phật giáo, hoặc chỉ được đọc và nghiên cứu qua hàng nghìn trang kinh, sách, tiểu luận, thơ, văn… của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, rất tâm đắc với lời xưng tán của Triết gia Phạm Công Thiện. Nhưng nơi đây, trong tình Thầy-Trò thâm thiết, trong niềm cảm kích vô hạn đối với di sản tinh thần kỳ vĩ mà Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ để lại cho cuộc đời, chúng tôi chỉ muốn gọi Người bằng ngôn ngữ bình dân và gần gũi nhất: Thầy Tuệ Sỹ.

Cuộc đời Thầy tập trung toàn thời gian vào sự nghiệp Hoằng Pháp; nói theo ngôn ngữ thế gian thì đó là lãnh vực Văn hóa và Giáo dục.

Văn hóa và Giáo dục Phật giáo được biểu hiện qua việc học hỏi, tụng đọc, truyền dạy và thực hành Kinh – Luật – Luận mà Thầy đã tận tụy suốt hơn 60 năm phiên dịch, chú giải, sáng tác, giảng dạy trong nhiều trường lớp Phật học tại Việt Nam và ngoài nước qua Paltalk, Zoom Meeting Online, v.v…

Văn hóa và Giáo dục Dân tộc cũng được Thầy phổ hiện qua những sáng tác thơ văn, tiểu phẩm, tiểu luận… về tình tự dân tộc, nhân sinh quan, xã hội dân sự; và trong một góc nhìn nào đó, ngay chính bản án tử hình và những năm trong tù ngục của Thầy cũng là hệ quả của sự biểu hiện nền Văn hóa, Giáo dục nhân bản và khai phóng của dân tộc trong một giai kỳ lịch sử đen tối trên quê hương.

Trong chiều hướng đó, nội dung tập Kỷ Yếu này dựa theo hành trạng của Thầy Tuệ Sỹ, chia làm 3 phần chính:

Phần I – Phật học: Gồm những sáng tác văn, thơ, biên khảo, tiểu luận của chư vị thức giả, học giả, Tăng Ni, cư sĩ, văn nghệ sĩ nói về Thầy Tuệ Sỹ và ảnh hưởng của Thầy trong tư cách một nhà tư tưởng Phật học, một hành giả Tăng sĩ Phật giáo uyên thâm, trác việt;

Phần II – Văn học: Gồm các sáng tác văn chương, thi phú, mỹ thuật của giới văn học nghệ thuật minh họa về Thầy Tuệ Sỹ như một nhà văn, nhà thơ trứ danh, hàng đầu trong nền văn học Việt Nam; và

Phần III – Đạo Pháp và Dân Tộc: Gồm những sáng tác, nhận định, xã luận, tiểu luận của chư vị học giả, thức giả, đời cũng như đạo, Phật giáo hay tôn giáo bạn, về vai trò của Thầy Tuệ Sỹ trong cương vị lãnh đạo Giáo Hội, cũng như những đóng góp của Thầy bằng hành động hay bằng tâm thức, nhằm xây dựng nền tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam.

Những năm gần đây, với thân bệnh, ngoài trọng trách phục dựng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Thầy Tuệ Sỹ vẫn tiếp tục ngày đêm cặm cụi trên những trang kinh giá sách, phiên dịch chú giải Tam tạng Thánh điển, thành lập một hội đồng phiên dịch quy tụ những nhà Phật học có trình độ cổ ngữ và ngoại ngữ vững chắc, soạn thảo đề án và cẩm nang phiên dịch tỉ mỉ chi tiết cho người đi sau. Vào tháng 7 năm 2022, dưới sự chỉ đạo, điều hành của Thầy, Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời đã giới thiệu thành tựu sơ bộ với bộ Thanh Văn Tạng, Giai đoạn I, Phần I, gồm 24 tập và 5 cuốn Tổng lục. Dù chỉ mới thành tựu một phần nhỏ của công trình, tư duy và viễn kiến của Thầy Tuệ Sỹ cùng với cẩm nang để lại, cũng cho thấy tầm quan trọng và ảnh hưởng của Đại Tạng Kinh Việt Nam: là đề án có một không hai của nền Phật Việt. Đây có thể nói là công trình Văn hóa Giáo dục cốt lõi trong sự nghiệp hoằng pháp của Phật giáo Việt Nam mà khởi nguyên là từ lần chuyển pháp đầu tiên của Đức Phật nơi Vườn Nai hơn 25 thế kỷ trước. Chính vì thế, sự nghiệp trí tuệ của Thầy Tuệ Sỹ là một sự nghiệp đồ sộ mà ngàn lời của Kỷ Yếu cũng khó bàn nói hết được. Dù vậy, chúng tôi, mỗi người xin góp một tiếng nói, trước hết là biểu tỏ niềm tri ân và kính trọng vô biên đối với Thầy; thứ đến, muốn chia sẻ, giới thiệu đến bạn đọc về một bậc Long Tượng kỳ vĩ của Phật giáo Việt Nam — một bậc Thầy của những vị Thầy, một bậc Thầy hiếm hoi trong lịch sử gần hai nghìn năm Phật giáo trên quê hương yêu dấu.

Thực hiện tập Kỷ Yếu này, chúng con/chúng tôi muốn tri ân những đóng góp của Thầy Tuệ Sỹ trong mọi lãnh vực; và vì sức khỏe của Thầy, cần phải hoàn tất trong vòng một tháng, trong đó thời gian để các tác giả viết chỉ có mười ngày. Với những hạn chế đó, Kỷ Yếu không thể là một tác phẩm hoàn toàn chuyên chở các nhận định, biên khảo, phân tích về những đóng góp của Thầy hay các tác phẩm của Thầy mà chỉ là một tuyển tập ghi lại những cảm nhận, những kỷ niệm, những lời tri ân của người viết đối với Thầy. Vì vậy, Kỷ Yếu sẽ không sao tránh khỏi những thiếu sót, hoặc những trình bày có khi chủ quan, cảm tính của những người ngưỡng mộ Thầy Tuệ Sỹ; rất mong sự rộng lượng bỏ qua của chư vị độc giả. Hy vọng những khiếm khuyết của Kỷ Yếu sẽ được bổ túc cho được hoàn mỹ hơn trong dịp tái bản, hoặc trong một tuyển tập nghiêm túc, có rộng thời gian hơn.

Chúng con/chúng tôi cũng xin thành kính tri ân tất cả chư tôn đức Tăng Ni, quý vị Cư sĩ, quý văn nghệ sĩ và Phật tử đã dành tâm cảm và thời gian, đóng góp bài vở và hình ảnh để thực hiện tập kỷ yếu này.

Lời sau cùng, nhìn lại hành trạng một đời của Thầy Tuệ Sỹ, chúng ta thấy Thầy luôn là người tiên phong đầu ngọn sóng, trong cả nẻo đạo hay đường đời: vận dụng từ bi và trí tuệ để khai mở, xây dựng và phát triển, từ việc giáo hội đến việc Tăng đoàn mà không màng chút lợi-danh, quyền thế. Sự có mặt của Thầy trong đời này dường như là để dựng lại những gì bị gãy vỡ, đổ nát. Thầy, có khi như con tê giác[1] cô độc giữa núi rừng, có khi hòa mình đồng trú trong biển lớn thanh tịnh tăng-già, có khi thăng trầm theo vận nước nổi trôi, có khi độc hành trên từng dặm ngàn mây bay[2]… nhưng bước chân của Thầy đã được xác định từ ban đầu với con đường tuệ giác, và chỉ một hướng một nguyện: trải thân cát bụi để thực hiện Bồ-đề hạnh trong lũy kiếp hằng sa quốc độ.

Trong sự ngưỡng phục và đồng cảm sâu sắc với hạnh nguyện vô biên của Thầy, chúng con/chúng tôi xin kính dâng Thầy những dòng văn thơ mộc mạc này, và cùng một lời, xin thưa với Thầy rằng, Thầy sẽ không cô độc, vì khi nhìn xuống, Thầy sẽ thấy chúng con/chúng tôi với ước nguyện “thiên lý đồng hành” trên lộ trình giác ngộ thênh thang.

Vĩnh Hảo chấp bút thay Ban Biên Tập Kỷ Yếu, kính ghi.


[1] Hình ảnh từ Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng, Kinh Tập (Sutta Nipata) – HT Thích Minh Châu dịch.

[2] Thiên Lý Độc Hành, thi phẩm của HT Thích Tuệ Sỹ.


BAN THỰC HIỆN KỶ YẾU TRI ÂN HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ
Cố vấn: Hòa thượng Thích Như Điển | Hòa thượng Thích Nguyên Siêu | Hòa thượng Thích Bổn Đạt
Chủ biên: Thượng tọa Thích Nguyên Tạng | Thượng tọa Thích Hạnh Viên
Biên tập: Thị Nghĩa Trần Trung Đạo | Nguyên Đạo Văn Công Tuấn | Tâm Huy Huỳnh Kim Quang | Tâm Quang Vĩnh Hảo | Quảng Diệu Trần Bảo Toàn | Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ
Kỹ thuật và Thiết kế: Nguyên Túc Nguyễn Sung | Quảng Pháp Trần Minh Triết | Nhuận Pháp Trần Nguyễn Nhị Lâm
Bảo trợ: Ban Bảo Trợ Hội Đồng Hoằng Pháp




CHÙA TO THÌ RẤT NHIỀU, TĂNG NI RẤT NHIỀU, TRƯỜNG HỌC CŨNG RẤT NHIỀU MÀ NỘI DUNG KHÔNG CÓ -Tuệ Sĩ-

CHÙA TO THÌ RẤT NHIỀU, TĂNG NI RẤT NHIỀU, TRƯỜNG HỌC CŨNG RẤT NHIỀU

MÀ NỘI DUNG KHÔNG CÓ

-Tuệ Sĩ-

Tính từ độ 1982 cho tới bây giờ, Phật giáo VN có cái gì ? Được bao nhiêu tờ báo? Bao nhiêu quyển sách nghiên cứu? Không cần trả lời ai cũng biết.

Mà bây giờ chùa thì rất nhiều. Tăng cũng nhiều hơn, học tiến sĩ nhiều hơn hồi xưa, nhưng tại sao không làm nỗi một tờ báo? Chỉ có tờ Giác Ngộ gọi là tiếng nói chính thức của giáo hội. Mà tờ Giác Ngộ, nói kinh Phật thì cũng có, mà mình chê thì bảo là vì thành kiến, chứ thật ra chưa đúng với tầm vóc của nó, mà nhiều khi còn viết tầm bậy nữa!

Một tờ báo Phật giáo thì mắc mớ gì cái chuyện của Nato với Kosovo mà mình chống báng. Mấy thầy đó làm báo ch.ín.h tr.ị hay là báo Phật giáo? Mà cái chuyện chống Nato để ủng hộ đả.ng C.SV.N hay ủng hộ Trung Quốc, cái đó hàng chục tờ báo ở ngoài người ta nói rồi, mình nói làm chi?

Nghĩa là không có một tờ báo Phật giáo thật sự. Mà cái sức mạnh của Phật giáo là ở văn hóa chứ không phải ở ch.ín.h tr.ị. Sức mạnh văn hóa mà chinh phục cả thế giới, mình phải ý thức được chuyện đó. Nhìn lại mình, trong 20 năm nữa Phật giáo VN có cái văn hóa nào đáng để chứng tỏ sự tồn tại của mình không? Không có gi cả! Trong hiện tại với tôi bây giờ, chứng tỏ là bất lực rồi.

Còn thế hệ trẻ các thầy bây giờ. Trong 5, 10 năm nữa các thầy phải ý thức rõ việc này và phải làm cho được. Nhưng muốn làm được thì ngay bây giờ tôi phải tìm người để gầy dựng, nghĩa là để hướng dẫn, rồi sau đó đủ sức rồi mấy thầy tự đi lấy. Tôi phải tìm người.

Thứ nhất, bây giờ phải tập mấy thầy dịch kinh cái đã. Ban đầu dịch mấy bài dễ thôi, mà cũng chưa có người làm được. Đi tìm ở Saigon cả năm nay rồi. Tôi nói mấy thầy ở Già Lam đi tìm vẫn chưa ra. Mà với điều kiện nếu trình độ còn yếu thì tôi sẵn sàng giảng dạy cho. Còn ở Saigon nếu vật chất thiếu, tôi sẽ vận động giúp cho cả vật chất lẫn tinh thần mà vẫn chưa tìm ra người. Không dịch nỗi! Tốt nghiệp Cao đẳng rồi mà vẫn không dịch nỗi!

Ngày xưa đi dạy tôi biết, học tăng chỉ cần tốt nghiệp Trung đẳng thôi, ví dụ như lớp của thầy Phước Viên đây học hết Trung đẳng, dịch Luận-câu-xá được. Tôi coi lại tôi thấy dịch được và Phật học viện Nha Trang in đàng hoàng. Ở Saigon như vậy. Ở Huế cũng không có. Thầy Phước Viên đi tìm người ở Từ Đàm, Từ Hiếu để làm, có tôi hướng dẫn thêm mà cũng chưa thấy ai.

Có mấy thầy ở Bình Định tôi cũng nói để ý tìm. Mình đi tìm nhân tài, những người để hợp tác và kế thừa. Mấy thầy phải tập ngay từ bây giờ để vừa phải thì 5 năm, có chậm lắm thì 10 năm nữa phải gánh lấy vai trò đó. Mà trong 5, 10 năm nữa đất nước VN sẽ có những tiến bộ mình bất ngờ, và trong tình trạng của tiến bộ trí thức ngoài đời như thế, mà mình là tăng sĩ Phật học cứ nửa nạc, nửa mỡ thì không truyền bá được gì, sẽ tự mình đào thải.

Và Phật giáo nếu còn tồn tại, chỉ tồn tại theo cái cách mà người ta coi ông Phật cũng như ông Địa. Nghĩa là thờ Phật để cầu buôn may bán đắt, cầu cho đừng bệnh tật, cho trúng số đề…Mà nếu cứ không tìm ra người và không tổ chức được thì sẽ đến tình trạng đó thôi. Ở đây không phải tôi nói quá.

Tôi biết có những vị còn ẩn dật đâu đó mà mình chưa tìm ra. Nhưng ở đây ngay cả những vị đi học tiến sĩ ở Ấn Đô về: mình thất vọng. Tôi đã nói chuyện, tôi biết. Ở đây mình có rất nhiều trường học. Trung cấp có, Cao đẳng có, Học viện có…mà các thầy dạy Cao đẳng Phật học chỉ trừ vài người, số còn lại không ai biết chữ Hán, hoặc biết rất ít. Đọc sách chưa đủ chữ để đọc, mà nghiên cứu kinh điển không biết chữ Hán coi như mất hết 50%. Không biết luôn Pali với Sanskrit thì mất hết 100%. Trình độ học Phật như thế thì đi tới đâu. Thành ra mình phải thấy cái điều bất thường này, là chùa to thì rất nhiều, tăng ni rất nhiều, trường học cũng rất nhiều mà nội dung không có.

Một tình trạng không đơn giản chỉ là suy sụp, mà là…mình nói như la làng lên đi: là nguy hiểm cho sinh mạng của Phật giáo. Bởi học kiểu đó rồi ra trường, kinh điển đọc không hiểu, giảng kinh tầm bậy, cứ theo ý mình mà giảng kinh.

Định Hướng tương lai cho tăng ni trẻ.
-Thầy Tuệ Sỹ-




KỶ YẾU TANG LỄ ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SĨ – 03 TẬP –

KỶ YẾU TANG LỄ ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SĨ
KỶ YẾU TANG LỄ ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SĨ

KỶ YẾU TANG LỄ ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SĨ

THƠ – Tuệ Sĩ – Tập: I-II-III






NHO GIA VỚI VĂN HÓA DÂN GIAN




Tổng Hợp Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam

Tổng Hợp Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam









Lãnh đạo bằng cái tâm chứ không phải cái tôi

Lãnh đạo bằng cái tâm chứ không phải cái tôi




Nâng cao tầm lãnh đạo Tác nhân hóa giải

Nâng cao tầm lãnh đạo Tác nhân hóa giải




PHẬT GIÁO và DÂN TỘC VIỆT NAM




TUỆ SĨ NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG

– TUỆ SĨ –

NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG




Tâm Sự Tuổi Già

Tâm Sự Tuổi Già

Tháng năm vội vã, đời người ngắn quá, chớp mắt đã già. Chúng ta nào dám nói đã thấu hết lẽ đời, nhưng ta cảm thấy, chỉ có hiểu đời, mới sống được ung dung, thanh thản.

Tôi muốn viết đôi dòng “cảm nhận nhỏ nhoi” gửi tới những bạn già, để được mọi người chia sẻ những “cảm nhận lớn lao” hơn, để ta cùng cố gắng.

  1. Cách sống: Qua một ngày, mất một ngày. Vui một ngày, lãi một ngày.
  2. Hạnh phúc và niềm vui: Hạnh phúc không tự gọi cửa tìm đến ta, niềm vui cũng không tự rơi từ trên trời xuống, mà đều phải tự tay mình tạo dựng nên. Niềm vui là mục đích cuối cùng của đời mình, niềm vui ở ngay trong những việc vụn vặt của cuộc sống, ta phải tự mình tìm lấy. Hạnh phúc và niềm vui là một thứ cảm xúc và cảm nhận, quan trọng là ở tâm trạng mình.
  3. Tiền bạc: Tiền không phải là vạn năng, tăng lực, nhưng không tiền thì vạn sự bất lực. Không nên quá coi trọng đồng tiền, lại càng không nên tính toán tiền bạc, nếu hiểu ra, sẽ thấy tiền chỉ là thứ đồ vật ở ngoài thân, khi ta chào đời ta đâu mang tới, khi ta chết đi lại chẳng mang theo.

Nếu có người cần ta giúp đỡ, khảng khái mở hầu bao chính là một niềm vui lớn. Nếu tiền bạc mua được sức khỏe và niềm vui, cớ gì chần chừ nữa? Nếu bỏ tiền ra để được an nhàn tự tại, chẳng phải xứng đáng sao! Người hiểu biết là người biết cách kiếm tiền biết cách tiêu pha, làm chủ đồng tiền chứ đừng làm nô lệ cho nó.

  1. Học cách hưởng thụ: “Phần đời còn lại ngắn ngủi, càng phải làm cho nó giàu có”. Người già phải biết đổi nếp nghĩ cũ, tạm biệt cách sống như tu hành, để làm loài chim vui.

Cần ăn thì ăn, muốn mặc phải mặc, thèm chơi hãy chơi, không ngừng nâng cao chất lượng sống, đón nhận những thành quả của thời đại công nghệ, mới là mục đích sống của tuổi già.

  1. Sức khỏe quan trọng nhất: Tiền bạc là của con mình, địa vị chỉ tạm thời giữ, vinh quang thuộc về quá khứ, sức khỏe mới là của ta.
  2. Khác biệt: Tình yêu bố mẹ dành cho con là vô hạn, con yêu bố mẹ có hạn; Con cái bệnh tật bố mẹ lo âu, bố mẹ bệnh tật con cái hỏi han vài lời là thấy thỏa mãn;

Con cái tiêu tiền bố mẹ thì dễ, bố mẹ tiêu tiền con cái thì khó; Nhà bố mẹ chính là nhà của con, nhà con lại chẳng phải nhà bố mẹ. Khác biệt là khác biệt. Người hiểu ra sẽ thấy lo liệu cho con chính là trách nhiệm và niềm vui, chẳng đòi con báo đáp, còn người cứ muốn được con báo đáp, là tự chuốc ưu phiền.

  1. Bệnh tật trông cậy ai: Cậy con, bệnh nặng ốm lâu con mệt mỏi vắng bóng. Cậy bạn đời, người già tự lo thân chưa xuể, lấy đâu sức lực mà chăm nhau. Cậy tiền, có lẽ phải vậy.
  2. Trân trọng những gì đã có: Ta thường coi nhẹ những gì trong tay, ta thường tiếc nuối những gì không có. Nhưng cuộc sống hạnh phúc đủ đầy lại bởi ta có biết cách cảm nhận cuộc sống chăng. Người hiểu đời sẽ trân trọng và nâng niu những gì đã có, cho nó thêm ý nghĩa trong đời mình, để sống tràn đầy và say mê vui sướng.
  3. Cách nắm giữ niềm vui: Phải giữ tấm lòng rộng mở bao dung, để cảm ơn đời và tận hưởng sự sống. So với người trên nào bằng, ngoảnh xuống kẻ dưới thấy đủ, thấy đủ là thấy vui nhẹ nhõm;

Nuôi dưỡng nhiều niềm say mê, vui thú ấy nào cạn, ta tự tìm lấy được niềm vui; Tốt với người đời, thường làm việc thiện, vui khi giúp người. Đó là những cách nắm giữ niềm vui, cũng mạnh khỏe trong tâm.

  1. Dung dị mới là cốt lõi: Chức cao bổng lộc nhiều, địa vị hiển hách được mấy ai, số đông chúng ta chỉ là thường dân. Nhưng thiểu số ấy chưa chắc đã hạnh phúc, còn đám đông thường dân như chúng ta lại chưa chắc đã bất hạnh, nên ta cần gì nhìn lên đám thiểu số giàu sang đó mà tự ti, thèm muốn.

Con người vốn không phân chia đẳng cấp giàu nghèo sang hèn, chỉ phân chia có tận tâm tận lực với sự nghiệp hay không mà thôi, là đã được coi có công với đời, lòng dạ thanh thản, không hổ thẹn với ai, nữa là con người ta đã lui về rồi thì đều giống nhau cả, chốn sau cùng của chúng ta đều là về với thiên nhiên. Kỳ thực, chức cao nào bằng thọ lâu, thọ lâu nào bằng sống vui lâu, sống vui mới chính là hạnh phúc.

  1. Hãy sống đích thực cho chính mình: Con người quá nửa đời là hy sinh vì sự nghiệp, gia đình, con cái, thời gian giờ còn lại đâu nhiều, hãy sống đích thực cho chính mình, sống sao thấy vui thì sống, làm những gì mình muốn làm và mong làm, đừng ngại ngần người khác đàm tiếu, bởi ta đâu phải sống hộ người khác, mà ta đang sống cuộc đời của chính bản thân ta.
  2. Không cầu toàn: Con người sống trên đời này làm sao có thể vạn sự như ý, tất sẽ có những điều thiếu sót tiếc nuối, càng mong hoàn hảo càng khổ sở, chi bằng thanh thản đối diện hiện tại, tùy hoàn cảnh mà sống.
  3. Già và không già: Người già tâm hồn trẻ, tức là không già. Người chưa già nhưng tâm hồn già cỗi, vậy đã già nua. Nhưng mọi vấn đề vẫn cần nghe người già.
  4. Chú ý điều độ: Sống là phải vận động, nhưng không nên quá sức; ăn uống đạm bạc thì không đủ dinh dưỡng nhưng thịt cá nhiều cũng không tiêu hóa nổi; Nhàn hạ quá thì quạnh quẽ, nhưng khách khứa lắm lại nhiều lo toan, cho nên việc gì cũng nên giữ lấy chữ “điều độ”.
  5. Làm một người thông minh: Kẻ ngốc tự chuốc bệnh (vì hút thuốc, nghiện rượu, ăn uống vô tội vạ) ; kẻ thiếu kiến thức thì chờ bệnh tới (chờ ốm mới đi bệnh viện); còn người thông minh thì phòng bệnh; hãy tốt với chính mình, hãy giữ gìn sinh mệnh của mình.
  6. Đừng lầm lẫn: Chờ khát mới uống, đợi đói mới ăn, phải mệt mới nghỉ, buồn ngủ mới ngủ, sinh bệnh mới đi bệnh viện, lúc đó đã muộn rồi.
  7. Lạc quan và bi quan: Chất lượng cuộc sống của người già cao hay thấp phụ thuộc vào cách họ nghĩ, lạc quan thì mọi việc đều suy nghĩ theo hướng có lợi, nếu lạc quan để quy hoạch quãng đời tuổi già, sẽ được sống đầy tự tin và đầy sức sống, ngày tháng trôi qua sẽ đầy màu sắc; nếu dùng cách nghĩ bi quan sẽ sống trong tâm trạng chán nản tiêu cực, tất già sớm chết sớm.
  8. Học cách vui chơi: Chơi là một trong những nhu cầu của người già, hãy mang một trái tim thơ trẻ để chọn thú chơi mình thích, trải nghiệm những niềm vui khi chiến thắng,cũng không giận khi thua, không làm nư, từ góc độ tâm lý và sinh lý, người già cũng cần sự hào hứng vừa đủ, để giữ cho tuần hoàn tốt.
  9. Làm một người già “mạnh khỏe toàn diện”: Mạnh khỏe toàn diện tức là khỏe về thể chất, tâm lý lẫn đạo đức. Mạnh khỏe về tâm lý tức là sức chịu đựng cao, sức kiềm chế tốt và có năng lực giao tiếp thân thiện; Mạnh khỏe về đạo đức tức là luôn có lòng yêu thương, vui vẻ giúp đỡ người khác, tính tình điềm đạm, lòng dạ rộng rãi, thiện tâm tất thọ lâu.
  10. Hòa nhập với xã hội: Con người là người của xã hội, không được phép sống tách rời biệt lập, lãnh đạm với đời, phải chủ động tham gia hoạt động công ích tập thể, hoàn thiện bản thân từ trong hoạt động chung, thể hiện được giá trị bản thân, đó mới là một cách sống lành mạnh.
  11. Kết giao rộng rãi: Cuộc sống cuối đời nên có nhiều tầng thứ đa dạng, phong phú đầy màu sắc. Một hai người bạn thâm giao nào thể đủ, phải có nhiều bạn bè mới làm cuộc sống tuổi già tươi mới. Để bạn sống mê say vui tươi, muôn hình vạn vẻ.
  12. Nỗi đau: Khi con người phải đối diện nỗi đau, chịu đựng, giải thoát cũng như xóa nhòa nỗi đau, nói cho cùng vẫn phải dựa vào chính bản thân mình, thời gian là vị thầy thuốc tốt nhất, nhưng quan trọng là ở chỗ bạn sẽ chọn cách sống như thế nào trong quãng thời gian ấy.
  13. Hoài niệm quá khứ: Vì sao người ta già rồi thường nhớ quá khứ? Con người về già, sự nghiệp đã đi đến chặng cuối, những huy hoàng dĩ vãng đã biến thành mây khói trong mắt, ta đang đứng ở ga cuối của cuộc đời, gột sạch những dục vọng trong lòng, tinh thần cần thăng hoa, chỉ mong lại tìm thấy được chân tình.

Lúc này, chỉ có quay về chơi chốn cũ, gặp gỡ người thân bạn bè, cùng ôn lại những giấc mơ thiếu thời, cùng bạn học cũ hàn huyên lại những niềm vui thời tuổi trẻ, mới cảm thấy được sức sống của thời trẻ. Trân trọng những chân tình, đón nhận những tình thân cũng là một niềm vui lớn của cuộc sống người già.

  1. Thuận lẽ tự nhiên: Nếu bạn đã cố gắng hết mình nhưng vẫn không thay đổi được những gì bạn không mong muốn, vậy hãy để nó thuận theo lẽ tự nhiên thôi! Có lẽ đó cũng là một cách giải thoát. Mọi chuyện ở đời làm sao cưỡng ép theo ý muốn, những trái dưa ép chín cũng đâu có ngọt.
  2. Thanh thản đối diện cái chết: Sinh lão bệnh tử, quy luật muôn đời, ai người trốn được. Khi cái chết sẽ không buông tha bạn, tại sao ta không đối diện nó, mỉm cười kiêu ngạo. Chỉ những người đã sống cương trực, không hổ thẹn lương tâm, mới có thể bình an thanh thản, cho mình một dấu chấm hết thật tròn vẹn.

Bài viết: “Tâm sự tuổi già”
Trang Hạ biên dịch / Vườn hoa Phật giáo




Nấu Ăn Dưỡng Sinh Ohsawa

Nấu Ăn Duong Sinh Ohsawa




NHÀ BÁC HỌC NỔI TIẾNG THẾ GIỚI THẾ KỶ 20 NÓI VỀ PHẬT GIÁO

ALBERT EINSTEIN
NHÀ BÁC HỌC NỔI TIẾNG THẾ GIỚI THẾ KỶ 20
NÓI VỀ PHẬT GIÁO

Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và Thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên, trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Chỉ có Phật giáo mới đáp ứng được các điều kiện đó.

Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan niệm của mình để chấp nhận khoa học bởi vì Phật giáo bao gồm khoa học và đồng thời cũng vượt trên khoa học. Phật giáo là một chiếc cầu nối liền tôn giáo và những tư tưởng khoa học. Chiếc cầu Phật giáo đã kích thích con người khám phá những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính nó và trong môi trường sống chung quanh nó. Phật giáo siêu việt vượt qua thời gian.

Nếu có một tôn giáo nào đương đầu được mọi nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo.

Tôi là một người không tôn giáo. Nhưng nếu có tôn giáo thì tôi sẽ là một Phật tử. Vì những gì Tôi hiểu biết bây giờ thì mấy ngàn năm trước Đức Phật đã nói hết rồi.

– St –





“ Hữu Xạ Tự Nhiên Hương “

“ Hữu Xạ Tự Nhiên Hương “

Có thể nói Phật giáo trong quá trình truyền đạo không hề có sự tranh giành tín đồ bằng các kế hoạch hay chiến lược cải đạo tinh vi như tôn giáo khác. Người đến với Đạo Phật đều tự nguyện mà không hề bị ép buộc hay dụ đạo .

Chính điều đó đã lý giải tại sao người phương Tây đã và đang Ngộ ra được Ánh Sáng Giác Ngộ của Đức Thế Tôn và ngày càng nhiều người phương Tây đã và đang tìm đến với Đạo Phật – Đạo của Từ Bi và Trí Tuê.

Bởi vì giáo pháp của Đức Phật là Chân lý và hoàn toàn chân thật, mà Chính Ngài là người đã trải qua một quá trình tu tập khổ luyện để đạt đến Sự Giác Ngộ và trở thành Đấng Thiên Nhơn Sư – Bậc Thầy vĩ đại của nhân loại để chỉ ra cho nhân loại một con đường để đi đến bến bờ Giác Ngộ và có cuộc sống an lạc.

Ngày nay người phương Tây đã TỈNH THỨC và họ đang tìm đến với ĐẠO PHẬT và Quy kính Tam Bảo là một minh chứng cho việc xác quyết một Niềm Tin Bất Diệt vào Phật Pháp cho những ai là Phật tử

Chúng ta phải cảm thấy tự hào và thật hạnh phúc khi mình là Phật tử !

Vì vậy Quý đạo hữu Phật tử, Quý Thiện Hữu Tri Thức, những người con Phật hãy cùng đoàn kết một lòng HỘ TRÌ TAM BẢO – BẢO VỆ PHẬT PHÁP mãi trường tồn cho dù các thế lực chống phá Phật giáo đang bủa vây, đánh phá bằng nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi như thế nào đi nữa, thì Trái Tim BẤT DIỆT và ngọn lửa thiêng của Bồ tát Thích Quảng Đức sẽ mãi mãi là ngọn đèn soi sáng cho chúng ta để BẢO VỆ PHẬT PHÁP mãi trường tồn !

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

– ST –




VĂN THI SĨ TIỀN CHIẾN-Nguyễn Vỹ




TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Lê Mạnh Thát

TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM

LÊ MẠNH THÁT

TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Tập 1
LÊ MẠNH THÁT

LỜI ĐẦU SÁCH

Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với dân tộc Việt Nam hơn 20 thế kỷ. Trải qua những thăngtrầm cùng lịch sử đất nước, các Phật tử và thiền sư không ngừng đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam một số lượng tư liệu quy mô đồ sộ, trong đó chứa đựng những tinh hoa trí tuệ của cả một dân tộc.

Hiện nay chúng ta chỉ mới phát hiện một phần rất nhỏ số lượng tư liệu vừa mới bước đầu nghiên cứu và tìm hiểu một số tác giả và tác phẩm hiện đã biết tên, nhưng chưa được thực hiện một cách có hệ thống và nghiêm túc. Mà đối với kho tàng tri thức quý báu đó, chúng ta có trách nhiệm phải bảo tồn, khai thác và tận dụng một cách triệt để nhằm hổ trợ cho các thế hệ hiện tại và tương lai hiểu rõ thêm về nguốn gốc và truyền thống của văn hóa dân tộc, nhằm đóng góp và xây dựng cho xã hội hiện đại cho chúng ta ngày càng phát triển và văn minh hơn.

Vì vậy, để thể hiện nỗ lực và bảo tốn khai thác vừa nói, chúng tôi mạnh dạn cho công bố bộ Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam này. Trước đây, cũng từng có một số công trình tập hợp các tư liệu Phật giáo. Chẳng hạn giữa thế kỷ thứ XIX, cụ thể là năm 1856, Thiền sư An Thiền đã cho ra đời bộ Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục ( 5 quyển ) bao gồm Thiền uyển tập anh làm quyển thượng,Kế đăng lục của Như Sơn làm quyển nhất, quyển tà và quyển hữu, còn quyển hạ do chính An Thiền viết. Đến gần giữa thế kỷ XX, thì Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ do các hòa thượng Quang Minh, Thanh Thạnh, Doãn Hài, Thanh Tích, cùng hợp tác với trường Viễn Đông Bát Cổ để cho ra đời bộ Việt Nam Phật Điển tùng san gồm cả thảy 8 quyển, in dập theo các bản in cũ của các tác phẩm Phật giáo Việt Nam.

Tuy nhiên bộ Phật điển tùng san này mắc hai khuyết điểm lớn. Thứ nhất, về những văn bản in dập lại, người đứng in đã không tiến hành những nghiên cứu văn bản học đối với tác phẩm đã in, làm hạn chế độ tin cậy của văn bản được công bố. Khuyết điểm thứ hai là chỉ in dập lại các văn bản cũ bằng chữ Hán hoặc chữ quốc âm, mà vào thời điểm ra đời của bộ Phật điển tùng san, hai loại chữ này đã không còn phổ biến rộng rãi nữa. Cho nên, nó đã không còn gây được tác động lớn trong giới học thuật. Thêm vào đó, vì những biến động vào năm 1945, bộ Việt Nam Phật Điển tùng san chỉ in tới quyển thứ 8 thì chấm dứt và sau đó không thấy xuất hiện thêm quyển nào nữa. Ngoài ra do thuộc loại in dập, sự sắp đặt các tác phẩm in trong bộ này không dựa trên tiêu chuẩn học thuật và thứ tự tổ chức nào cả. Những điểm này càng làm hạn chế ảnh hưởng học thuật của bộ sách này .

Bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam của chúng tôi ra đời, do thế, sẽ được thực hiện theo một số phương châm sau. Thứ nhất, về mặt tổ chức, chúng tôi sắp xếp các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác giả, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nước ta cho đến thế kỷ XX….

Thứ hai,về mặt học thuật, bộ Tổng tập này chỉ bao gồm các tác phẩm viết bằng văn tự khối vuông, tức bao gồm các tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ quốc âm.Đối với những tác gia sống trong buổi giao thời của việc chuyển từ văn tự khối vuông qua mẫu tự Latin, nếu tác phẩm chính của họ viết chủ yếu bằng văn tự khối vuông thì cũng sẽ được đưa vào trong bộ Tổng tập này.

Thứ ba,những tác phẩm in trong Tổng tập đều do các tác gia Việt Nam thực hiện, trừ ba dịch tác gia là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Viên Văn Chuyết Chuyết và Đại SánThạch Liêm. Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người Ấn Độ, còn hai vị kia là người Trung Quốc. Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã cùng với người học trò mình là Pháp Hiền thành lập nên dòng thiền Pháp Vân. Cho nên, vị thiền sư này qua những dịch phẩm của mình như Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh và Đại thừa phương quảng tổng trì kinh chắc chắn là có những ảnh hưởng lớn đến việc hình thành hệ tư tưởng thiền Pháp Vân. Vì vậy, cả hai dịch phẩm này sẽ được chúng tôi đưa vào phần phụ lục của Tổng tập. Viên Văn Chuyết Chuyết đã sống một thời gian dài và mất tại nước ta, có viết một tác phẩm ngắn là Bồ đề yếu nghĩa,chúng tôi cũng cho in vào đây để tiện việc nghiên cứu tác động tư tưởng của Viên Văn đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam và Phật giáo Việt Nam. Còn Đại Sán Thạch Liêm có nhiều tác phẩm hơn và được lưu hành rộng rãi trong giới học thuật Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là bộ Hải ngoại kỷ sự. Cho nên, để cung cấp tư liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng cho công bố các tác phẩm của Đại Sán trong bộ Tổng tập này.

Thứ tư,về tác gia Đại Thừa Đăng, nếu giả thiết của chúng tôi về Đại Thừa Đăng là Đại Thừa Quang được chấp nhận, thì ta sẽ có một loạt các tác phẩm của thế kỷ thứ VII hiện biết dưới tên Đại Thừa Quang. Đó là Câu xá luận ký, Đại thừa bách pháp minh môn luận thuật ký và Duy thức chỉ nguyên. Các tác phẩm này có thể là do Đại Thừa Đăng viết, nhưng đã lưu hành dưới tên Đại Thừa Quang. Các tác phẩm này chúng tôi cũng sẽ đưa vào phần phụ lục của Tổng tập để làm tư liệu nghiên cứu, trong khi chờ đợi sự thẩm định của giới họcgiả trong và ngoài nước.

Thứ năm,đối với từng tác giả, chúng tôi cho nghiên cứu niên đại, cuộc đời và sự nghiệp của họ; còn đối với các tác phẩm, chúng tôi cho nghiên cứu tình trạng văn bản, nội dung và niên đại ra đời của chúng. Đồng thời cho phiên âm nếu viết bằng chữ quốc âm, dịch nghĩa nếu viết bằng chữ Hán, ra tiếng Việt quốc ngữ.

Thứ sáu,về mặt in ấn, ngoài việc cho in bản nghiên cứu, phiên âm hoặc dịch nghĩa từng tác phẩm như vừa nói, chúng tôi đồng thời cho in lại nguyên bản quố câm hoặc chữ Hán của chúng, nhằm bảo tồn các bản in quý, và để làm tư liệu kiểm soát cho những ai muốn tìm hiểu xa hơn. Những nguyên bản Hán và quốcâm bị thất lạc vào năm 1984, mà chúng tôi đã làm nghiên cứu và phiên âm hay dịch nghĩa, chúng tôi cũng mạnh dạn cho công bố trong bộ Tổng tập,trong khi chờ đợi tìm lại chúng và sẽ bổ sung trong tương lai, khi có dịp tái bản.

Dự kiến bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam sẽ giới thiệu trên dưới 40 tác gia của Phật giáo Việt Nam, bắt đầu với Mâu Tử (160-220?) cho đến tác gia cuối cùng có tác phẩm viết bằng chữ Hán là thiền sư Chân Đạo Chính Thống (1900-1968). Trong số những tác gia này, họ chủ yếu là các thiền sư. Chỉ trừ ba tác gia đời Trần là Trần Thái Tông, Tuệ Trung Trần Quốc Tung và Trần Nhân Tông, một tác gia đời Lê là Lê Thánh Tông, một tác gia đời Tây Sơn là Ngô Thời Nhiệm và một tác gia thời Nguyễn là Nguyễn Du. Các tác gia này ngoài Phật giáo ra còn viết về nhiều đề tài khác nhau, song tự bản thân họ đã xác nhận mình là thiền sư như Trần Nhân Tông hay Ngô Thời Nhiệm, hoặc tự nhận mình có gắn bó chặt chẽ với Phật giáo qua thơ văn như Lê Thánh Tông và Nguyễn Du. Chúng tôi do thế đã đưa các tác gia này vào trong bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, một số tác gia khác có viết về đề tài liên quan đến Phật giáo Việt nam, và họ có thể là những Phật tử. Nhưng chúng tôi cũng chưa đưa vào trong bộ Tổng tập này, vì những tác phẩm ấy chưa chiếm ưu thế trong số lượng tác phẩm của họ. Chẳng hạn, Đặng Xuân Bản có viết Không Lộ đại thánh sự tích, song vẫn chưa đượcđưa vào trong Tổng tập này do việc nó không chiếm ưu thế trong toàn bộ tác phẩm của ông.

Dưới đây là bản dự kiến danh sách các tác gia và tác phẩm sẽ công bố trong bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam này. Đây mới chỉ là một số tác gia và tác phẩm tiêu biểu mà chúng tôi đã sưu tầm được trong những năm qua. Với Tổng tập này, chúng tôi cũng chưa đưa vào các bài văn bia và minh trên đá và chuông đồng, trừ những bài của các tác giả có tác phẩm được in. Những văn bia chưa được in trong bộ Tổng tập này sẽ được tập hợp và in thành một tập riêng. Những tác giả có viết các bài tựa và bạt khi in lại các kinh sách Phật giáo, nhưng không có những tác phẩm khác, thì cũng sẽ được tập hợp và in thành một tập riêng trong tương lai, trừ những bài tựa và bạt của các tác giả có tác phẩm in trong Tổng tập này. Số tựa bạt này tuy chưa phát hiện hết, vẫn được công bố. Nếu trong tương lai có tìm thêm được những tác gia và tác phẩm mới, chúng tôi sẽ công bố trong phần Bổ di của bộ Tổng tập.

1- Mâu Tử (160-220)

– Lý hoặc luận

2-Khương Tăng Hội (370-450?)

– Lục độ tập kinh

– Cựu tạp thí dụ kinh

– An ban thủ ý kinh chú giải

– Pháp kính kinh tự

3- Lý Miểu, Đạo Cao và Pháp Minh

– Sáu lá thư

4- Kim Sơn (1300?-1370)

– Thiền uyển tập anh

– Thánh đăng ngữ lục

– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục

5- TrầnThái Tông (1208-1277)

– Khóa hư lục

– Một số thơ văn khác

6- Tuệ Trung Trần Quốc Tung (1230-1291)

– Thượng sĩ ngữ lục

7- Trần Nhân Tông (1258-1308)

– Cư trần lạc đạo phú

– Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca

– Một số thơ văn khác

8- Pháp Loa (1284-1330) và Huyền Quang (1254-1334)

– Thiền đạo hiếu học

9- ViênThái (1400-1460)

– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục

– Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh

– Phật thuyết báo phụ mẫu ân trọng kinh

10- LêThánh Tông (1442-1497)

– Thập giới cô hồn văn

– 29 lá sớ và các thơ văn khác

11- Lê Ích Mộc (1460-?)

– Bài thi trạng nguyên năm 1502

12- PhápTính (1470-1550)

– Ngọc âm chỉ nam giải nghĩa

– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh

13- ThọTiên Diễn Khánh (1550-1610)

– NamHải Quan Âm Phật sự tích ca

14- ChânAn Tuệ Tĩnh (?-1711)

– Nam dược thần hiệu

– Hồng nghĩa giác tý y thư

– Khóa hư lục giải nghĩa

15- Minh Châu Hương Hải (1628-1715)

– Giải Kim cang kinh

– Giải Di Đà kinh

– Giải tâm kinh ngũ chỉ

– Sự lý dung thông

– Hương Hải thiền sư ngữ lục

16- Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726)

– Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới

– Nghênh sư duyệt định khoa

– Long thư tịnh độ văn tự

– Long thư tịnh độ luận bạt hậu tự

– Thánh đăng ngữ lục hậu bạt

– Kiến tính thành Phật lục

– Tịnh độ yếu nghĩa

– Ngộ đạo nhân duyên

– Thiền tịch phú

– Thiền tông bản hạnh

– Nam Hải Quan Âm bản hạnh

– Thiên Nam ngữ lục

– Đạt Na thái tử hạnh

– Hồng mông hạnh

17- NhưTrừng Lân Giác (1690-1728)

– Sa di thập giới quốc âm

– Ngũ giới quốc âm

– Phật tâm luận

– Kiến đàn giải uế nghi

– Mãn tán tạ quá nghi

18- NhưThị (1680-1740)

– Oai nghi quốc ngữ

19- NhưSơn (1670-1730?)

– Ngự chế thiền uyển kế đăng lục

20- MinhGiác Kỳ Phương (1682-1744)

– Quy ước thiền đường

– Đạo Nguyên thiền sư bi minh

– Kiết hạ an cư thị chúng

21-Quảng Trí (1700-1760?)

– Mục ngưu đồ giải nghĩa

22- Tính Quảng Điều Điều (1720-1780)

– Tam tổ thực lục

– Phật quốc ký

– Sa dini học pháp oai nghi quốc âm

– Hiến cổ châu Phật tổ nghi

– Văn bia và một số các bài tựa

23- PhápChuyên (1726-1798)

– Diệu Nghiêm lão tổ thi tập

– Tam bảo biện hoặc luận

– Chiết nghi luận tái trị

– Thiện ác quy cảnh lục

– Tam bảo cố sự

– Báo ânkinh chú giải

– ĐịaTạng kinh yếu giải

– Quy nguyên trực chỉ âm nghĩa

– Tỳ ni Sa di Oai nghi Cảnh sách âm chú yếu lược.

– Tỳ ni nhật dụng thiết yếu phát ẩn âm chú

– Sadi luật nghi yếu lược Tăng chú quyển thượng phát ẩn

– Quy Sơn cảnh sách chú thích y lược âm phát ẩn thiên

– Nhãn sở đáo âm thích tùy lục tạp thiên

– A Di Đà sớ sao sự nghĩa

– Tam giáo pháp số

– Tam giáo danh nghĩa

– Chư kinh sám nghi

– Hoằng giới đại học chi thư

– Chính truyền nhất chi

24- Hải Lượng Ngô Thời Nhiệm (1746-1803)

– Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh

– Hàn các anh hoa

– Kim mã hành dư . . .

25- Toàn Nhật (1757-1834)

– Hứa Sử truyện vãn

– Tam giáo nguyên lưu ký (Thích Ca Phật vãn)

– Tống vương truyện

– Lục tổ truyện diễn ca

– Bát nhã đạo quốc âm văn

– Xuất gia tối lạc tỉnh thế tu hành vãn

– Tham thiền vãn

– Hoán tỉnh trần tâm khuyến tu tịnh độ vãn

– Thiền cơ yếu ngữ vãn

– Giới hành đồng từ

– Trùng khuyến thân chử Hán

26-Nguyễn Du (1766-1820)

– Truyện Kiều

– Văn tế thập loại chúng sinh

– Thơ chữ Hán

27- AnThiền Phúc Điền (1790-1860?)

– Thiền đường quy ước

– Đạo giáo nguyên lưu

– Tạigia tu trì cách thức

– Giới sát văn

– Phóng sanh văn

– Hóa hư lục giải nghĩa

– Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục

– Kim cang giải nghĩa

– Di Đà kinh giải nghĩa

28-Thanh Đàm (1780-1840)

– Pháp hoa giải nghĩa

– Bát nhã giải

29- Đạo Minh Phổ Tịnh (?1750-1816)

– Phú pháp kệ

30- Bạch Liên (1770-1820?)

– Du YênTử sơn nhật trình

– Thiếu thất phú

– Một số tựa bạt

31- Tánh Thiên Nhất Định (1784-1847)

– Phú pháp kệ

– Và một số tác phẩm khác

32- Pháp Liên (1800-1860)

– Pháp hoa quốc ngữ kinh

33- Đoàn Minh Huyên (1807-1856)

– Sấm giảng

34- ĐiềmTịnh (1836-1899) và Như Như

– Hàm long sơn chí

– Dương xuân sơn chí

– Đạo trang thi tập (Như Như)

– Thiền môn tòng thuyết (Điềm Tịnh)

35-Thanh Lịch (1830-1900?)

– Lễ tụng tập yếu chư nghi

– Giới đàn tăng

– Thọ giới nghi chỉ

36- Nhất Thế Nguyên Biểu (1836-1906)

– Tỳ kheo ni giới bổn lược ký

– Và một số tác phẩm khác

37- Diệu Nghĩa (1850-1914)

– Tỳ ni Sa di oai nghi cảnh sách

– Và một số tác phẩm khác

38- Từ Phong (1864-1938)

– Quy nguyên trực chỉ giải âm

39- Tâm Tịnh (1874-1929)

– Tịnh độ nghi thức

40- ViênThành (1879-1929)

– Lược ước tùng sao

– 30 bài thơ Nôm

41- Chơn giám Trí Hải (1876-1950)

– Mông sơn thí thực diễn âm

– Tịnh độ huyền cảnh

42- Chân Đạo Chính Thống (1900-1968)

– Thủy nguyệt tùng sao

– Và một số thơ văn

43- Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?-594)

– Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh

– Phật thuyết đại thừa phương quảng tổng trì kinh.

44- Đại Thừa Đăng (620-682?)

– Câu xá luận ký

-Đại thừa bách pháp minh môn luận thuật ký

– Duy thức chỉ nguyên

45. Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644)

-Bồ đề yếu nghĩa

46- Đại Sán Thạch Liêm (1633-?)

– Hải ngoại kỷ sự

– Kim cang trực giải

– Ly lục đường thi

Vạn Hạnh

Mùa trung thu Phật lịch 2544 ( 2000 )

Lê Mạnh Thát

MỤC LỤC

LỜI ĐẦU SÁCH

PHẦN I

LỜI DẪN VỀ LÝ HOẶC LUẬN

1- Vấn đề niên đại Lý hoặc luận

2- Quan điểm hiện đại về lý hoặc luận

3- Quan điểm của chúng tôi

· BẢN DỊCH LÝ HOẶC LUẬN

· PHỤ LỤC I

Mâu Tử và những đoạn phiền dật văn

· PHỤ LỤC 2

Dật văn từ Huệ Thông và Phạm Việp

Bác Di hạ luận

Lý hoặc luận

PHẦN II

KHƯƠNG TĂNG HỘI

· LỜI DẪN VỀ KHƯƠNG TĂNG HỘI

I . Khương Tăng Hội cuộc đời và sự nghiệp

1. Khương Tăng Hội ở Việt Nam

2. Khương Tăng Hội ở Trung Quốc

3. Sự nghiệp phiên dịch và trước tác

II. Nghiên cứu về Lục độ tập kinh

1. Vấn đề truyền bản , tên gọi và niên đại

2. Vấn đè bản đáy

3. Những vấn đề ngôn ngữ của Lục độ tập kinh

4. Về sự tồn tại của nguyên bản tiếng Việt

5. Phân tích xuất xứ Lục độ tập kinh

6. Nội dung tư tưởng Lục độ tập kinh

7. Lục độ tập kinh và văn học Việt Nam

8. Tổng kết

· KINH LỤC ĐỘ TẬP

· BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT

· NGUYÊN BẢN HÁN VĂN

LÝ HOẶC LUẬN

· NGUYÊN BẢN HÁN VĂN

LỤC ĐỘ TẬP KINH

__________________

TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Tập 2
Lê Mạnh Thát

Tựa

Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam 2 bao gồm các tác dịch phẩm còn lại của Khương Tăng Hội cùng sáu lá thư của Lý Miễu và hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh. Về những tác dịch phẩm còn lại của Khương Tăng Hội, thì trong tập 2 này chúng tôi cho công bố các nghiên cứu và bản dịch của Cựu tạp thí dụ kinh, Pháp kính kinh tự và An ban thủ ý kinh chú giải. Đây là những tác phẩm hiện được bảo lưu trong các truyền bản khác nhau, mà đầu thế kỷ XX Takakusu Junjiro đã cho khảo dị và in lại trong bộ Đại Chính tân tu đại tạng kinh (viết tắt ĐTK) vào những năm 1915-1925 của triều vua Đại Chính (Taiso) ở Nhật Bản. Sáu lá thư của Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh cũng được xuất bản trong bản in ấy. Chúng tôi đã sử dụng bản in vừa nói cho việc nghiên cứu phiên dịch các tác dịch phẩm vừa nêu.

Trong Tổng tập 2 này, để hiểu Pháp kính kinh tự của Khương Tăng Hội, chúng tôi cho dịch luôn bản Pháp kính kinh của Kỵ đô úy An Huyền. Đây là một trong những bản kinh xưa nhất của nền dịch thuật Phật giáo Trung Quốc, nên đầy dẫy những văn cú khó khăn của giai đoạn cổ dịch. Vì thế trong khi dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Pháp Hộ đối với kinh này, biết dưới tên Uất Ca La Việt vấn Bồ tát hạnh kinh (ĐTK 323).

Tổng tập 2 này cũng bao gồm phần nghiên cứu và bản dịch kinh Tạp thí dụ. Đây là một bản kinh, mà các kinh lục Trung Quốc thường xếp vào loại thất dịch của đời Hán, nghĩa là một bản dịch không biết do ai thực hiện. Vì bản thân bản kinh có chứa đựng một số ngôn ngữ mang tính chất ngữ pháp tiếng Việt, gần gũi với văn phong của Khương Tăng Hội, nên để cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và đời sống văn hóa Việt Nam, chúng tôi cho đưa vào phần phụ lục các tác dịch phẩm của Khương Tăng Hội.

Giống như Tổng tập 1, Tổng tập 2 này cũng sẽ có phần phụ bản chữ Hán, nhằm cung cấp cho người đọc những tư liệu tham khảo và nghiên cứu khi cần thiết.

Vạn Hạnh

Tết Nguyên Đán năm Tân Tỵ (2001)

Lê Mạnh Thát

Mục Lục

Tựa

Phần 1: Khương Tăng Hội và một số dịch phẩm

Giới thiệu kinh Cựu tạp thí dụ
Giới thiệu Pháp kính kinh tự
Giới thiệu An ban thủ ý kinh chú giải
Giới thiệu Tạp thí dụ kinh
Phần II: Sáu lá thư

Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch
Về tác giả và soạn niên của Sáu lá thư
Niên đại của Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
Bản dịch Sáu lá thư

Nguyên Bản Hán Văn

___________________________________

TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Tập 3

LÊ MẠNH THÁT

LỜI NÓI ĐẦU

Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam 3 dành trọn quyển cho việc in lại tác phẩm Thiền uyển tập anh cùng phần nghiên cứu, bản dịch và chú thích của chúng tôi, mà trước đây đã từng được xuất bản. Việc dành tập 3 cho Thiền uyển tập anh này tất nhiên không đáp ứng hoàn toàn tiêu chí sắp xếp do chúng tôi đã đề ra trong Tổng tập 1. Đó là “sắp xếp các tác phẩm Văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác giả, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nước ta cho đến thế kỷ XX“.

Lý do nằm ở chỗ Thiền uyển tập anh ra đời sớm lắm thì cũng từ năm 1337, tức là sau các tác giả như Trần Thái Tông, Tuệ Trung , Trần Nhân Tông v.v.. rất nhiều, mà phần lớn thuộc vào thế kỷ thứ XIII. Thêm vào đó, nếu chấp nhận giả thiết của chúng tôi về tác giả Thiền uyển tập anh là thiền sư Kim Sơn, thì niên đại càng muộn màng hơn nữa, vì Kim Sơn phải sống cho đến lúc vua Trần Minh Tông mất vào năm 1357.

Tuy thế, vì Thiền uyển tập anh là một tác phẩm tập hợp các tư liệu liên hệ tới giai đoạn Phật giáo từ khi Sáu lá thư ra đời cho đến lúc vua Trần Thái Tông lên ngôi. Cho nên, về một mặt nào đó, ta có thể coi Thiền uyển tập anh như một đại biểu cho văn học Phật giáo Việt Nam của giai đoạn ấy. Đó là nguyên nhân vì sao chúng tôi đã đưa Thiền uyển tập anh vào Tổng tập 3 này .

MỤC LỤC

Lời nói đầu

Tựa

Phần I

Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh

I. Vấn đề truyền bản

1. Truyền bản đời Trần

2. Truyền bản đời Hồ

3. Truyền bản 6 quyển

4. Truyền bản đời Lê sơ

5. Truyền bản đời Lê I

6. Truyền bản đời Lê II

7. Truyền bản đời Nguyễn

8. Bản chép tay A.2767

9. Vấn đề chọn lựa truyền bản

II. Vấn đề tên gọi

III. Vấn đề soạn niên và tác giả

1. Thiền uyển tập anhlà một tác phẩm đời Trần

2. Thiền uyển tập anhđược viết vào năm 1337

3. Vấn đề tác giả Thiền uyển tập anh

IV. Những nguồn sử liệu và phương pháp viết sử

1. Những nguồn sử liệu cơ sở

2. Nguồn sử liệu phụ

3. Phương pháp viết sử

V. Vấn đề hiệu bản , phiên dịch và chú thích

Bảng hiệu đối

Phần II:

Bản dịch Thiền uyển tập anh

Bài tựa in lại Thiền uyển tập anh

Thiền uyển tập anh ngữ lục-Quyển thượng

Thiền uyển tập anh ngữ lục – Quyển hạ

Dòng pháp của Tì Ni Đa Lưu Chi chùa Pháp Vân

PHẦN III

Chú thích Thiền uyển tập anh

Bài tựa in lại Thiền uyển tập anh

Thiền uyển tập anh bạt hậu

PHẦN IV

Bảng chỉ dẫn

PHẦN V

Nguyên bản Hán văn

VÀI NÉT VỀ TÁC GỈA

le manh thatGiáo sư, tiến sĩ, sử gia, thiền sư Lê Mạnh Thát, pháp danh Trí Siêu sinh ngày 15 tháng 4 năm 1944 tại Làng Cu Hoan, Xã Hải Thiện, Huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ông là người được biết nhiều bởi những công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử Việt Nam. Một số các phát hiện mới của ông về lịch sử Việt Nam gây chấn động giới nghiên cứu sử. Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận ông là “Người viết sách về văn học và lịch sử Phật giáo nhiều nhất Việt Nam”. Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng ông vẫn để tóc. Năm 1959, ông vào Huế trọ ở chùa Báo Quốc và theo học tại Quốc học Huế. Tại chùa Báo Quốc có mở xưởng làm xì dầu. Ông được phân công phụ trách xem quá trình thuỷ phân có dư xút hoặc axít, hàm lượng đạm có từ bã đậu phụng. Năm 17 tuổi ông được đặc cách thi tú tài…

Năm 20 tuổi ông đậu cử nhân ngành triết học tại Viện Đại học Đà Lạt.

Từ 1965-1974 ông theo học tại Viện Đại học Winconsin, Madison, Hoa Kỳ, lấy bằng tiến sĩ ngành Triết học. Luận án của ông tập trung vào lĩnh vực triết học Thế Thân (Philosophy of Vasubandhu); Vasubandhu là tên của một triết gia Ấn Độ lỗi lạc sống ở thế kỷ thứ 5.

Năm 1974-1975, ông là giáo sư Viện Đại học Vạn Hạnh – Sài Gòn, giảng dạy các môn tiếng Sanskrit, lịch sử triết học Ấn Độ, lịch sử Phật giáo Việt Nam

Từ 1975-1984, ông giảng dạy tại Viện nghiên cứu Phật học Vạn Hạnh – thành phố Hồ Chí Minh [2]

Năm 1984, ông bị chính quyền Việt Nam bắt giam vào năm 1984, bị tuyên án tử hình, sau đó án được giảm xuống tù chung thân, vì tội “tán thành, ủng hộ, che chở, đùm bọc hành động phản cách mạng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa” (Vì ông tiếp tục lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khi hầu hết lãnh đạo của giáo hội đã gia nhập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được nhà nước ủng hộ ).[3]

Ông được phóng thích ngày 31 tháng 8 năm 1998, sau 14 năm giam cầm.

Từ 1998-đến nay: ông là giáo sư, Phó Viện trưởng – Viện Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2012 ông được bầu làm thành viên Ban thường trực của Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VII (2012 – 2017) [4].

Ông thông thạo hơn 15 thứ tiếng [1].

Các lý thuyết mới về lịch sử Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Phát hiện mới của ông gây chấn động giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam:.

Ông tuyên bố đã phát hiện ra Lục độ tập kinh, một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới đã lưu truyền 2000 năm, tập kinh đó là của Việt Nam, tập kinh được dịch ra chữ Hán từ một bản tiếng Việt [5] chứ không phải từ bản tiếng Phạn.

Cho rằng truyền thuyết trăm trứng có khởi nguồn từ Lục độ tập kinh, trước kia chỉ biết có truyền thuyết trăm trứng là hồn thiêng dân tộc, nhưng khởi nguồn thì không biết từ đâu.

Ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahabharata (Mahàbhàrata) từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi.

Ông cho rằng không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (“vì làm gì có An Dương Vương mà đánh!”) và nhà Thục cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Có nghĩa là, cho đến năm 43 (sau công nguyên), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, Văn Lang vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học… Nhà nước và văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến “khai hóa” mà có. Nhà nước Hùng Vương có đủ bản lĩnh, sức mạnh để tiếp thu tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang, đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một trong những dẫn chứng sống động [1]. Ông dẫn chứng, sau khi Mã Viện “chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương”, Hậu Hán thơ viết: “Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc”. Ông lập luận rằng, như vậy rõ ràng nước Việt đã có luật pháp, bộ luật đó một chính quyền Hai Bà Trưng ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời.

Các đề nghị sửa lại lịch sử của ông:.

Dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta. Lý do, Trước đây ta viện dẫn từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện, trong đó 3 tài liệu không rõ nguồn gốc. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc là Sử ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán thư, hoàn toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc lập. Vậy, nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc.

Nước ta từ thời Hùng Vương vẫn là một nước độc lập kéo dài cho đến năm 43, nghĩa là giai đoạn Bắc thuộc lần thứ nhất không tồn tại [6].

Lý giải của ông về các sai sót trong việc chép sử trước đây:

Ông cho rằng trước đây đã dùng những sử liệu không đáng tin cậy để viết sử rồi cứ đinh ninh như vậy cho tới nay. Từ Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do “những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng”. Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng “những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thơ như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát…, dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn”. Tuy nhiên, theo ông, “nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội lần” so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn trên đây, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, “nó cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm” [7].

Nhận xét:

Ông Nguyễn Khoa Điềm nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương: “Tôi không phải là người nghiên cứu lịch sử, tuy nhiên tôi đã đọc bộ Lịch sử Phật Giáo Việt Nam và Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của thiền sư Lê Mạnh Thát. Với cảm nhận của bản thân, tôi cho rằng những giả thiết mà thiền sư đặt ra là rất đáng trân trọng. Trước hết phải ghi nhận là thiền sư đã có một tinh thần dân tộc, luôn mong muốn làm sáng tỏ lịch sử nước nhà. Thiền sư đã cất công tìm tòi, dò sâu vào lịch sử, đọc những tài liệu, những công trình khoa học từ nhiều nguồn, nhiều quốc gia, nhất là trong các tạng kinh Phật. Đây là một cơ duyên mà không phải ai cũng có được. Trong bối cảnh mà nhiều nguồn tài liệu khác đã bị tiêu hủy, thì việc phát hiện những vấn đề lịch sử tiềm tàng trong kinh Phật là điều rất quý”…”Đây là một vấn đề lịch sử cần trao đổi cởi mở, rộng rãi để nhân dân được nghe, được biết. Qua đó, biết đâu chúng ta sẽ có thêm được nhiều nguồn thông tin mới khác nữa từ trong nhân dân” [8].

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, tất cả những cái đó phải được xem xét cụ thể trên nhiều phương diện như độ tin cậy của sử liệu, phương pháp phân tích của tác giả và phải đặt trong tổng thể với các nguồn tư liệu khác. Các bộ kinh Phật đương nhiên là hết sức quý, nhưng nó cần được giải thích sự khác biệt với các nguồn tư liệu khác cũng có giá trị riêng của nó, kể cả truyền thuyết và dã sử. Không phải cứ nói đến “chính sử” của triều Lê (Đại Việt Sử ký toàn thư) do những sử gia tên tuổi biên soạn đã là chân lý tuyệt đối. Bởi trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy thì cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không thể gọi là tuyệt đối vì dân tộc mà căn bản là của giới cầm quyền. Đương nhiên, cũng không chỉ dựa vào một bộ kinh dù vô cùng quý giá trong kho tàng Phật giáo mà phủ định, đơn giản những nguồn sử liệu khác [9].

Các tác phẩm tiêu biểu

Công trình nghiên cứu của Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát về lịch sử và văn học Phật giáo Việt Nam gồm 26 tác phẩm với 18.322 trang, 5 bài nghiên cứu chuyên ngành gồm 140 trang, 4 tác phẩm về các đề tài Phật học 1.436 trang

Lịch sử Phật Giáo Việt Nam – 3 tập. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2006.
Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam – 3 tập. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2006.
Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta.
Toàn tập Minh Châu Hương Hải.
Toàn tập Trần Thái Tông.
Toàn tập Trần Nhân Tông.
Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài.
Nghiên cứu về Mâu Tử – 2 tập.
Chân Đạo Chánh Thống.
Lịch sử Âm Nhạc Phật Giáo Việt Nam.
Tự điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam – 2 tập.
The Philosophy of Vasubandhu.
Ngữ pháp tiếng Phạn
Một số phát hiện khác[sửa | sửa mã nguồn]

Ông phát hiện ra một số sai sót của Lê Quý Đôn khi ghi chép về văn thơ:

Bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc [1].

Bài khác cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng phát hiện tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. (ông còn phát hiện số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư) [1].

Lê Mạnh Thát chứng minh rằng trong số 40 bài thơ thiền được cho là của các thiền sư Việt Nam thời Lý-Trần sáng tác mà Lê Quý Đôn chép lại trong Kiến văn tiểu lục, trên thực tế có tới 32 bài là tác phẩm của người Trung Quốc, sau đó được 1 số người Việt Nam “gia công” lại và gán cho các tác giả Việt Nam.

Sử gia Hà Văn Tấn đồng ý với phần lớn những phát hiện này của Lê Mạnh Thát. [cần dẫn nguồn]Trong 1 tiểu luận viết cho Tạp chí Văn học vào năm 1992, sử gia Hà Văn Tấn dẫn lại một số ý kiến của Lê Mạnh Thát (khi này đang ở tù) cũng như nhấn mạnh rằng, ông (Hà Văn Tấn) đã lần theo những chỉ dẫn, chú thích của Lê Mạnh Thát để kiểm tra lại nguồn tài liệu lập luận của thiền sư, và ông (Hà Văn Tấn) hoàn toàn đồng ý với những khám phá này.

Một buổi sáng mùa xuân, cuối tháng 3 năm 1984, khí trời êm ả, cảnh vật êm đềm, tĩnh lặng cũng như bao nhiêu thời khóa công phu và lạy Sám mỗi sáng. Ôn Già Lam và đại chúng xong thời lễ tụng 108 biến Hồng danh. Về phòng, Ôn uống trà và điểm tâm. Sau giờ điểm tâm, là việc làm thường nhật, tưới nước, quét sân, cho cá ăn… Nhưng sáng hôm nay Ôn đã không làm việc đó, vì có lệnh công an mời lên họp trên Mặt trận Tổ quốc, do vậy Ôn đi từ sáng sớm. Sau khi Ôn đi rồi thì công an vào soát chùa Già Lam, đồng lúc bên viện Phật học Vạn Hạnh cũng bị soát. Họ, công an, bắt quí thầy vào ngồi phòng khách, không được đi lại, một số công an khác lên phòng Thầy Tuệ Sỹ và Nguyên Giác kè hai Thầy lên xe và chở đi, không nói một lời từ biệt. Và bên Vạn Hạnh cũng không khác, cùng một thủ thuật, họ bắt Thầy Trí Siêu và Thầy Như Minh cũng kè ra xe rồi chạy mất. Có điều thật dễ thấy là mạng lưới công an đã bao vây chùa Già Lam và Vạn Hạnh từ sáng sớm, cũng như họ đã toan tính trước, vì vậy, bên chùa Già Lam thì họ mời Ôn đi họp sớm, còn bên Vạn Hạnh thì Ôn Minh Châu cũng đã đi họp mấy hôm ở Hà Nội, cho nên cả hai nơi đều vắng mặt hai Ôn, mục đích để họ dễ bề hành sự.

Nói đến Thầy Thích Trí Siêu – Lê Mạnh Thát, một sử gia, một nhà văn hóa lớn, một học giả uyên bác, tinh thâm ngôn ngữ học, Phật học. Người viết cũng đã một thời gian làm việc với Thầy tại thư viện Vạn Hạnh, 1981-1984, công trình khảo cứu, sưu tra làm bộ bách khoa Phật học Đại Từ Điển cho Ôn Già Lam. Thầy cũng bình dị không kém gì Thầy Tuệ Sỹ, cuộc sống đơn sơ của một nhà đạo sĩ. Vóc người nhỏ, với vầng trán cao, bóng nhụi, biểu lộ một sự thông minh xuất chúng. Dáng đi của Thầy, không giống như người thường, đôi tay hơi khung lên và xăm xăm tới, chữ viết của Thầy còn khó đọc gấp mấy lần chữ viết của Thầy Tuệ Sỹ. Có lần Sư cô Huệ Khương, thư ký đánh máy tại thư viện, người đã bị bắt cùng ngày với quí Thầy, đọc bản thảo của Thầy không hiểu, cô hỏi Thầy, Thầy trả lời : “Chữ nghĩa văn chương là của con người, sao lại không hiểu ?” bằng giọng Quảng Trị khó nghe, rồi Thầy tiếp tục đọc, viết, không nói gì nữa, cô Khương cũng chẳng dám hỏi thêm. Thầy làm việc thật cặm cụi, có những đêm thức trắng bên chồng kinh, sách, sử liệu cổ. Thầy không ngừng phát kiến, lục đạo những chứng tích, di tích xa xưa, mà một thời đã bị mai một. Đích thân Thầy đi về các ngôi chùa cổ ở miền Tây, hay miền Trung, để đọc lại những bản kinh, lịch sử được viết tay bằng chữ Nho, mà theo năm tháng gần như mục nát, nhưng đó chính là những tài liệu vô giá trong công trình khảo đính văn học sử, lịch sử Phật giáo Việt Nam. Qua những công bố sử học mới nhất của Thầy, ngay cả Bộ Văn Hóa Hà Nội cũng phải tham kiến với Thầy, dù họ chẳng ưa gì những sự khám phá mới mẻ này. Vào những năm đầu sau ngày 30/4/1975, Bộ Văn Hóa Thành phố Hồ Chí Minh mời Thầy công tác, giảng huấn, nhưng sau một thời gian, họ thấy trí tuệ của Thầy vượt họ quá xa, sự hiểu biết lịch lãm, kinh nghiệm chuyên môn sâu sắc, nên thôi, và cũng từ thời gian đó, công an theo dõi Thầy cho đến ngày Thầy bị bắt và bị kết án tử hình. Có lần Thầy ra Phật học viện Nha Trang, cùng Thầy Tuệ Sỹ, hai người đi bộ xuống biển rồi chiều về, đi ngang qua Sở công an thành phố, được mời vào ngủ lại đêm, sáng mới về. Hỏi ra, Thầy nói: “Họ không biết mình là ai nên bắt nhốt một đêm muỗi cắn quá chừng”. Nói xong, Thầy cười tự nhiên.

Ngoài thiên tư, bẩm chất của một nhà sử học, đạo học, nghiên tầm Đại Tạng kinh điển. Thầy còn là một Bác sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Hoa Kỳ, mà qua thời gian thân phụ Thầy là Ôn Trí Lưu. Giám tự Linh Mụ, Huế, bịnh nằm trong phòng Thầy, Viện Vạn Hạnh, tự tay Thầy chăm sóc thuốc men, cơm cháo. Thầy cùng thân phụ là đệ tử của cố Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký kiêm Xử lý Viện Tăng Thống, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu.

Thân thế và sự nghiệp của hai Thầy khác hẳn với tất cả mọi người. Thầy Tuệ Sỹ là đệ tử của Hòa Thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Trí Thủ, có một sự nghiệp văn học lừng lẫy, giáo pháp thông suốt, liễu tri, thơ văn đầy ắp trong tư tưởng. Còn Thầy Trí Siêu như trên đã nói, cả hai là những ngôi sao sáng dưới bầu trời Việt Nam, là tinh hoa nước Việt, là những cây bút trác việt, tuyệt luân của Phật giáo, chính những yếu tố đó mà hai bản án tử hình đã tròng vào cổ hai Thầy. Cộng Sản không thể làm ngơ và để tự do cho những con người ưu tú như vậy. Đọc lịch sử hình thành từ những ngày đầu tiên của Cộng sản Quốc tế, đến đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hôm nay, ai cũng thấy tầng lớp công nông đứng lên cướp chính quyền, đấu tố giai cấp thượng lưu, trí thức, địa chủ, phú hương. Do vậy, sự hiện diện của hai Thầy trong xã hội chủ nghĩa không có lý do gì tồn tại được, mà đã không thể tồn tại được thì chế độ Cộng sản phải làm gì ? Đây là lý do đẻ ra bản án tử hình. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam kết án tử hình hai Thầy là mặc nhiên công nhận với thế giới về việc đàn áp Phật giáo.

Ngay sau ngày 30/4/1975, Cộng sản đã ra lệnh tịch thu tất cả sách báo miền Nam trước 30/4/1975 từ mọi lãnh vực : triết học, kinh tế, chính trị, tôn giáo, xã hội, âm nhạc… họ cho rằng sách báo của miền Nam là bồi bút của “Mỹ-Ngụy”, chất chứa những tư tưởng phong kiến, đồi trụy, và bắt phải hủy bỏ. Lúc bấy giờ, vì đau lòng thương tiếc bao công trình văn hóa của đất nước nên nhiều nơi sách vở được cất vào bao bố và đem ra ngoài rẫy cất dấu, thời gian sau coi lại, mối mọt đã ăn rách nát. Cộng sản Việt Nam đã hủy hoại nền văn hóa dân tộc. Đôi bút của hai Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ cho nền văn học đương đại, khơi dậy một chặng đường lịch sử văn học, sử học và nghệ thuật nước nhà. Hai con người, bốn hình ảnh, vừa cưu mang sứ mệnh con dân tộc Việt, đang đứng trước vực thẩm của thời đại mới, thời đại hủy diệt, tàn phá, lạc hậu, bần cùng và nghèo đói; hai Thầy phải làm gì cho sự tồn vong của đất nước ? Vừa gánh nặng trên vai công cuộc khai phá và phát huy con đường giáo pháp “Duy Tuệ Thị Nghiệp” để tiếp nối ngọn đèn chánh pháp mà mấy ngàn năm qua. Tổ Tổ tương truyền, trong sử mệnh của người tu sĩ Phật giáo. Dân tộc lầm than, đang sống dưới sự đọa đày bức ép của chế độ, hai Thầy cũng không thể đành lòng ngó lơ. Đạo pháp trong cơn pháp nạn, hai Thầy không thể bó gối xuôi tay. Hai Thầy đã thể nhập vào đời, như hình ảnh Thiền sư chống tích trượng xuống núi, đem tấm thân giả tạm hiến dâng cho đại cuộc. Ngày hai Thầy bị bắt mang đi và kết án tử hình, là ngày chế độ Cộng sản Việt Nam tuyên bố cho thế giới biết rằng : xã hội chủ nghĩa Việt Nam không gìn giữ chứng tích sử học, không thừa truyền nền văn hóa dân tộc, tụ phát bởi những tấm lòng, ước mơ xây dựng một nền văn hiến, văn phong cho đất nước. Bản án đó đã hủy diệt những danh tài trẻ tuổi với nhiều ước mơ và lý tưởng siêu xuất khỏi chốn đọa đầy, nô lệ hóa của xã hội chủ nghĩa. Vì lứa tuổi hai Thầy đại diện cho tầng lớp thế hệ trẻ, mang nhiều hoài bão, vươn đôi tay ôm choàng Tổ quốc vào lòng, bằng khối óc no tròn tình tự nòi giống tổ tiên. Bản án tử hình hai Thầy đã đánh động lương tâm thế giới, khiến mọi người từ quốc nội đến hải ngoại, từ Liên Hiệp Quốc đến Hội Ân Xá Quốc Tế, tất cả đều lên tiếng yêu cầu nhà nước Cộng sản Việt Nam phải hủy bỏ bản án tử hình phi nhân, vô đạo. CS Hà Nội kết án tử hình hai nhà tu sĩ Phật giáo, những người đã nuôi dưỡng lòng từ bi, mang tình thương, ban vui cứu khổ; khơi dậy ngọn đuốc trí tuệ, thắp sáng đến tận cùng tự mỗi lương tâm của con người. Đối với hai Thầy, những người mang đạo tâm vì dân vì nước thì bản án đó có nghĩa gì khi phải hy sinh thân mạng trên nền tảng chân lý, cứu khổ độ mê. Chết để cho bao người được sống, để làm viên sỏi lót đường cho bao người bước tới. Chết như là tiếng sóng ngầm của đại dương làm các loài thủy tộc tỉnh giấc mơ hóa rồng thiêng bay cùng mây trắng. Chết như cơn địa chấn làm sụp đổ mặt đất này. Người đã đứng trên đỉnh núi Lăng Già của A Bà Tu La Vương, dùng mọi thứ ngôn ngữ, văn từ, thi ca, âm nhạc để tự trang nghiêm mình, trang nghiêm quốc độ, cùng với sinh mệnh hơn 70 triệu dân, vì lòng Bi nguyện, hai Thầy có sức tự tại bằng giá trị thực nghiệm Tánh Không, thì bản án tử hình có làm run rẫy chân lông, sợi tóc ? Hai Thầy đã liễu giải nhơn pháp đều vô ngã, phiền não và sở tri, thường thanh tịnh không, mà sanh khởi lên tâm đại bi. Nếu không vì đại bi tâm, thì hai Thầy đâu cưu mang tù tội, nhưng tất cả chỉ vì hoa đốm giữa hư không, mấy chốc có không, thiên lưu thiên biến. Chế độ Cộng sản đã không thấy rõ thực chân, thực tướng dòng máu Đại Cồ Việt. Dòng máu của chư anh linh Thánh Tử Đạo, đã tưới lên từng ngọn cỏ, đọt cây làm xanh tươi non sông gấm vóc. Lý tưởng tứ đại giai không, đem nắm xương tàn bón phân hoa lá cũng có ích cho đất trời mù khơi, sương tuyết. Tất cả đều cưu mang tự tính vô tình và hữu tình đồng thành Phật đạo, thì đâu sá gì một chút cỏn con sanh di tử độ. Chỉ có Cộng sản mới chấp thủ, bảo thủ, định thủ những tư kiến chủ nghĩa của cái nhìn không qua khỏi mũi cho nên cứ mãi ghìm chặt súng đạn, gươm đao, và cho đó là sức mạnh vô cực đối kháng để bảo tồn danh vọng, địa vị. Sự sát hại xem như cứu cánh, kết án tử hình xem như giải pháp tối thượng thì đó chính là ảo ảnh của lương tri, mà trước mặt là hố sâu đưa cả chế độ xuống vực thẳm. Một thế giới mù lòa vì không có văn hóa, văn học, văn phong, văn mỹ. Xã hội chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam chưa hề có một nền văn học thuần túy dân tộc, phụng sự cái hay, cái đẹp, cái thanh cao, tinh khiết con người. Họ giết người vì tự ái thua kém của mình. Giết người để thấy cái khôn của người không còn phải chứng kiến, chướng tai gai mắt. Giết người là để chôn đi hết mọi chứng tích của sự hiểu biết, thông minh, tri thức con người. Và họ giết người vì không cùng đường hướng, chủ trương với chế độ. Bản án tử hình năm xưa, 1988, nơi hai Thầy là chứng nhân một oan nghiệt của chế độ Cộng sản Việt Nam mà mãi mãi ngàn sau, qua những dòng lịch sử dân tộc, đàn cháu con, hậu sinh sẽ biết thế nào là tội trạng của chế độ Cộng sản đối với Phật giáo. Suốt một dòng lịch sử dân tộc và đạo pháp, trải qua những chặng đường thăng trầm, vinh nhục của đất nước, mấy nghìn năm qua có thể nói thời đại Cộng sản Việt Nam là thời đại đầu tiên tuyên án tử hình đối với giới tu sĩ Phật giáo mà hai Thầy đã phải nhận lãnh. Bản án tử hình cũng nói lên sự thật cho mọi người biết rằng : có chế độ xã hội chủ nghĩa thì không có Phật giáo, hoặc nếu có chỉ để làm vì. Cộng sản đâu biết rằng từ ngụm nước đầu nguồn, cha ông, tổ tiên đã ăn trái cây giải thoát của Phật giáo, đã uống dòng nước thanh hương từ bi của đạo Phật mấy nghìn năm qua, mà ngày nay là đàn con cháu lại nhổ gốc cây, bứng tận rễ, tát cạn suối nguồn, quấy phá tanh hôi. Người ta thường nói : “Con hơn cha là nhà có phước”, nhưng quê hương Việt Nam thật kém phước, vì nhà cầm quyền CSVN đã làm đảo lộn mọi trật tự gia đình, xã hội, mọi đạo đức, lễ nghĩa. Họ đã hủy hoại mọi nền tảng lễ nghi, nhân phẩm đến văn hóa, văn học, văn minh của dân tộc qua những hành động áp bức, khủng bố, vô nhân và hủy diệt tất cả sách báo miền Nam. CSVN đã làm hoen ố những trang sử Việt./.

(Nguồn: Wikipedia & Website Tu viện Quảng Đức)




THƠ – VĂN LÝ – TRẦN

THƠ VĂN LÝ – TRẦN

Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977

Đặc điểm văn học Lý – Trần

Tìm hiểu đặc điểm văn học, thiết nghĩ không thể không nhắc đến một luận điểm tưởng đã cũ nhưng cực kỳ quan trọng: Văn học là tấm gương phản chiếu trung thành cuộc sống, là sản phẩm văn hoá tinh thần của thời đại. Văn học Lý – Trần cũng vậy, không ngoài quy luật trên.

Hơn một ngàn năm nô lệ phong kiến phương Bắc (111 TCN – (938 SCN), với ý chí ngoan cường bền bỉ đấu tranh, với ý thức độc lập tự chủ, hễ có cơ hội, dân tộc ta đã vùng dậy đấu tranh đánh đuổi kẻ thù và đã có lúc giành lại nền độc lập tự chủ dù còn ngắn ngủi. Phát huy truyền thống ấy, mùa đông năm 938 bằng mưu lược tài ba, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đưa nước ta sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự chủ. Từ cái mốc lịch sử này, đất nước ta chuyển sang một thời đại mới: thời trung đại. Đây là thời kỳ Nhà nước phong kiến được thành lập, ngày càng hùng mạnh và phát triển qua các triều đại: Ngô (939-967), Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1225), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407) và mấy năm đầu của cuộc kháng chiến chống giặc Minh vào thời hậu Trần (1407-1418). Giai đoạn lịch sử kéo dài ngót năm trăm năm ấy với những thành tựu tổng hợp của các triều đại trên trong đó có hai triều đại Lý và Trần là xứng đáng tiêu biểu hơn cả về nhiều phương diện nên các nhà nghiên cứu đã gọi chung cho cả giai đoạn lịch sử này là thời đại Lý – Trần. Có thể nói đây là thời đại hào hùng và oanh liệt, rực rỡ và đẹp đẽ nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của thời đại này có thể nêu lên ba nét lớn như sau:

– Một là, thời đại độc lập dân tộc thống nhất đất nước, cộng đồng.

– Hai là, thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước.

– Ba là, thời đại khoan giản, an lạc nhân thứ, rộng mở và dân chủ([1]).

Văn học Lý – Trần đã phản ánh sắc nét những đặc trưng cơ bản trên của thời đại.

Điều muốn lưu ý ở đây, văn học Lý – Trần là thời kỳ văn học chính thức mở đầu, có nhiệm vụ khai phá, mở đường cho văn học Việt Nam kể từ sau khi nước nhà giành lại độc lập ở thế kỷ thứ X (năm 938). Nói thế không có nghĩa là văn học Lý – Trần không có một tiền đề nào từ trước. Nền văn học này đã biết kế thừa những gì đã có tuy chưa nhiều của văn học thai nghén trong thời Bắc thuộc([2]). Tuy vậy, những gì đã có ấy chưa thể coi là chính thức mở đầu của văn học thành văn Việt Nam, mà chỉ có thể coi là mầm mống phôi thai tạo tiền đềcho văn học Lý – Trần phát triển. Từ bước mở đầu có tính chất mở đường này, dù muốn hay không, văn học Lý – Trần một mặt chịu sự tác động của một thời đại khoan giản, nhân thứ, hào mại mà dũng liệt; mặt khác, nó cũng tự xác định cho mình một trách nhiệm cao cả mà lịch sử đã giao phó là góp phần tích cực vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì thế, có thể thấy văn học thời kỳ đầu này nổi lên mấy đặc điểm cơ bản sau đây:

Một là, văn học Lý – Trần hình thành trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng có thể nói là nặng nề bởi nhiều yếu tố ngoại lai, đặc biệt là yếu tố Hán nhưng cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hoá.

Trước hết là sự lệ thuộc, ảnh hưởng. Vấn đề này có nguyên nhân là nước ta bị lệ thuộc phong kiến Trung Quốc thống trị cả nghìn năm. Bấy giờ, văn hoá Hán đã xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường, trong đó con đường áp đặt do các quan cai trị Trung Quốc bảo trợ. Vì thế, khi nước nhà giành lại độc lập, văn học Lý – Trần có mặt đã chịu ảnh hưởng sâu sắc, thậm chí là nặng nề những yếu tố của văn hoá Hán, văn học Hán trên các phương diện ngôn ngữ văn tự, hệ thống thể loại và cả những học thuyết, tư tưởng, tôn giáo.

Về mặt ngôn ngữ văn tự, văn học Lý Trần chủ yếu vay mượn văn tự Hán để sáng tác (mãi đến thế kỷ thứ XIII, dưới đời Trần, mới sử dụng chữ Nôm để viết tác phẩm văn học). Bên cạnh việc vay mượn văn tự, văn học Lý – Trần còn vay mượn thi văn liệu, điển cố, điển tích lấy từ sử sách, từ thánh kinh hiền truyện của Trung Quốc. Sự vay mượn đó nhiều đến nỗi trở thành những mô – típ quen thuộc, tạo nên tính quy phạm, ước lệ, tượng trưng trong văn học. Hồi ấy, những sáng tác văn chương có như thế mới được xem là bác học, cao nhã, cao quý. Chẳng hạn, nói đến cây và hoa, người đọc sẽ bắt gặp tùng, trúc, cúc, mai, sen… Đây là những biểu tượng để chỉ phẩm chất, khí tiết của bậc trượng phu, người quân tử; nói đến vật thì thường là long, ly, quy, phụng; nói đến người thì ngư, tiều, canh, mục; tả cảnh mùa thu phải là rừng phong lá rụng, sen tàn giếng ngọc, mây đùn cửa ải, lá ngô đồng vàng rơi; nói hoa bốn mùa thì thường là xuân lan, thu cúc, hạ sen, đông mai… Vì thế, người đọc không lấy làm lạ là một kiệt tác như Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ) của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, để khích lệ lòng yêu nước của các tướng sĩ dưới quyền xông lên đánh quân xâm lược, tác giả lại nêu lên những tấm gương trung thần nghĩa sĩ ở sách vở Trung Quốc như Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Vương Công Kiên.

Về mặt thể loại, văn học Lý – Trần vay mượn những thể loại của văn học Trung Quốc để sáng tác, bao gồm vận văn, biền văn và tản văn: Vận văn có các thể thơ cổ phong, thơ luật Đường (bát cú, tứ tuyệt), từ khúc, ca, ngâm; biền văn thì mượn các thể như hịch, phú, cáo; tản văn thì mượn các thể chiếu, chế, biểu, tấu, tự, bạt, bi ký, sử ký, luận thuyết, các thể truyện… (riêng thể chiếu, chế, biểu, tấu có nhà nghiên cứu xếp vào loại biền văn([3]). Tất cả các thể loại được sử dụng trong văn học Lý – Trần đều là những thể loại của văn học Trung Quốc. Khi vay mượn để sáng tác, các tác giả đã tuân thủ một cách nghiêm ngặt theo những yêu cầu có tính quy phạm của từng thể loại đó. Theo như kết quả nghiên cứu hiện nay thì văn học Lý – Trần chưa có thể loại văn học tự thân, nội tại của dân tộc như ở giai đoạn văn học sau. Điều lưu ý là trong các thể loại trên, về số lượng và chất lượng thì vận văn nổi trội hơn tản văn; các thể loại trữ tình đạt nhiều thành tựu hơn thể loại tự sự.

Bên cạnh vay mượn văn tự ngôn ngữ và thể loại, văn học Lý – Trần còn chịu ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng tôn giáo, những học thuyết của nước ngoài như Phật, Lão, Nho, Bách gia chư tử… Đây là những tư tưởng, những học thuyết có ảnh hưởng lớn ở khu vực Đông Nam Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam) thời trung đại. Tư tưởng Tam giáo đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, trong đời sống con người Việt Nam thời bấy giờ. Đối với các tầng lớp trên thì họ chịu ảnh hưởng những tư tưởng, học thuyết đó nặng nề hơn.

Tiếp theo, tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm như trên nhưng văn học Lý – Trần đã cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hoá.

Văn học Việt Nam tất yếu phải mang bản sắc tư tưởng, tâm hồn Việt Nam. Văn học Lý – Trần cũng vậy. Trên đường hình thành và phát triển, cùng với việc tiếp thu những cái hay, cái đẹp của văn hoá, văn học nước ngoài, văn học Lý – Trần vừa phải từ bỏ, vừa phải chống lại sự lấn áp, áp đảo của những yếu tố ngoại lai đó để ngày càng nâng cao tính dân tộc. Quá trình vận động và phát triển theo hướng dân tộc hoá diễn ra không chỉ ở hình thức mà còn biểu hiện ở nội dung văn học. Trên phương diện hình thức, biểu hiện đó trước hết là văn tự. Nếu ban đầu văn học Lý – Trần sử dụng chữ Hán thì từ đầu thế kỷ XIII, các tác giả còn sử dụng chữ Nôm để sáng tác. Việc chữ Nôm ra đời và được sử dụng đã chứng tỏ ý thức độc lập dân tộc ngày càng được khẳng định, nâng cao; văn hoá, văn hiến đã được phát triển, đang cố gắng để thoát khỏi sự lệ thuộc văn hoá phương Bắc. Đồng thời, sự ra đời của chữ Nôm còn cắm cái mốc cho sự phát triển văn học, làm tiền đề để cho giai đoạn sau kết tinh nên những kiệt tác văn chương bởi những tác giả ưu tú như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông (thế kỷ XV), Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI), Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX)… Điều đáng tiếc là, theo thư tịch cổ cho biết, thời Lý – Trần có nhiều tác giả sáng tác văn học bằng chữ Nôm nhưng qua thời gian, binh hoả, thiên tai, những tác phẩm đó hiện chẳng còn là bao.

Về điển cố, điển tích, văn thi liệu, bên cạnh sự vay mượn của văn học Trung Quốc thì văn học Lý – Trần còn sử dụng văn thi liệu của Việt Nam, lấy ngay đề tài ở Việt Nam để viết về cuộc sống con người Việt Nam, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên của đất nước Việt Nam, phần nào biểu lộ niềm tự hào dân tộc.

Về thể loại, văn học thời kỳ này chưa có dấu hiệu gì về dân tộc hoá hình thức thể loại văn học như ở văn học giai đoạn sau.

Trên phương diện nội dung, văn học Lý – Trần đã biết “hút nhuỵ tinh hoa”([4]), biết tiếp thu có chọn lọc rồi dung hợp, chuyển hoá cái của người thành cái của mình, phục vụ cho cuộc sống của mình, phù hợp với dân tộc mình. Nền văn học ấy đã thể hiện được tâm hồn, tình cảm, tâm tư nguyện vọng của người Việt Nam. Chẳng hạn, cũng là văn tự, thể loại nước ngoài nhưng những bài thơ như Nam quốc sơn hà(Lý Thường Kiệt ?), Tụng giá hoàn Kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão) đọc lên nghe hào sảng, hả hê biết bao, bừng bừng khí thế và đậm đà tính dân tộc biết dường nào! Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Tuy nêu những tấm gương nước người nhưng tác phẩm đã khích lệ, động viên được tinh thần yêu nước, khơi dậy ý chí chiến đấu và quyết chiến thắng quân xâm lược của các tướng sĩ đời Trần để góp phần làm nên hào khí Đông A của thời đại. Ngay cả những tư tưởng tam giáo: Nho, Phật, Lão khi vào Việt Nam cũng đã được dân tộc tiếp thu, dung hợp rồi Việt hoá để phục vụ cho đời sống tâm linh của mình. Lý tưởng trung quân ái quốc, lý tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh; tư tưởng từ bi bác ái của Phật khi vào Việt Nam đã có sự chuyển hoá nên có khác Trung Quốc, Ấn Độ là nơi sản sinh ra chúng.

Hai là, văn học Lý – Trần đã vận động và phát triển trên cơ sở ý thức dân tộc, kết hợp với cảm hứng thời đại, mở ra một dòng văn học yêu nước trong văn chương Việt Nam.

Ở thời trung đại, trong đó có thời Lý – Trần, yêu nước gắn liền với lý tưởng trung quân. Yêu nước và trung quân là một. Trên cơ sở ý thức độc lập dân tộc được củng cố và phát triển, kết hợp với âm hưởng của thời đại phục hưng mà cảm hứng yêu nước trong văn học Lý – Trần được thể hiện ở nhiều khía cạnh, sắc thái, cung bậc, giọng điệu khác nhau bởi những thời điểm lịch sử khác nhau.

Trong điều kiện đất nước hoà bình thì cảm hứng yêu nước được bộc lộ trong thơ văn thường là ý thức tự cường, tự tôn dân tộc; là niềm khát vọng xây dựng đất nước hoà bình hạnh phúc; là yêu giống nòi, tiếng nói, cảnh trí của non sông gấm vóc và yêu cả nền văn hoá của dân tộc. Câu thơ của Đỗ Pháp Thuận “Vô vi cư điện các, Xứ xứ tức đao binh” khi trả lời vua Lê Đại Hành đã chứng tỏ niềm tin vào vận mệnh đất nước. Bài Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) thể hiện sự nhìn xa trông rộng của Lý Thái Tổ về tương lai đất nước, vì Thăng Long không chỉ đẹp ở thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” mà còn là nơi trung tâm để có thể “mưu toan việc lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau”, điều mà cố đô Hoa Lư không còn phù hợp với yêu cầu của thời đại lịch sử bấy giờ. Bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu không chỉ đưa lại cho người dọc một tình yêu thiên nhiên với cảnh trí tươi đẹp của non sông gấm vóc, mà còn đem đến một niềm tự hào lớn về truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm. Bài phú từng được xem là kiệt tác văn chương. Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã so sánh bài phú này với bài Xích Bích phú của Tô Đông Pha (đời Tống – Trung Quốc) rồi ngợi khen “văn thể phú triều Trần phần lớn khôi kỳ, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”([5]).

Cũng là con sông Bạch Đằng lẫy lừng chiến tích, nửa thế kỷ sau cuộc kháng ch iến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285), thứ ba (1287), Trần Minh Tông và Trương Hán Siêu cùng cảm nhận một màu máu tanh hôi trên dòng sông: “Ngỡ rằng máu giặc hãy còn đây”, dù theo thời gian, nước vẫn trôi nhưng dấu vết, chiến tích lịch sử thì vẫn còn lưu lại mãi. Thật tự hào biết bao! Cũng với cảm hứng ấy, Phạm Sư Mạnh khi nhìn dòng sông cuộn sóng, cảm thấy lòng bồi hồi tưởng nhớ chiến tích oai hùng năm xưa của Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên dòng Bạch Đằng giang:

Hung hăng Bạch Đằng đào,

Tưởng tượng Ngô Vương thuyền.

(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.79)

Dịch:

Bạch Đằng cuồn cuộn sóng,

Tưởng thuyền chiến Ngô Vương.

Để hơn trăm năm sau, thi hào Nguyễn Trãi khi đến dòng sông này cũng đã có cảm xúc và niềm tự hào như thế trong bài thơ Bạch Đằng hải khẩu.

Khi Tổ quốc bị xâm lăng thì yêu nước là lòng căm thù giặc, là tinh thần quyết chiến thắng kẻ thù, bảo vệ đến cùng chủ quyền của dân tộc. Yêu nước còn là lòng biết ơn và ca ngợi những con người dám xả thân cứu nước; những con người thà hy sinh chứ không hàng giặc, không hợp tác với kẻ thù. Bài thơ thần (Nam quốc sơn hà) tương truyền của Lý Thường Kiệt vẻn vẹn chỉ hai mươi tám tiếng, gói gọn trong bốn câu mà ít nhất đã mang hai tầng ý nghĩa: vừa là lời hịch lại vừa là lời tuyên ngôn, vì đã khích lệ, cổ vũ tinh thần quyết chiến đấu và chiến thắng quân Tống xâm lược vào năm 1076 trên trận tuyến sông Cầu; đồng thời khẳng định cương vực bờ cõi chủ quyền của đất nước với sự phân biệt rạch ròi “Nam quốc” với “Bắc quốc” và “Nam đế” với “Bắc đế”. Do thế, xưa nay nhân dân ta đã coi bài thơ như là lời tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Thơ văn Lý – Trần, tập 1, tr.322)

Dịch:

Núi sông Nam Việt vua Nam ở,

Vằng vặc sách trời chia xứ sở.

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Hay như lòng căm thù, sự căm tức của chủ tướng Trần Quốc Tuấn “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đằm đìa”, với ước muốn “xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù” thì đó cũng là lòng căm thù sôi sục của tướng sĩ trong thời điểm ấy. Còn đây là khí phách hào hùng cùng niềm tin vào vận nước nghìn thu được thể hiện trong bài thơ ngắn với giọng điệu hả hê của Trần Quang Khải:

Đoạt sóc Chương Dương độ,

Cầm hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu trí lực,

Vạn cổ thử giang san.

(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr.424)

Dịch:

Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm Tử bắt quân thù.

Thái bình nên gắng sức,

Non nước ấy nghìn thu.

Cảm hứng yêu nước của thời đại Đông A còn vút lên giọng hào sảng của kẻ nam nhi quyết lập công để lưu danh hậu thế trong thơ của Phạm Ngũ Lão:

Hoàng sóc giang sơn cáp kỷ thu,

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu.

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr. 562)

Dịch:

Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân hùng khí át sao Ngưu.

Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

Một thời đại văn học đầy chất tráng ca. Hào khí thời đại ấy đã làm cho Trần Phu, một sứ thần nhà Nguyên, vào thời điểm đó đi sứ sang ta, khi về lại Trung Quốc vẫn còn “giật mình kinh sợ” đến nỗi “tóc bạc”. Cái cảm giác này ông có ghi trong bài Sứ hoàn cảm sự:

Kim qua ảnh lý đan tâm khổ,

Đồng cổ thanh trung, bạch phát sinh.

Dĩ hạnh quy lai thân kiện tại,

Mộng hồi do giác chướng hồn kinh.

Dịch:

Bóng lè binh khí lòng đau khổ,

Vang vọng trống đồng, tóc bạc sinh.

Mừng được về nhà, thân khoẻ mạnh,

Ngủ dài, trở dậy, thấy còn kinh.

Cảm hứng yêu nước ấy còn thể hiện qua giọng điệu uất hận, dồn nén của người anh hùng lỡ vận trong bài Cảm hoài của Đặng Dung. Đây là hai câu kết:

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.

(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.517)

Dịch:

Thù trả chưa xong đầu đã bạc.

Gươm mài bóng nguyệt đã bao rày.

Ba là, văn học Lý – Trần đã hình thành những giá trị nhân bản, trong đó lòng nhân ái, nhân đạo trở thành cảm hứng chủ đạo trong văn chương.

Xét đến cùng, cảm hứng yêu nước không hoàn toàn tách biệt với cảm hứng nhân bản, bởi yêu nước cũng là một phương diện cơ bản của nhân bản. Yêu nước bao giờ cũng gắn với vận mệnh, cuộc sống con người. Việc đấu tranh chống áp bức thống trị, sự chiến đấu chống ngoại xâm, giải phòng đất nước đều xuất phát từ sự mưu cầu hạnh phúc cho con người. Tuy vậy, nội dung nhân bản vẫn có những điểm riêng. Nội dung đó không chỉ hiểu theo nghĩa đạo đức học mà còn phải hiểu theo nghĩa triết học. GS. Nguyễn Đình Chú đã giới thuyết ngắn gọn thuật ngữ nhân bản như sau “Tinh thần nhân bản không chỉ là tình thương con người, đặc biệt là con người đau khổ, thiệt thòi trong cuộc sống, mà còn là sự khám phá, biểu dương tất cả mọi giá trị làm nên vẻ đẹp con người trong mối quan hệ với vũ trụ, với tự nhiên, với xã hội, với gia đình, với chính nó trong hành động và trong tâm linh”([6]).

Từ giới thuyết trên, nếu triển khai và vận dụng vào văn học Lý – Trần sẽ có rất nhiều vấn đề cụ thể, phong phú và khá phức tạp. Ở đây, chỉ xin điểm qua giá trị nhân bản với hai cấp độ: thứ nhất, văn học Lý – Trần đã xây dựng và giải quyết được mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, tự nhiên; thứ hai, văn học Lý – Trần đã nêu được mối quan hệ giữa con người với con người; con người với cuộc sống.

Ở cấp độ thứ nhất, có thể xem mối quan he giữa con người với vũ trụ, tự nhiên chính là vũ trụ quan thì văn học Lý – Trần đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Xuất phát từ cảm thức trung đại, con người Lý – Trần chưa nhận thức tự nhiên như một khách thể. Hồi ấy, con người nhận thức và phản ánh tự nhiên không chỉ ở cấp ý thức hệ mà ở cấp tâm lý xã hội; không chỉ ở cầu trường cảm quan về thế giới như A. Gurevich đã phát biểu([7]). Với cảm thức ấy, con người đã tự xem mình là một phần tử của vũ trụ, bởi quan niệm thiên nhân tương dữ, thiên nhân hợp nhất. Vì thế, giữa con người với vũ trụ, tự nhiên có sự gắn bó hoà đồng, có mối quan hệ tương giao. Có được điều này, như đã đề cập, là nhờ sự gặp gỡ giữa chất phóng khoáng, dân chủ, cởi mở, phá chấp, cùng xuất phát từ tư duy tổng hợp, nhất nguyên, vạn vật nhất thể, tâm pháp nhất như của Phật với chất phiêu diêu, phóng nhiệm, tinh thần biện chứng khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh và tư tưởng hoà quang đồng trần của Lão – Trang với đức tính dung dị, mềm dẻo, linh hoạt, sống phụ thuộc vào thiên nhiên của người Việt. Vì thế, văn học Lý – Trần, đặc biệt là văn học Phật giáo Lý – Trần đã đem lại cho người đọc nhiều tác phẩm thể hiện sự gắn bó tương giao ấy, tạo nên hình ảnh con người vũ trụ thật đẹp.

Ở cấp độ thứ hai, văn học Lý – Trần đã nêu được mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cuộc sống. Đây là những nguyên tắc đạo lý làm người, là thái độ ứng xử tốt đẹp trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, là khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống của con người, là lòng thiết tha vun đắp những giá trị nhân bản ngày càng hoàn thiện hơn. Về góc độ này, văn học trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX phản ánh rõ nét và có nhiều thành tựu xuất sắc. Riêng trong văn học Lý – Trần thì vấn đề trên cũng đã được các tác giả đề cập đến tuy không nhiều bằng giai đoạn văn học sau.

Có thể nêu lên đây vài tác phẩm tiêu biểu thể hiện cảm hứng nhân bản ở cấp độ này như bài thơ Ai phù lỗ của Huyền Quang:

Khoá huyết như thành dục ký âm,

Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.

Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,

Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.

(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr. 642)

Dịch:

Chích máu thành thư muốn gởi lời,

Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi.

Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ?

Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi.

Bài thơ là nỗi lòng thương cảm sâu xa của Thiền gia thi sĩ đối với tên giặc bị bắt. Nhà thơ hiểu được tâm trạng nhớ quê nhà, nhớ người thân của tù nhân và ghi lại những dòng thơ đầy xúc động. Thật hiếm gặp những bài thơ như thế trong văn chương đời Trần. Còn đây là nỗi niềm trăn trở, day dứt của quan tư đồ Trần Nguyên Đán khi nghĩ về nhân dân sống trong cảnh mất mùa đói kém, mà mình thì chẳng giúp ích được gì trong bài thơ Nhâm Dần lục nguyệt tác:

Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,

Hoà cảo miêu thương hại chuyển thâm.

Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,

Bạch đầu không phụ ái dân tâm.

(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.208)

Dịch:

Năm nay hạ hạn lại thu mưa,

Đau nỗi mùa màng, những thiệt thua.

Ba vạn sách đầy đành xếp xó,

Yêu dân còn nợ, mái đầu phơ.

Trong một bài thơ khác, Trần Nguyên Đán cũng nhắc đến đầu bạc: “Ba phần tóc bạc tấm lòng son”. Bạc đầu vì dân. Một nỗi lo thật cao cả, cũng chỉ vì muốn cho con người sống đầy đủ hơn, hạnh phúc hơn.

Có được nhân sinh quan đẹp đẽ, ấm áp tình người ấy, có lẽ là nhờ sự bắt gặp giữa lòng Thương người như thể thương thân của dân tộc với tư tưởng từ bi bác ái của Phật và học thuyết nhân nghĩa của Khổng – Mạnh. Nhờ sự gặp gỡ này mà văn học Lý – Trần mới có được những tư thế nhân sinh lành mạnh và khoẻ khoắn.

Tóm lại, văn học Lý – Trần với những đặc điểm cơ bản vừa trình bày chính là sản phẩm tinh thần của thời đại Lý – Trần. Nó chi phối các bộ phận văn học thời đại này, cho dù đó là văn học của các nhà Nho hay văn học được sáng tác theo cảm hứng Phật giáo, cảm quan Thiền học; đồng thời còn ảnh hưởng đến các giai đoạn sau của văn học trung đại Việt Nam.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, H, số 2, 2001




Thực trạng GĐPT Việt Nam và những biến động có thể xảy ra

Thực trạng GĐPT Việt Nam

và những biến động có thể xảy ra

Phong trào Chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam do Hòa thượng thượng Khánh hạ Hòa cùng chư tôn thạc đức trong sơn môn và hàng cư sĩ lương đống đứng ra khởi xuất từ năm 1920 (thế kỷ XX) đã nghĩ ra các phương pháp đào luyện thanh thiếu đồng niên xây dựng tương lai đạo pháp mới có thể vững mạnh. Thập niên 30 thế kỷ trước đã đưa ra các mô hình thử nghiệm là:

  • Đồng Ấu Phật Tử
  • Gia Đình Phật Hóa Phổ
  • Hướng Đạo Phật Tử
  • Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục
  • Đoàn Nam Phật Tử Thiện Sanh
  • Đoàn Nữ Phật Tử Liên Hương.

Năm 1945, tất cả các mô hình sinh hoạt trên đều nghỉ sinh hoạt vì lý do chiến tranh.

Ngày 08-12 năm Mậu Tý, tất cả các mô hình sinh hoạt trên tái sinh hoạt dưới một danh xưng thống nhất là tổ chức GIA ĐÌNH PHẬT HÓA PHỔ và nhanh chóng có mặt khắp các miền Nam Trung Bắc. Năm 1951, đại hội GIA ĐÌNH PHẬT HÓA PHỔ lần thứ nhất vào các ngay 24 – 25 – 26/ 04/ 1951 đồng thống nhất đổi danh xưng GIA ĐÌNH PHẬT HÓA PHỔ thành GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM. Và đại hội ấy được gọi là ĐẠI HỘI HUYNH TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT. Đến đại hội lần thứ tám vào năm 1973 đến biến động chánh trị 30/4, chế độ Cộng Hòa miền Nam sụp đổ. Tất cả các tổ chức Hội Đoàn tại miền Nam đều giải thể, duy chỉ có tổ chức GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM là tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tinh thần vẫn không rời Nội quy – Quy chế. Trong giai đoạn nầy có nhiều ACE tạm thời nghỉ sinh hoạt. Một số ACE vượt biên ra nước ngoài, xuất ngoại theo diện HO đã đăng ký sinh hoạt hợp pháp với các quốc gia thứ hai nầy từ hình thức đến nội dung theo tinh thần hai văn kiện pháp quy là NỘI QUY GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM và QUY CHẾ HUYNH TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM. Các quốc gia nầy công nhận tổ chức GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM là công nhận GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT tại quê nhà.

Năm 1981, GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM được thành lập, không có tổ chức GĐPTVN, đến năm 1995 mới tổ chức Phân ban GIA ĐÌNH PHẬT TỬ. Họ sử dụng huy phù cấp hiệu đồng phục giống y như của tổ chức GĐPT theo chỉ thị 01 của Ban Tôn giáo Chánh phủ cho phép GHPGVN quản lý tổ chức GĐPTVN của GHPGVNTN. Nhưng sự phản kháng mạnh mẽ của tổ chức GĐPTVN, năm 2000 nhà nước thu hồi chỉ thị 01. Như vậy Phân Ban GĐPT của GHPGVN là bất hợp pháp.

Thế nhưng lý luận của nhà đương cuộc và GHPGVN là: Hiện tại chỉ có GHPGVN là giáo hội duy nhất của Phật giáo tại Việt Nam và Phân ban Gia Đình Phật Tử là tổ chức giáo dục thanh thiếu niên của Phật giáo hợp pháp. Ngoài ra là bất hợp pháp. Nhưng Ban hướng dẫn Trung ương GĐPTVN vẫn tiếp tục sinh hoạt với quan điểm rõ ràng:

Gia Đình Phật Tử Việt Nam là tổ chức ban ngành của Giáo hội dân lập có tên là GHPGVNTN, là giáo hội duy nhất tại miền Nam Việt Nam trước 1975. Hiến pháp công nhận quyền tự do tín ngưỡng và Phật giáo là một tôn giáo lớn ở Việt Nam thì tổ chức GĐPTVN sinh hoạt hợp pháp.

Nếu lý luận kiểu nhà nước: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là sự kết hợp thống nhất của 09 hệ phái Phật giáo trong đó có GHPGVNTN và giáo hội nầy công nhận sự sinh hoạt biệt truyền của các hệ phái thì đương nhiên GĐPTVN sinh hoạt hợp pháp (vì GĐPTVN là một sinh hoạt biệt truyền mà trong 09 hệ phái Phật giáo không có).
GĐPTVN luôn khẳng định mình là một tổ chức SINH HOẠT TU HỌC CỘNG ĐỒNG PHI CHÁNH TRỊ của Phật giáo không bị chi phối của Mặt trận tổ quốc.

Nhà nước cô lập tổ chức GĐPTVN bằng cách tuyên truyền trong quần chúng rằng GĐPTVN là theo ông Huyền Quang, ông Quảng Độ chống phá nhà nước, sinh hoạt bất hợp pháp. (Đã bất hợp pháp sao họ không bắt) chắc chắn là vì các lý do sau:

  • Gia Đình Phật Tử không làm điều chi sai quấy.
  • Huynh trưởng và đoàn sinh sinh hoạt có lý tưởng có sứ mạng và họ sẳn sàng hy sinh cho lý tưởng sứ mạng nầy.
  • GĐPTVN hiện tại hàng không quá 100.000 người số lương tuy nhỏ nhưng họ có:
  • Ngoại hộ thiện tri thức (gồm cha mẹ HTr – ĐS – Đạo hữu – Ban Bảo Trợ – Cảm tình viên) trên 1.000.000 người.
  • Nội hộ Thiện tri thức (Cựu HTr – Cựu ĐS) có trên chục triệu là một con số không nhỏ).

Cho nên Phân ban Gia Đình Phật Tử tuy mới sinh hoạt sau năm 1995 nhưng số lượng HTr có cấp đông đảo hơn GĐPTVN truyền thống. Đây là một chiến lược tổng tấn công vào thành trì GĐPTVN truyền thống. Bước đầu là cho người ve vuốt hàng Huynh trưởng GĐPT Truyền thống là những con người được huấn luyện đào tạo tác phong đạo đức tốt hơn phân ban. Thứ hai đốc thúc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra văn thư mời các vị trụ trì và Ban Huynh trưởng các đơn vị Truyền thống hiệp thương thống nhất. Thứ ba là tiến hành cho phép mở đại hội thống nhất hoành tráng dưới sự giám sát của Ban Tôn giáo và Mặt trận TQVN.

ĐÂY LÀ MỘT CHIẾN LƯỢC ĐƯA TỔ CHỨC GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM VÀO CỬA TỬ

Vì các lý do sau đây:

Giữa lúc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là giáo hội mẹ trong cơn pháp nạn, tài sản bị tướt đoạt. Nhân sự bị tù đày giam cầm quản chế, cô lập không được hành hoạt ta lại đi nhận người dưng làm cha mẹ là bất hiếu, là phản phúc tự đánh mất chính nghĩa mà mình đã khó khăn lắm mới gìn giữ được suốt gần bốn mươi năm qua.

Chỉ có Phân ban Gia Đình Phật Tử mới có quyền tổ chức đại hội, dự kiến thành phần nhân sự và xét duyệt tư cách đại biểu (GĐPTVN truyền thống sẽ mất trắng tay).
Sau đại hội (dự kiến) chính quyền sẽ mạnh tay diệt bỏ thành phần ngoài Giáo Hội và sẳn sàng ra văn bản cấm chỉ sinh hoạt).

Do vậy Ban hướng dẫn Trung ương Gia Đình Phật tử Việt Nam mới gởi kiến nghị thư lên các cấp lãnh đạo nhà nước thứ nhất là để tố cáo những vi phạm, thứ nhì là cáo mạch một cách minh chính về đường lối giáo dục sinh hoạt tu học cộng đồng phi chánh trị của mình. Rất mong ACE Huynh Trưởng đặc biệt quan tâm và suy lường một cách thận trọng./.

– Thị Nguyên –




ĐẶT CÁCH

ĐẶT CÁCH

Đặt cách là danh từ chuyên môn của tổ chức Gia Đình Phật Tử , chỉ có quý ANH CHỊ EM thông hiểu NỘI QUY QUY CHẾ cũng như đã từng trải nghiệm mới có thể hiểu được danh từ này, trong cuộc đời của một Huynh Trưởng chỉ được ưu ái một lần đặt cách để tránh sự bè phái, nhiễu loạn, phe cánh , thẩm sâu hơn nữa là sự ngã mạn của một vài huynh trưởng nhỏ tuổi mà đảm nhận chức vụ quan trọng trong Ban Hướng Dẫn

Trong quá trình Đào Tạo có những trường hợp không đúng cách để tham dự TRẠI HUẤN LUYỆN như thời gian sinh hoạt, tuổi tác v..v Ban Hướng Dẫn xem xét tạo điều kiện thuận duyên cho những Trại Sinh đó tham dự Khóa Đào Tạo , thường thì đặt cách chỉ dành cho Trại Sinh thật sự giỏi , có tư cách đạo đức hay những Trại Sinh ở vùng sâu vùng xa thiếu huynh trưởng

Đặt cách có nghĩa cũng phải trải qua Đào Tạo chứ không phải đặt cách để trúng cách . Trại Huyền Trang và Vạn Hạnh thì không thể ĐẶT CÁCH . Quý ANH CHỊ thọ Cấp Dũng là người lèo lái NHÀ LAM là những người đứng mũi chịu sào, là những người chịu rách trách nhiệm trước vận mệnh của TỔ CHỨC , cho nên HUYNH TRƯỞNG CẤP DŨNG phải thực sự là một người có TÀI, ĐỨC lấy LÝ TƯỞNG NHÀ LAM làm hơi thở của mình của chính mình, một Anh Chị Huynh Trưởng Cấp Dũng thì không thể có một sơ suất gì về cuộc đời riêng tư như : Chị Tâm Chánh, Anh Nguyên Y, Anh Nguyên Hùng , Anh Tâm Bửu , anh Nguyên Từ, Chị Không Liên V.V

TĂNG GIÀ cũng có những hợp giới tử chưa đủ tuổi 20 để thọ Tỳ Kheo Giới nhưng CHƯ SƠN, BAN KIẾN ĐÀN , HỘI ĐỒNG THẬP SƯ tác pháp Yết Ma đồng thuận để giới tử đó được thọ ĐẠI GIỚI , mục đích để vì Tỳ Kheo đó ra làm việc giáo hội và hướng dẫn Phật Tử

Trải qua những biến nạn, giờ đây LAM VIÊN đang dần dần ổn định , chúng ta có nhiều Tổ Chức LAM VIÊN, chúng ta nhiều LAM THÂN , chúng ta có nhiều … nhưng chúng ta chỉ có một điều chúng đó là LÝ TƯỞNG. Nội quy quy chế tùy theo quốc độ, tùy theo xã hội, tùy theo tình hình hiện tại mà chúng ta có thể dùng phương tiện thiện xảo để LAM VIÊN nơi đó phát triển , thế nhưng TRẠI VẠN HẠNH là điểm cuối cùng để thọ nhận cấp DŨNG thì không thể đặt cách , càng không thể xuất hiện cảm tình cá nhân vì sứ mạng của HUYNH TRƯỞNG CẤP DŨNG tối ưu quan trọng với tổ chức

Trường hợp truy thăng cấp DŨNG khi huynh trưởng cấp TẤN mãn phần mặc dù không thể vượt qua TRẠI VẠN HẠNH nhưng với thâm niên sinh hoạt, cống hiến cho Tổ Chức và không bị gián đoạn quá lâu dù bất cứ hoàn cảnh nào thì được truy thăng, huynh trưởng bị một lần treo cấp thì không thể thọ nhận cấp DŨNG dù đó là ai

Oklahoma August 28.2023
Thích Nguyên Nguyện

 

 

 




Người Tiểu Nhân

Người Tiểu Nhân

Tiểu nhân chỉ cho những người hay soi mói, chấp nhất những chuyện nhỏ nhặt. Những kẻ này thường hô biến những việc nhỏ trở nên nghiêm trọng lên để hạ thấp người khác. Trong khi giá trị bản thân thấp kém.

• Là từ phản nghĩa với quân tử theo định nghĩa của Nho giáo, dùng để chỉ người không tuân thủ đạo đức và quy tắc một cách nghiêm khắc, người không có nhân cách cao thượng và lý tưởng lớn, không chiếu cố đến lợi ích của người khác. Như Khổng Tử có nói: “Nhữ vi quân tử nho, vô vi tiểu nhân nho” (Ngươi là quân tử nho, không là tiểu nhân nho.)

• Chỉ người gieo rắc thị phi, hoặc người bí mật mưu hại người khác, tương phản với quý nhân.

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u_nh%C3%A2n

Mở miệng ra là nói đạo lý, sau đó đem người khác ra phán xét để hạ bệ và coi thường họ, đó chính là biểu hiện của kẻ tiểu nhân.

Cuộc sống luôn có hai mặt trắng và đen, con người cũng vậy. Chúng ta trong đời có lẽ phải ít nhất một lần gặp kẻ tiểu nhân và phải rút ra bài học kinh nghiệm. Dưới đây là vài đặc điểm của những kẻ tiểu nhân có thể bạn sẽ gặp.

Trước mặt nói lời dễ nghe nhưng lại đâm sau lưng

Kỳ thực ngoài xã hội có rất nhiều người như vậy. Vì lợi ích cá nhân, họ sẵn sàng đánh đổi phẩm chất đạo đức của mình, ngó lơ đi sự gào thét của lương tâm.

Nguyên tắc làm người là điều gì không thể nói trước mặt ai đó thì cũng đừng nên nói sau lưng họ. Chẳng thà nói thẳng ra để góp ý giúp họ sữa chữa chứ đừng đi bêu riếu sau lưng để hạ thấp danh dự của người ta.

Nhưng những kẻ tiểu nhân chính là như vậy, chuyện gì không vừa ý thì không bao giờ dám góp ý trực tiếp, hơn nữa trước mặt còn giở trò giả tạo, nói lời ngon ngọt tâng bốc, rồi sau lưng lại dè bỉu chê bai.

Thích nói thêm bớt
Nói không thành có, nói có thành không, nhà Phật gọi là nói lưỡi đôi chiều, phạm vào 5 giới. Một người hiểu biết và thông minh sẽ không bao giờ nói lời như vậy, vì hơn ai hết, họ biết điều đó chẳng khác gì rước họa vào thân đầu tiên.

Những người hay nói những lời này có tính đố kỵ, tâm tính hẹp hòi nên chẳng muốn ai hơn mình, đụng chút chuyện liền khơi lên, thêu dệt vào nhằm đạp người khác xuống thấp hơn mình, cho thỏa mãn sự ghen ghét.

Kẻ tiểu nhân như vậy bạn nên tránh xa. Dù ban đầu có thể họ lựa chọn bạn để kể về những điều xấu xa của người khác nhưng không có nghĩa là họ sẽ đứng về phía bạn, biết đâu bạn cũng đang là mục tiêu kế tiếp.

Thừa nước đục thả câu
Chăm chăm vào đợi chờ người khác sơ suất để trục lợi cũng là một thủ đoạn của kẻ tiểu nhân. Kiểu người này khá nguy hiểm, bạn nên cẩn trọng khi ở bên cạnh. Tốt nhất là khi chưa đảm bảo mình có thể hiểu rõ một người, đừng vội cảm thấy thoải mái mà lơ là hay thậm chí tâm sự với họ.

Hơn nữa, những kẻ như vậy cũng chẳng bao giờ có bạn thân thật sự, chỉ toàn là bè phái cấu kết để nhăm nhe hại người khác thôi.

Thích lôi đạo lý ra phán xét người khác
Đây là những kẻ giả nhân giả nghĩa điển hình và tồn tại khá nhiều trong cuộc sống quanh ta, đặc biệt là những nơi có các tầng lớp trí thức hay hiểu biết nhiều. Người này mở miệng ra là nói đạo lý, tiếp sau đó là đem người khác ra so sánh với những đạo lý đó, rồi hạ bệ và coi thường.

Thực ra những người này ban đầu đôi có thể nhận được sự ngưỡng mộ từ người khác vì sự hiểu biết sâu rộng và những triết lý họ hay nói. Nhưng tiếp xúc lâu dài, bạn sẽ thấy họ là kiểu người cực kỳ “hãm”, chẳng bao giờ chịu công nhận người khác, nhìn ai cũng thấy khuyết điểm. Kết giao với hạng người này chỉ khiến bạn cảm thấy bé nhỏ, tự ti và hoài nghi bản thân hơn thôi.

Có một nghịch lý là đa số mọi người vẫn thường hay phán xét người khác dựa theo quan điểm cá nhân của mình, rồi lại dành cả cuộc đời mình để sống theo quan điểm của người khác. Thế nên người dám nói điều muốn nói, tự do thể hiện cá tính, một lòng theo đuổi thứ mình thích đôi khi sẽ không thể sống vừa lòng tất cả mọi người, những rồi họ sẽ là người khiến người khác phải trầm trồ và sống tự tin hạnh phúc theo cách riêng của mình.

TRẦN NGÂN/VOV.VN
NGUỒN: https://vtc.vn/4-bieu-hien-cua-ke-tieu-nhan-ar576406.html

Có những lúc, trong một vài việc nào đó, rõ ràng là chúng ta không hề có ý gì nhưng khi việc đã qua, lại có người dụng công miêu tả đến mức khó có thể tưởng tượng khiến chúng ta gặp phiền toái.

Thực ra, đây là hành động của những kẻ tiểu nhân. Vậy làm thế nào để phát hiện những người như thế quanh mình ?

Tiểu nhân là từ dùng để chỉ những người có nhân cách thấp kém, nghĩ một đằng nhưng nói một lẻo. Ở bất cứ đâu, bất cứ công ty, đơn vị nào cũng đều có những kiểu người như thế này.

Họ, trong mọi lĩnh vực, làm việc hay làm người đều không trọn đạo, trước mặt (người khác) là người nhưng sau lưng (người khác) là quỷ, thường dùng những thủ đoạn không chính đáng để đạt được mục đích của mình.

Ở cạnh người tiểu nhân, chỉ một chút thiếu thận trọng, chúng ta sẽ bị thua thiệt rất nhiều. Thế nên, học cách phân biệt được người tiểu nhân là việc làm cần thiết cho dù bạn ở môi trường nào đi nữa, từ học tập cho đến đi làm và bước vào xã hội.
Trong cách ăn nói, hành động của họ, thường có những nét đặc trưng rõ rệt như sau:

1. Thích nịnh nọt người khác
Những kẻ tiểu nhân khi đứng trước mặt chúng ta, họ ra vẻ rất nhiệt tình, từng lời nói “ngọt như mía lùi” khiến cho ai nấy cũng dễ rơi vào trạng thái mất cảnh giác.
Có những lời không nên nói, có những sự việc không nên làm nhưng bạn đã làm, đã nói trước mặt họ, vì bạn coi họ là người có thể tin cậy, nói sao biết vậy nhưng chỉ cần quay ngoắt một cái, sự việc đã đến tai người khác, đẩy bạn vào trạng thái bất lợi.

2. Thích ngồi chỗ nọ nói xấu chỗ kia
Trước mặt bạn, kẻ tiểu nhân sẽ nói bạn hay, chê người kia dở nhưng trước mặt người kia, bạn là kẻ chẳng ra gì, tìm cách lấy lòng tất cả nhưng lại ngấm ngầm chia cắt tình bạn bè, đồng nghiệp, thậm chí gây ra những tranh cãi và mâu thuẫn khó có thể hàn gắn.

Hơn nữa, miệng lưỡi những kẻ tiểu nhân thường rất khéo, cho dù có bị phát hiện, họ cũng biết cách thoái thác, phủi sạch trách nhiệm.

3. Gió chiều nào xoay chiều đó
Ở cơ quan, lãnh đạo thích ai, kẻ tiểu nhân sẽ tìm cách gần gũi người đó, lãnh đạo không thích ai, kẻ tiểu nhân sẽ ngày ngày tìm cách đả kích, ai có ưu thế sẽ đeo bám, ai thất thế sẽ xa lánh. Với những người không có giá trị lợi dụng, họ chắc chắn sẽ không bao giờ nghĩ đến việc gần gũi, kết thân.

4. Thích thể hiện
Trước mặt lãnh đạo, những kẻ tiểu nhân luôn tỏ ra hăng hái, nhiệt tình nhưng khi cấp trên vừa đi khỏi, đâu lại vào đó! Trong công việc, họ nói và làm bất nhất.
Kiểu người này vô cùng giỏi trong việc kể công. Nếu công việc của người khác có một chút sơ suất, họ sẽ lập tức gọi điện thoại cho cấp trên và coi đó là “thành tích” của bản thân.

5. Sở trường đổ vấy trách nhiệm cho người khác
Nếu trong công việc mắc sai lầm hoặc hành động, ngôn từ của bản thân không đúng, kẻ tiểu nhân sẽ một mực không thừa nhận mà tìm một người thế thân gánh nạn.

Kiểu người này rất “mồm mép”, có thể đổi trắng thay đen, có thể khiến mọi người nhầm lẫn mà lan truyền đi những thông tin sai sự thật.

Thậm chí có những lúc “chân tướng” vì thế mà bị giấu nhẹm đi và cho dù được phát hiện khi việc đã rồi, mức độ ảnh hưởng của nó cũng đã không còn nữa.

6. Thích bịa đặt dựng chuyện
Những kẻ tiểu nhân làm như vậy vì nhiều mục đích khác nhau chứ không đơn thuần chỉ là để mua vui. Có những kẻ bịa đặt, dựng chuyện để mưu lợi cá nhân, gây bất lợi cho người khác, bôi nhọ đối thủ, nâng cao bản thân.

7. Thường bồi thêm nhát dao chí mạng cho người đang gặp hoạn nạn
Trong cơ quan, đơn vị có đồng nghiệp mắc sai lầm hoặc thất bại trước một nhiệm vụ nào đó, bị cấp trên phê bình, những kẻ tiểu nhân sẽ sẵn sàng bồi thêm một hai nhát dao chí mạng khiến “nạn nhân” càng lúc càng rơi vào “vòng nguy hiểm”.

8. Sẵn sàng giẫm lên vai người khác để leo lên trên
Bạn khổ nhọc làm động, làm việc, trong khi đó những kẻ tiểu nhân chỉ đứng một chỗ, đợi sẵn để hái quả ngọt.

Bạn trồng cây, kẻ tiểu nhân ngồi dưới hóng mát, lợi dụng con đường sẵn có mà bạn khổ sở vạch ra, đến lúc thành công, họ vội đứng lên nhận công và sẵn sàng gạt phắt bạn ra ngoài. Nếu thất bại, trách nhiệm tất nhiên sẽ thuộc về bạn.
Nếu trong số những người bạn chơi hoặc quen biết, có người sở hữu từ 2 trong số 8 đặc điểm nói trên, hãy đừng đắn đo mà tránh họ ra xa một chút kẻo có ngày rước họa vào thân.

Nguồn: https://career.eurowindow.biz/goc-chia-se/8-dac-trung-cua-ke-tieu-nhan-nguoi-so-huu-chi-2-dac-diem-trong-so-nay-cung-nen-tranh-xa-.35a52ca6/vi

Người xưa có câu “Nhiều bạn bè thì đường đi cũng dễ dàng hơn”, hay “Ở nhà nhờ cha mẹ, ra ngoài dựa bạn bè”. Nếu như nhìn từ khía cạnh này, thì việc kết bạn càng nhiều, thì sẽ càng giúp đỡ nhiều cho mình trong cuộc sống và tương lai.
Nhưng điều này không có nghĩa là ai cũng đáng để kết thành bạn bè, người không tốt thì không nên kết giao, tốt nhất là nên cách họ càng xa.

Người xưa đã nhắc nhở con cháu rằng: “Kẻ gian trá (tiểu nhân) có 3 biểu hiện”, nếu gặp phải nên tránh xa. Vậy 3 biểu hiện thường gặp ở kẻ tiểu nhân là gì?

1. Vong ân bội nghĩa
Bội tín bội nghĩa, vong ân phụ nghĩa đều là đặc trưng nổi bật của kẻ gian trá. Tin rằng ngay từ khi còn nhỏ, chúng ta đều luôn được bố mẹ, thầy cô dạy rằng nhất định phải trở thành người tốt, có lòng biết ơn.

Khi chúng ta gặp khó khăn hoạn nạn, nếu có người sẵn sàng không màng bản thân đưa tay giúp đỡ bạn, đến khi bạn thoát khỏi khó khăn, cuộc sống tốt đẹp hơn, thì nhất định không được quên đi ân nhân người đã giúp đỡ mình khi trước.

Song không phải ai trên đời này cũng là người tốt, còn có rất nhiều kẻ tiểu nhân ngang ngược, lòng dạ khó lường, họ coi việc người khác giúp đỡ mình là điều đương nhiên, không có nghĩa lý gì.

Họ luôn thoải mái tận hưởng những điều tốt đẹp của người khác, thậm chí đến khi người giúp đỡ mình gặp hoạn nạn, họ thậm chí còn kẻ giậu đổ bìm leo, hãm hại khiến ân nhân của mình càng khổ sở hơn. Hi vọng rằng mọi người đều sẽ tránh xa những kẻ như vậy, vì dù sao việc cho đi thì sẽ nhận lại âu cũng là chuyện thường tình ở đời. Những kẻ vô ơn là những kẻ đáng khinh nhất, không thể kết giao.

2. Đặt điều bịa chuyện, nói xấu hãm hại người khác
Tục ngữ có câu: “Người nào không nói sau lưng người khác, cũng sẽ không bị người khác nói sau lưng”. Trong cuộc sống hiện thực, rất nhiều người chán ghét những “kẻ ngồi lê đôi mách”, bởi vì những người này luôn lấy chuyện thị phi đúng sai của người khác ra để bàn tán, thậm chí còn nói không thành có, thêm dầu vào lửa, xúi bẩy gây chuyện.

Phân tích từ góc độ của tâm lý học, người thích bàn tán người khác chính là vì đố kỵ ghen ghét người khác sống tốt hơn mình. Lòng đố kỵ, ghen ghét là một thứ vô cùng đáng sợ, nó có thể khiến con người ta đánh mất nhân tính. Khi nhìn thấy ai đó sống tốt hơn mình, những kẻ này sẽ ở sau lưng người đó đặt điều thị phi, bịa đặt nói xấu, thậm chí nghiêm trọng hơn sẽ đi hủy hoại hạnh phúc của người khác. Trong tâm lý của những kẻ này, nếu người khác sống tốt hơn tôi, tôi sẽ không chấp nhận.

Trong cuộc sống ngoài kia, loại người này có rất nhiều va tránh xa họ mới là cách làm đúng đắn nhất.

3. Trước sau bất nhất
Người lương thiện, thường có tấm lòng đồng cảm, hơn thế khi thấy người khác gặp khó khăn thì trong lòng cũng không vui. Hoặc là nói, khi thấy người khác gặp khó khăn, họ sẽ luôn sẵn sàng đưa tay giúp đỡ, những người như vậy luôn nhận được sự yêu quý của mọi người.

Ngược lại, có những kẻ tiểu nhân “giả người tốt” bề ngoài thì lịch sự, tươi cười vui vẻ với mọi người, nhưng sau lưng lại thường làm những việc lén lút xấu xa.

Trong đa số các trường hợp, kẻ đạo đức giả thường rất khó bị nhận ra, bởi vì họ ngụy trang bản thân rất kỹ càng tỉ mỉ. Họ sẽ không bao giờ để những suy nghĩ nội tâm của mình lộ ra bên ngoài, trong môi trường làm việc, những kẻ như thế này trong xã hội rất nhiều.

Họ sẽ vì muốn thăng chức, tăng lương… mà không từ thủ đoạn, nhưng bề ngoài vẫn giả vờ hòa hợp thân thiện với đồng nghiệp.

Trên thực tế, những kẻ tiểu nhân, đạo đức giả như thế này có mặt trong khắp mọi nơi. Vì thế, nếu như bản thân chúng ta không giỏi nhìn nhận phán đoán người khác, rất có thể các bạn sẽ bị họ làm cho bị tổn thương. Một khi trở thành bạn bè hay đối thủ của họ, chắc chắn cuộc sống của bạn sẽ bị ảnh hưởng không nhiều thì ít. Hi vọng mọi người luôn đề cao cảnh giác.

Bản chất con người đều không thể hiện ra bên ngoài, người nào nên kết bạn, người nào không nên kết bạn luôn không phải là điều có thể dễ dàng nhận định, cũng không thể nhìn thấu trong chớp mắt.
Vì vậy, thông qua những tiếp xúc, giao lưu trong cuộc sống hàng ngày, hãy tinh tế quan sát biểu hiện của họ. Nếu nhận thấy đối phương là người có 3 đặc điểm trên, họ đích thị là những kẻ tiểu nhân, gặp phải nhớ tránh xa!

Theo Khánh An
Nguồn: https://cafef.vn/3-bieu-hien-thuong-gap-cua-ke-tieu-nhan-chi-can-quan-sat-se-khong-nhin-nham-nguoi-20210105163734998.chn

Gặp gỡ nhìn nhận được quý nhân đã khó, nhận diện được kẻ tiểu nhân lại càng khó hơn. Ngụy Hi – người được xưng là “Thanh sơ tam đại gia” (một trong ba nhà văn lớn hàng đầu của triều đại nhà Thanh) đã từng nói:

“Ta không hiểu biết như thế nào là người quân tử, nhưng nhìn vào khả năng “chịu nhận phần thiệt” trong mỗi sự việc của người ấy là sẽ biết. Ta không biết được như thế nào là kẻ tiểu nhân, nhưng nhìn vào việc “tranh giành phần lợi” của người ấy là sẽ biết”. Suy ngẫm kỹ càng, thật đúng nó là quanh co như vậy. Có thể chịu thiệt quả là không phải một việc dễ dàng. Cần phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng lớn mới có thể chịu thiệt thòi một cách cam tâm tình nguyện. Tiêu biểu là phải khoan dung độ lượng, chịu nhẫn nhục, co được giãn được (tức là biết ứng phó thích hợp với tình hình cụ thể) thì chính là một quân tử. Chẳng trách mà người xưa dùng tiêu chuẩn “có hay không có khả năng chịu thiệt” là yếu tố đầu tiên để nhận biết người quân tử và kẻ tiểu nhân.

Kẻ gây chuyện thị phi
Dựa vào gây chuyện thị phi, xúi dục, khiêu khích, ly gián mọi người là phương pháp đơn giản nhất, thuận tiện nhất để thực hiện mục đích cá nhân. Trong cuộc sống rất nhiều kẻ tiểu nhân, chỉ vì một chút lợi riêng, một chút ham muốn không đạt được, là ăn không nói có, từ bé xé ra to, biến trắng thành đen, biến tốt thành xấu, khiến những người thân cận phải xa lánh.

Kẻ đặt điều
Bọn tiểu nhân đều hiểu rằng: “Những điều không có thật, lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ biến thành chân lý”. Có lúc chỉ dựa vào sức mạnh của bản thân khó thực hiện được ham muốn cá nhân, họ sẽ đặt điều, tạo dư luận huyễn hoặc mọi người. Khi họ đặt điều thường thường giả vờ thẳng thắn, chính trực, khiến người nghe hiểu lầm thực hư, vì thế rất dễ bị lừa, dễ bị mê hoặc.

Cáo mượn oai hổ
Để thực hiện được ý đồ riêng, bọn tiểu nhân thường thường tranh thủ lãnh đạo, nhìn nét mặt lãnh đạo cấp trên để làm việc, chú ý nắm bắt từng ly, từng tí tâm lý của lãnh đạo cấp trên, cố được lòng lãnh đạo. Sau đó lấy lãnh đạo làm chỗ dựa, mượn “oai hổ” để áp chế người khác, lăng nhục, nói xấu người khác, hãm hại người khác.

Gió chiều nào che chiều ấy
Từ cổ chí kim, kẻ tiểu nhân đều không bao giờ có ý chí và nhân cách độc lập. Bọn họ chính cống là loại “rồng đổi màu”. Chỉ cần lãnh đạo thay đổi là chúng chuyển hướng ngay lập tức, nói cách khác ngay. Bọn họ giỏi quan sát và nắm bắt tâm tư của người khác, luôn luôn để ý đến xu thế phát triển của sự việc, luôn luôn sẵn sàng gió chiều nào che chiều ấy. “Tuyệt chiêu” của họ là mắt nhìn bốn phương, tai nghe tám hướng. Vì lợi ích cá nhân luôn ngả theo cái có lợi.

Kẻ qua cầu rút ván
Kẻ tiểu nhân không bao giờ có bạn bè chân chính. Họ kết bạn chỉ là tạm thời, là giả tạo. Đối với họ, lợi ích bản thân cao hơn tất cả. Chỉ cần nhu cầu, lợi ích bị đụng chạm, họ coi bạn là thù ngay lập tức. Thậm chí họ dám hy sinh cả ân nhân và người thân của mình, lấy đó để đổi lấy cái gọi là “hạnh phúc” cho mình. Trong đầu họ, chỉ có người nào có lợi cho mình, người đó mới được coi là bạn.

Kẻ mượn gió bẻ măng
Một trong những thủ đoạn của kẻ tiểu nhân từ xưa đến nay lợi dụng lúc nguy ngập của người khác để trục lợi. Đối với những kẻ tiểu nhân mà nói, nắm thời cơ vô quan trọng. Vì thời cơ chín muồi, chúng sẽ hành động dễ dàng. Hơn nữa chớp được thời cơ, chúng còn có thể biến hành động không chính đáng thành hành động chính đáng và hành động “quang minh chính đại”. Ngược lại, hành vi của bọn tiểu nhân rất bị người ra nhận ra. Nhưng chúng luôn biến hóa. Nếu thấy sức mạnh của đối phương thật quá lớn, thì chúng tạm thời che dấu bộ mặt thật của mình. Nếu thấy đối phương ở vào hoàn cảnh bất lợi chúng thừa cơ tấn công ngay.

Kẻ khiêu khích ly gián
Kẻ tiểu nhân từ xưa đến nay, khi làm việc phần lớn thích vụng trộm, úp úp, mở mở. Bọn chúng hiểu rõ rằng: “Đục nước béo cò “, thì luôn dùng những thủ đoạn đê tiện để ly gián người khác, khơi ra mâu thuẫn giữa mọi người. Chờ đến khi những người ly gián đấu tranh với nhau, chúng sẽ trục lợi. Thủ đoạn này hễ thực hiện được thì cái hại vô cùng lớn không thể lường hết.

Vì vậy, khi bạn quan hệ với mọi người, nhất định phải thấy rõ, hiểu rõ, không thể chỉ nghe một phía, tin một phía để tránh mắc câu bọn tiểu nhân, gây phiền toái cho công việc và cuộc sống.

Kẻ đạo đức giả
Đây là một trò rất dễ mê hoặc người khác, khiến người ta mắc lừa. Đó là thủ đoạn lúc đầu là lùi sau đó là tiến lùi vừa có thể tự vệ lại vừa có thể khiến người khác lơ là cảnh giác, hễ thời cơ chín muồi, kẻ tiều nhân sẽ bất chấp tất cả tiến hành phản kích, cho đến khi đạt được mục đích. Biểu hiện chủ yếu của thủ đoạn, của bọn tiểu nhân là:

– Một là, cố ý tỏ ra vẻ nhân từ, rộng lượng, thật thà, thành tâm, công bằng trước mặt người khác. Có khi để đạt được mục đích nào đó, không ngại chịu đau khổ tạm thời, tỏ ra tốt với người khác, để được hài lòng người. Hễ điều kiện đến là trở mặt tấn công.

– Hai là, trước tiên có đối xử tốt hoặc có chút ân huệ nào đó với đối phương, để được đối phương nếm chút ngọt ngào. Hễ đối phương sa vào tròng, liền trở mặt tấn công thít chặt và giết thịt.

– Ba là, dùng phương thức kết hợp vừa kéo vừa đánh. Trước tiên là lôi kéo, sau đó là sẽ đánh, hay nói cách khác là vừa đấm vừa xoa, xoa là để đánh cho họ đau hơn. Thủ đoạn này bộc lộ rõ sự giả dối, xảo trá của kẻ tiểu nhân.
Vậy đối với loại tiểu nhân này, tuyệt đối không được sơ suất, không được mềm lòng mà phải kiên quyết.

Nguồn: https://vov.vn/doi-song/8-bieu-hien-cua-ke-tieu-nhan-nen-tranh-xa-582991.vov

• Quân tử và tiểu nhân chỉ “cách” nhau 1 tiểu tiết, khác biệt nhỏ làm nên sự anh minh

• 5 điều cấm kỵ mà không ai nói ra, nhưng người EQ cao sẽ tự hiểu, nhờ đó tránh “bẫy tiểu nhân”

• Đường đời hanh thông phụ thuộc lớn vào việc có QUÝ NHÂN trợ giúp: Cách phân biệt quý nhân và tiểu nhân đeo mặt nạ!

Có một câu nói rằng: “Sự vô cự tế, tất hữu kỳ lý”.

Mọi thứ trên đời này đều có lý do của nó, bất kể chuyện lớn hay nhỏ. Có nhân thì phải có quả, có quả thì phải có nhân, vòng “nhân quả” quyết định tính tất yếu của vạn vật.

Ai đó làm xấu với bạn, có nghĩa bạn là mối đe dọa hoặc bạn có lợi ích mà họ muốn tìm kiếm. Nếu không, người khác sẽ không đặt tâm trí của họ vào bạn. Nếu ai đó chọn đối xử tốt với bạn, một là họ có một kế hoạch nào đó, trường hợp còn lại là họ đối xử chân thành với bạn.

Phải biết rằng trên đời này không có chuyện tốt xấu vô cớ, chỉ có người “có tật giật mình”. Tại sao người ta thường nói “lòng người phức tạp”? Đó là vì bạn không bao giờ biết đối phương sẽ làm gì tiếp theo.

Vậy chúng ta nên làm gì để không bị tổn thương? Đó là thấu hiểu để tránh những trò xấu của kẻ tiểu nhân. Tuy nhiên, làm sao có thể tránh được hung hiểm một cách đơn giản như vậy ?

Tiểu nhân bao giờ cũng có 4 sự chuẩn bị này trước khi hại người khác:

1. Cố ý tỏ ra nhã nhặn và xem bạn như anh chị em tốt
Bạn vốn là người không thích gây chuyện. Nhưng một ngày nào đó, một số kẻ có lòng dạ không tốt tìm đến bạn, nháy mắt với bạn, mỉm cười với bạn, và thậm chí tâng bốc bạn bằng những lời tốt đẹp. Bạn sẽ nghĩ gì vào lúc này?

Người chưa từng trải qua nguy hiểm trong xã hội ngoài kia sẽ cho rằng người khác đối xử tốt chứng tỏ họ thật lòng muốn kết bạn với mình, cho nên không cần quá đa nghi. Sau đó, những người này đã học được nhiều bài học nhớ đời.
Người từng trải sẽ lập tức cảnh giác, loại người này sao có thể tốt như vậy? Tất cả mọi thứ là giả tạo. Sau đó, họ tránh được hố sâu tổn thương.

Tại sao kết cục của hai kiểu người này lại khác nhau đến vậy? Đó là vì người sau hiểu được bản chất và trái tim con người. Đôi khi, những gì kẻ tiểu nhân “đánh cắp” không phải là tiền của bạn, mà là cả cuộc sống của bạn.

2. Cố tình kết thân, thu phục người thân cận xung quanh bạn
Con dao sắc nhất khi nào? Thật ra, dao cũng có lúc sắc lúc cùn, nhưng khi nó vô tình cắt trúng vào da thịt chúng ta, nó mới được công nhận là bén nhất.

Giống như người bên cạnh đột nhiên tính toán với bạn, không cách nào tránh, cuối cùng chỉ có thể thừa nhận mình xui xẻo.

Một số kẻ tiểu nhân đặc biệt “mưu mô”, biết rõ không làm được trực tiếp với bạn thì chỉ có thể đi đường vòng. Do đó, họ sẽ đến gần bạn, thậm chí muốn tìm hiểu về mối quan hệ của bạn.

Họ làm như vậy có 2 mục đích: Một, khiến bạn dẹp bỏ sự phòng bị; hai, lựa chọn thu phục những người thân thiết bên cạnh bạn, như vậy mới đạt được hiệu quả “chia rẽ”.

Đối với kẻ tiểu nhân, chúng ta không được nói quá thật lòng mà phải “nửa thật nửa giả”. Thật vậy, nếu bạn quá trung thực, cuối cùng bạn chỉ làm hại chính mình.

3. Tạo dư luận về bạn và sử dụng sức mạnh của sự cô lập
Ở nơi làm việc, có lẽ nhiều người đều gặp phải chuyện như vậy, đột nhiên trở thành chủ đề bàn tán với những lời đàm tiếu thất thiệt, nhưng bạn vẫn không biết mình đã làm gì.

Thông thường, khi có tin đồn về bạn, điều đó chứng tỏ rằng có ai đó đang nói xấu sau lưng bạn, hoặc cố gắng cô lập bạn.

Trong thời đại khó lường này, điều đáng sợ nhất là gì? Đó là vấn nạn bạo lực ngôn từ. Bởi vì những lời hoa mỹ của người khác là đủ để đặt bạn vào thế hung hiểm khó lường.

Ai đó đã từng nói, thứ tai hại nhất trên đời này không phải là nắm đấm, mà là dư luận của một nhóm người.

Khi một nhóm người thảo luận về những điều đúng và sai của bạn, những người khác sẽ nghĩ rằng bạn có vấn đề. Cuối cùng, bạn sẽ bị bỏ lại một mình và bất lực. Đây là mục tiêu cuối cùng của kẻ tiểu nhân.

4. Cố tình gieo rắc bất hòa, chia rẽ các mối quan hệ của bạn
Trên thực tế, đây là một xã hội “quan hệ phức tạp”. Một người có thể mang nhiều bộ mặt khác nhau và có thể tạo ra hàng trăm mối quan hệ. Cuối cùng, những sợi dây liên kết này sẽ tạo thành một mạng lưới quan hệ khổng lồ.

Nếu muốn hủy hoại một người, cách tốt nhất là bắt đầu từ “mạng lưới quan hệ” và để mối quan hệ giữa các cá nhân của họ nảy sinh vấn đề, từ đó dồn họ vào tình thế “nội bất xuất, ngoại bất nhập”.

Đừng suy nghĩ quá dễ dàng về mọi hành động của kẻ tiểu nhân. Vì mọi việc họ làm đều có mục đích và sự chuẩn bị.

Trên thực tế, không phải thế giới này có nhiều người gắn mác tiểu nhân, mà là mọi người đều đang theo đuổi lợi ích của mình. “Người chết vì tiền, chim chết vì miếng ăn”. Hung hiểm sẽ không biến mất trong cuộc sống và tiểu nhân vẫn luôn tồn tại.

Lòng người phức tạp, mặc dù tỏ tường những điều trên nhưng chúng ta cũng không thể hoàn toàn tránh được việc người khác làm điều xấu với mình. Quan trọng là chúng ta cần giữ vững sơ tâm, duy trì bản thiện, sống có tâm với đời. Đây cũng là cách giúp chúng ta tìm về vận may, tránh được hung hiểm.

Nguồn: Zhihu

Nếu xung quanh bạn có những người không quân tử, hãy tỉnh táo và áp dụng các biện pháp được gợi ý dưới đây.

Người có 4 biểu hiện sau đây thường là kẻ tiểu nhân, lòng dạ nhỏ nhen, thiển cận: Tránh xa ngay khi có thể! / Nhà chiêm tinh học Mỹ: Từ đầu tháng 5 âm lịch, 4 cung hoàng đạo này chú ý kẻo mất tiền, gặp tiểu nhân, đi đường xa thì cần cẩn trọng

Phân biệt người quân tử với kẻ tiểu nhân

1. Quân tử kết giao từ tâm, tiểu nhân kết giao vì lợi ích
Người quân tử không bao giờ muốn kết bè kéo cánh nhưng ngược lại, kẻ tiểu nhân luôn có một đám bạn bè “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”.

Người quân tử kết bạn xuất phát từ tấm lòng, sự trân trọng dành cho nhau còn kẻ tiểu nhân kết bạn vì một hay nhiều cái lợi nào đó. Vì thế nên với người quân tử, bạn bè quý ở chữ tinh (tinh túy), còn với tiểu nhân, bạn bè quý ở chữ đa (nhiều).

Và cũng vì thế nên kẻ tiểu nhân không bao giờ có bạn bè chân chính. Đối với họ, lợi ích bản thân cao hơn tất cả. Chỉ cần nhu cầu, lợi ích bị đụng chạm, họ sẽ coi bạn là thù.

Nếu như xung quanh một ai đó chỉ toàn là bạn rượu thịt, chẳng nghi ngờ gì nữa, đó khó có thể là một người quân tử.

2. Người quân tử thể hiện lòng biết ơn bằng hành động, kẻ tiểu nhân chỉ biết nói lời chót lưỡi đầu môi

Những người có nội tâm nhân đức luôn sẵn sàng dùng hành động để biểu thị lòng biết ơn, sự cảm ơn nhưng kẻ tiểu nhân thì chỉ giỏi “võ mồm”.

Nhận được ân huệ từ người khác, người quân tử sẽ cảm kích từ trong tâm và họ sẽ dùng hành động thực tế để báo đáp. Nhưng kẻ tiểu nhân khi nhận được ân huệ của người khác thì cảm thấy mình “hời” và nghĩ cách làm sao để có thể chiếm nhiều hơn nữa mà hoàn toàn chẳng nghĩ đến việc trả ơn.

3. Người quân tử suy nghĩ cho đám đông, kẻ tiểu nhân chỉ nghĩ cho bản thân
Người quân tử biết nghĩ cho mọi người, khiến mọi người vui vẻ thoải mái trong khi kẻ tiểu nhân chỉ biết lấy lòng cấp trên để mưu lợi cá nhân.
Chọn cách suy nghĩ cho đám đông, đồng thời vẫn không quên nghĩ cho cấp trên, đó là biểu hiện của người có nhân phẩm tốt. Họ sẵn sàng làm mọi việc quan tâm, giúp đỡ những người khác trong khi những người có nhân phẩm tệ chỉ chăm chăm lo cho lợi ích của bản thân.

4. Người quân tử không thể chịu được sự xúc phạm về mặt tinh thần, kẻ tiểu nhân không thể chịu được sự thiệt thòi về mặt vật chất
Với kẻ tiểu nhân, họ có thể bán rẻ nguyên tắc và trở thành người sống chẳng có một chút lòng tự tôn nào nhưng người quân tử thì không bao giờ làm vậy.

Một người quá xem trọng giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần, việc bán đứng nhân cách hay nguyên tắc để đổi lấy lợi ích là điều hoàn toàn có thể xảy ra, và đó chính là một kẻ tiểu nhân thực thụ.

Ngoài ra, những kẻ tiểu nhân còn có thêm các biểu hiện khác như:

Thích nịnh nọt người khác, ngồi chỗ nọ nói xấu chỗ kia, gió chiều nào xoay chiều đó, có sở trường là đổ vấy trách nhiệm cho người khác, bịa chuyện đặt điều và rất giỏi trong việc tranh thủ lúc người khác gặp nguy, bồi thêm cho họ nhát dao chí mạng, giẫm lên vai họ để đạt được mục đích của mình…

Đề phòng tiểu nhân bằng những cách nào ?

1. Không nhân nghĩa với kẻ tiểu nhân
Với kẻ tiểu nhân, có lẽ chúng ta không nên quá lương thiện. Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, với người quân tử, ta đối đãi theo cách dành cho người quân tử, với kẻ tiểu nhân, ta đối đãi theo cách dành cho kẻ tiểu nhân, miễn sao trong lòng không hối hận là được.

2. Không nhu mì mềm yếu trước kẻ tiểu nhân
Tiểu nhân sở dĩ là tiểu nhân bởi họ thường có xu hướng bắt nạt những người yếu đuối và sợ những người cứng rắn.

Gặp phải người cứng rắn hơn, họ thường thu người lại. Vì thế, với kẻ tiểu nhân, chúng ta không nên tỏ ra sợ hãi mà cần cứng rắn, mạnh mẽ, để họ biết bạn không phải là người dễ bắt nạt.

Kẻ tiểu nhân không giống với kẻ ác. Kẻ ác có tâm địa hiểm độc nhưng kẻ tiểu nhân thì khác, họ sẽ trở nên thật thà và ít nguy hiểm hơn nếu gặp người mạnh hơn mình.

3. Giữ khoảng cách, giữ mình trước kẻ tiểu nhân
Sống chung một môi trường với kẻ tiểu nhân, nên không thể tránh được sự va chạm thì điều nên làm nhất chính là giữ mình, giấu mình. Đừng dễ dàng bộc lộ quan điểm của bản thân, cũng không nên để họ biết mọi điều về mình, không nhận xét ai xung quanh trước mặt họ.

Bởi lẽ những lời nói vô tư của bạn rất có thể sẽ trở thành vũ khí mà những kẻ tiểu nhân sẽ sử dụng để chống lại chính bạn.

4. Không tranh luận với kẻ tiểu nhân
Tiểu nhân không nói chuyện đạo lý, nói chuyện nguyên tắc với họ chẳng có ý nghĩa gì. Vì thế trước mặt tiểu nhân, không cần phải giảng giải đạo lý, điều đó chỉ khiến họ thêm hận bạn chứ chẳng ích gì.

Điều nên làm nhất là không nên lãng phí công sức tranh luận với họ, việc ai nấy làm, đường ai nấy đi, đó là lựa chọn tối ưu.

Nguồn: https://doanhnghiepvn.vn/doi-song/gap-ke-tieu-nhan-hay-ap-dung-ngay-4-cach-nay-de-de-phong-hau-hoa/20230513051301651

– Sưu tập –




TỰ ÁI – TỰ TRỌNG – TỰ DO – TỰ TẠI

TỰ ÁI
(01)

Tự ái là gì? Tự ái tiếng Anh là gì? Dấu hiệu của người có tính tự ái? Cách khắc phục để vượt qua lòng tự ái?

Tự ái là một tính cách không tốt tồn tại trong cảm xúc, lý trí của con người. Thể hiện với các dấu hiệu đề cao bản thân, thường cho rằng mình không được coi trọng và bị coi thường. Tự ái khiến người đó không cởi mở, gần gũi hay tương tác với mọi người xung quanh. Khi quá để tâm vào lời nói hay hành động của người khác, họ lại càng suy nghĩ theo hướng tiêu cực. Cần nhận biết các dấu hiệu của tự ái, khắc phục tính tự ái để hoàn thiện bản thân. Cũng như mang đến nhiều cơ hội hòa nhập và phát triển trong xã hội.

Mục lục bài viết
• 1. Tự ái là gì?
• 2. Tự ái tiếng Anh là gì?
• 3. Dấu hiệu của người có tính tự ái:
• 4. Cách khắc phục để vượt qua lòng tự ái?

1. Tự ái là gì?
Tự ái là từ gốc Hán Việt, trong đó: Tự là bản thân, ái là yêu.
Tự ái là tự yêu bản thân mình, quá nghĩ đến bản thân, đề cao cái tôi quá mức. Họ luôn nghĩ đến các điểm đã làm tốt của bản thân, từ đó luôn nghĩ mọi người đang soi sét, không có thiện ý với mình. Từ đó mà thường sinh ra bực tức, cáu gắt, giận dỗi khi cho rằng mình bị đánh giá thấp hoặc bị coi thường. Điều này khiến họ trở lên xa cách với mọi người xung quanh, dần hình thành sự đố kỵ và các tiêu cực khác.

Tự ái trước nhất là thái độ mặc cảm và xấu hổ về bản thân. Tự cảm thấy xa cách và không tin tưởng vào sự chân thành hay suy nghĩ của mọi người xung quanh về mình. Khi thấy hoặc cảm nhận chủ quan rằng mình kém thua người khác về phương diện này hay phương diện khác. Như vậy, họ lại càng đưa ra các lý do khách quan để giải thích, biện hộ cho sự kém cỏi của mình. Người tự ái cũng thường không có ý chí phấn đấu hay niềm tin nỗ lực mang đến thành công.

Người tự ái dễ sinh lòng hờn dỗi, ganh ghét, đố kị, mặc cảm với người khác. Đặc biệt là người có phần nổi trội hơn mình. Sự tự ái hình thành và chế ngự các suy nghĩ khách quan, các tự tin của con người.

2. Tự ái tiếng Anh là gì?
Tự ái tiếng Anh là Narcissism.

3. Dấu hiệu của người có tính tự ái:
Người tự ái thường dể tổn thương, họ xa lánh mọi người vì cảm giác không nhận được sự chân thành. Họ luôn muốn thổi phồng tầm quan trọng của chính mình và quan tâm hơn cả đến cảm xúc của bản thân. Người tự ái ít quan tâm đến cảm xúc của người khác, và thường có lòng tự trọng rất cao. Sự tự tin của về bản thân thường không quá lớn so với sự tự ti khi không thể hòa nhập. Do vậy mà người hay tự ái vừa đáng trách cũng rất đáng thương.

Các dấu hiệu của người tự ái có thể nhận diện như sau:

Luôn thích làm trung tâm của sự chú ý:
Người tự ái thường thích làm trung tâm của sự chú ý, họ yêu bản thân. Khi được quan tâm, họ cho rằng mình quan trọng đối với mọi người xung quanh. Họ nhanh chóng cảm thấy hụt hẫng nếu sự quan tâm đó được chuyển hướng sang câu chuyện, chủ đề về con người khác. Các cảm xúc này đến từ trong cuộc sống đời thường và cả khi làm việc. Mang đến sự tự ti, xa cách với tất cả mọi người.

Họ thường nhắc nhở về các thành tích của họ, muốn các việc mình làm phải là tốt nhất. Giải thích tại sao ý tưởng và đề xuất của họ xứng đáng được xem xét đặc biệt. Cũng như cảm thấy hụt hẫng, bất công nếu không được đánh giá cao, không được đối xử đặc biệt. Họ làm cho mình trở nên “quyền lực” hơn và có ảnh hưởng nhất có thể. Cũng như mong muốn nhận được sự thuận lợi, hưởng ứng tốt nhất từ mọi người xung quanh. Các suy nghĩ này thể hiện sự yêu bản thân quá mức.

Thường bị cảm xúc lấn át:
Người tự ái luôn đặt cái tôi của bản thân lên đầu. Kể cả trong công việc, sinh hoạt, giao tiếp hay trong đời sống tình cảm. Nếu ý nghĩa của phê bình để nhận ra khuyết điểm, để sửa sai và có kinh nghiệm phát triển bản thân. Thì với người tự ái, họ xem là mình đang bị đối xử bất công, đang bị trù dập. Các suy nghĩ bốc đồng đó cũng là cơ sở để đưa ra những quyết định sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng.

Trong đấu tranh giữa lý trí và cảm xúc, các cảm xúc của người tự ái thường lấn át. Họ luôn cố chấp, bao biện cho các lỗi sai của mình. Đôi khi họ không thèm tranh luận vì tính bảo thủ trong suy nghĩ. Họ không chịu nhìn nhận quan điểm của người khác, không lắng nghe, tiếp thu các ý kiến mang tính chất xây dựng. Vì với họ, đó là sự lên mặt, sự dạy đời và điều khiển cuộc sống đáng ra thuộc về họ.

Vì thế mà dễ đưa cuộc tranh cãi vào bế tắc, làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ xung quanh. Người tự ái cũng khó có được các mối quan hệ tốt đẹp, thân thiết với mọi người.

Kỹ năng làm việc nhóm hạn chế:
Người hay tự ái thường có cái tôi rất lớn, luôn giữ ý kiến của bản thân mình. Trong nhiều trường hợp, họ không đưa ra quan điểm vì nghĩ rằng rồi cũng bị bác bỏ. Họ mang đến các suy nghĩ và đánh giá khác với số đông, và thường không mang lại hiệu quả tương tác trong nhóm.

Thậm chí khi được người khác góp ý bổ sung ý kiến sẽ không hài lòng, nổi lên tính tự ái. Họ chấp nhận dung túng cho các suy nghĩ, quan điểm hẹp hòi, gò bó của mình. Từ đó có thể gây tranh cãi không đáng có làm ảnh hưởng rất lớn đến công việc chung. Tính chất hoạt động tập thể cũng không mang lại hiệu quả cao nhất.
Không chịu rút kinh nghiệm, chậm tiếp thu cái mới:

Những người hay tự ái thường khó nhận ra cái sai của bản thân. Thường kém trong phán đoán, cân nhắc để điều chỉnh các kế hoạch trong mục đích thực hiện. Không chịu rút ra kinh nghiệm, bài học từ những người đi trước. Sự bảo thủ khiến họ luôn có những suy nghĩ theo lối mòn, theo quan điểm cá nhân. Từ đó mà không hòa mình vào tập thể, vào cái chung. Sự tự ái cũng đến từ suy nghĩ mình không được đánh giá cao trong tập thể, nên họ lựa chọn không tham gia vào tập thể.

Sau những lần thất bại, vấp ngã, sai lầm, họ không chịu thay đổi. Các đánh giá để điều chỉnh bản thân không được thực hiện. Bởi họ sợ thay đổi người khác sẽ nghĩ rằng mình kém cỏi. Họ cố gắng chứng minh mình có khả năng, mình làm đúng ngày từ các chiến lược đầu tiên. Trong khi có thể đã nhận thức ra sự sai lầm của mình. Sự ngại thay đổi, sợ bị mọi người đánh giá, sợ không được coi trọng lấn át đi sự quyết đoán. Chính điều này càng làm họ khó đi đến thành công.

Sống trong đau khổ, dằn vặt:
Cuộc sống của họ thường có các suy nghĩ cảm xúc tiêu cực, thường cảm nhận được sự tồi tệ từ mọi khía cạnh. Người có tính dễ tự ái sẽ dễ bị đau khổ, bất an, khó có được những giây phút yên bình, vui vẻ. Bởi họ luôn tự nhìn nhận bản thân trong mắt người khác bằng sự tiêu cực. Họ luôn để bụng, dằn vặt, đau khổ mà không có cách giải thoát.

4. Cách khắc phục để vượt qua lòng tự ái?
Sẵn sàng tiếp thu các nhận xét, đóng góp của người khác:
Người tự ái phải có ý thức thay đổi bản thân, bước ra khỏi ranh giới mặc cảm hay suy nghĩ tiêu cực. Sẵn tâm lý thoải mái để đón nhận những tư tưởng mới lạ, tham gia cải thiện các mối quan hệ. Cần lắng nghe các góp ý của người khác, nhìn nhận lại bản thân để có sự thay đổi tích cực hơn.

Áp dụng hai nguyên tắc sau đây sẽ giúp bạn khắc phục tính tự ái một cách dễ dàng và hiệu quả:

– Lắng nghe các góp ý đúng để thay đổi:
Phải thấy được sự chân thành, góp ý thay đổi, phát triển của người khác. Không tạo ra các vỏ bọc cho bản thân để có thể học hỏi và thay đổi tốt hơn. Hãy lắng nghe cho dù đó là những lời khuyên nhỏ nhặt. Họ có thể là khách hàng góp ý đối với sản phẩm, với chất lượng dịch vụ của bạn. Họ có thể là người thân cho bạn những lời khuyên trong cuộc sống.

Đừng sợ nghe những lời chỉ trích, đừng ngại thay đổi. Phải cố gắng hướng đến các tích cực, chất lượng trong cuộc sống. Thay vì không dám vượt qua các giới hạn của bản thân để dậm chân tại chỗ.

– Tập chung hoàn thành các mục tiêu, chứng minh bản thân:
Nếu cảm thấy mình đang bị mọi người đánh giá thấp, ban phải kiên trì học hỏi, chứng minh thành công của mình. Cho họ thấy những gì họ nghĩ về bạn hoàn toàn sai lầm. Thay vì trở thành mặc cảm, tự ti, nhu nhược và bắt đầu so sánh mình với người khác. Hay khoanh vùng mình vào một góc, thu hẹp các mối quan hệ và các cơ hội trước mắt.

Điều tốt nhất bạn nên làm vạch ra các định hướng, mục tiêu và quyết tâm. Tập trung vào từng mục tiêu ngắn hạn và dài hạn mà mình đã đặt ra, từng bước hoàn thành những mục tiêu đó. Bạn xứng đáng và phù hợp để thực hiện các thay đổi. Cũng như có năng lực để vượt qua các rào cản của bản thân.

Hãy tâm niệm rằng mọi điều bạn làm là vì chính bạn, bởi bản thân bạn xứng đáng với điều tốt nhất. Cũng như chứng minh cho mọi người thấy các khả năng, những việc bạn có thể làm.

Chế ngự lòng tự ái:
Phải thực hiện bằng sự quyết tâm, nỗ lực thay đổi để tìm kiếm các hiệu quả.

– Thấy điều hay thì học, thấy điều sai thì sửa, cái gì không tốt thì bỏ.
– Không cố chấp, không quan trọng hóa vấn đề, không kỳ vọng quá mức vào bản thân.
– Không chán nản, thất vọng, làm việc gì cũng phải suy nghĩ trước sau.
– Không đòi hỏi toàn hảo, không dễ dãi với mình, không khắt khe với người khác.

Đó không chỉ là bí quyết chế ngự lòng tự ái. Mà còn là phương pháp giúp bạn hài hòa sự vận động giữa cơ thể và tâm trí. Giúp bạn có được suy nghĩ tích cực, khám phá các giới hạn của bản thân. Tạo tiền đề cho một cuộc sống hạnh phúc, thanh thản. Các suy nghĩa cần được thực hiện trong hành động, với quyết tâm trong công việc. Thay vì cứ ủ rũ và bi quan trong năng lực hay cái nhìn của mọi người về mình.

Thạc sỹ Đinh Thùy Dung

TỰ ÁI
(02)

Trong cuộc sống khi chúng ta mắc phải những sai lầm và nhận được những ý kiến đóng góp của những người khác, đối với những người tích cực họ sẽ coi đó như là những bài học để hoàn thiện bản thân nhưng đối với những người tiêu cực họ có thái độ không lắng nghe những ý kiến từ người khác đề cao cái tôi. Tính cách đó được gọi chung là tự ái.

1. Tự ái là gì?
Tự” có nghĩa là bản thân mình, “ái” có nghĩa hán việt là yêu. Tự ái là tự yêu bản thân mình. Đây là một tính từ mang nghĩa chỉ sự đề cao cái tôi của bản thân mà sinh ra cáu gắt, giận dỗi, bực tức mỗi khi bản thân mình bị coi thường hoặc bị người khác đánh giá thấp.

Tự ái cũng có thể nói tới một hành động hờn dỗi, sự phản kháng tiêu cực của một người nào đó khi họ bị người khác không công nhận thực lực. Ví dụ tự ái khi bạn cảm thấy mặc cảm với bản thân cho rằng mình luôn thua kém người khác. Hoặc đây cũng là một từ chỉ sự đề cao bản thân mà sinh ra hờn dỗi, tức giận khi ai đó hạ thấp bạn. Những người có tính cách tự ái dễ sinh lòng ganh ghét, đố kỵ, hờn dỗi và mặc cảm với người khác, nhất là đối với những người khác có thành tích cao hơn mình.

Theo nghiên cứu khoa học, tự ái là một hội chứng của việc rối loạn nhân cách. Tự ái dùng để chỉ những người luôn quan tâm, để ý đến sự thành công của bản thân và đề cao tầm quan trọng của mình đối với xã hội. Trong các mối quan hệ họ thường khó kết nối với những người khác do tính cách hay giận dỗi, e ngại tiếp xúc với người khác. Họ khao khát nhận được sự ngưỡng mộ và để ý từ những người khác.

2. Những biểu hiện của người có tính tự ái
– Coi mình là tâm điểm

Người có tính tự ái thường muốn được là tâm điểm của sự chú ý đối với mọi người trong cuộc sống cũng như trong công việc. Người có tính tự ái luôn muốn mọi người phải chú ý và nhớ tới những hành động, thành tích của mình và muốn những suy nghĩ và ý tưởng của họ phải được coi trọng và xem xét, đề cao. Người tự ái thường hay có những suy nghĩ tiêu cực, tự làm tổn thương đến bản thân mình và luôn suy nghĩ không có ai để ý và quan tâm mình. Luôn có suy nghĩ mình không quan trọng trong xã hội.

– Bị cảm xúc chi phối
Người có tính tự ái sẽ bị cảm xúc chi phối mạnh bởi vì họ luôn quan trọng và đặt cái tôi lên hàng đầu. Trong cuộc sống khi nhận được những lời khuyên, những lời góp ý của những người xung quanh người có tính tự ái sẽ cho rằng những lời nói đó của họ đang hạ thấp bản thân mình và coi thường mình. Điều đó sẽ dẫn đến sự mặc cảm, tự ti, bốc đồng và thậm chí họ sẽ đưa ra những quyết định sai lầm dẫn tới những hậu quả rất nghiêm trọng. Trong các cuộc tranh luận hoặc nói chuyện người có tính tự ái sẽ không bao giờ thừa nhận cái sai về mình mà luôn cố chấp cho rằng bản thân mình đúng. Những người này đề cao quan điểm của bản thân mà không chịu nhìn nhận quan điểm của người khác đưa ra nên đôi khi những quan điểm của người có tính tự ái mang tính tiêu cực sẽ ảnh hưởng đến cuộc nói chuyện và mối quan hệ với tất cả mọi người, đặc biệt những câu nói đùa của người khác cũng khiến người tự ái suy nghĩ để ý và làm quá vấn đề khiến cho mối quan hệ trở nên xấu.

– Kỹ năng làm việc nhóm kém
Với tính cách đề cao cái tôi của bản thân, do vậy những người có tính tự ái thường mang sự bảo thủ và cố chấp. Họ không có xu hướng thích lắng nghe những ý kiến đóng góp từ người khác, nếu nghe những lời đóng góp của người khác họ sẽ cảm thấy không hài lòng không đồng ý với những ý kiến quan điểm đó dẫn tới hiệu quả công việc không cao hoặc có những người không tự tin vào bản thân mình nên khi nào việc nhóm họ cũng không tham gia đóng góp ý kiến xây dựng cho nhóm. Có rất nhiều người khó chịu khi phải làm việc với người có tính cách bảo thủ, cố chấp không có tinh thần xây dựng nhóm mà chỉ tập trung đề cao ý kiến cá nhân khi nhận sự đánh giá từ người khác thì giận dỗi.

– Không chịu tiếp thu ý kiến của người khác
Tính cách điển hình của người có tính tự ái đó là không chịu nhận lỗi sai và không lắng nghe tiếp thu ý kiến của người khác. Đối với những người tích cực khi được người khác góp ý hoặc chê trách họ vui vẻ nhận lỗi và thẳng thắn rút kinh nghiệm sau những sai lầm đó, họ coi đó là những kinh nghiệm quý báu. Nhưng người tự ái họ luôn có một suy nghĩ là bản thân họ luôn đúng và không chịu thay đổi tính cách và những hạn chế của mình. Tự ái là một rào cản lớn để tới thành công của mỗi người.

– Suy nghĩ tiêu cực quá nhiều
Người có tính tự ái sẽ suy nghĩ quá nhiều. Đôi khi chỉ là những câu nói trêu đùa của những người xung quanh cũng khiến họ phải suy nghĩ bất an. Người có tính tự ái khó có được những giây phút sống bình yên, vui vẻ bởi lúc nào trong đầu họ cũng có những suy nghĩ tiêu cực, những trạng thái bất an. Người có tính tự ái luôn tự dằn vặt và trách móc bản thân mình và không có cách nào giải thoát khỏi những suy nghĩ tiêu cực ấy. Những người có tính tự ái trước những tổn thương sẽ không tìm cách quên đi mà càng ngày càng lún sâu vào tổn thương đó.

3. Nguyên nhân dẫn tới tự ái
Tự ái được hình thành trong quá trình trưởng thành của chúng ta bắt đầu xuất hiện ở tuổi thiếu niên, khi đó suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta đang trong quá trình phát triển với tâm lý muốn khẳng định mình và có sự so sánh mình với bạn bè đồng trang lứa.

Môi trường sống cũng là một nguyên nhân dẫn tới sự tự ái, sự bỏ mặc của bố mẹ, gia đình và người thân khi con cái đến tuổi trưởng thành không thấu hiểu và bên cạnh con mỗi khi con cần, để bản thân con trải qua những suy nghĩ và cảm giác tiêu cực sẽ dẫn đến tự ái và không tự tin vào bản thân.

4. Bí quyết để vượt qua sự tự ái
– Thẳng thắn đối mặt với những phê bình của người khác

Muốn vượt qua sự tự ái, chúng ta phải tạo cho mình sự thoải mái và gạt bỏ những suy nghĩ tiêu cực, đón nhận những tư tưởng mới. Chúng ta cần dũng cảm đối mặt với những góp ý của những người xung quanh, cần tiếp thu và sửa đổi để trở thành một phiên bản tốt hơn. Nếu những lời khuyên đó của họ là sai bạn cần cố gắng thực hiện tốt công việc để chứng minh rằng bạn đang đúng. Tập trung vào mục tiêu mà bản thân đã đề ra thay vì cứ mãi nhìn thành công trên cao của người khác.

– Rèn luyện tính khiêm tốn
Chúng ta cần hạ thấp cái tôi xuống để nhìn thấy những ưu điểm và điểm mạnh của người khác. Đồng thời tiếp thu những ý kiến đóng góp của họ, không quá cố chấp trong mọi vấn đề và không kỳ vọng quá mức vào bản thân. Dám đối mặt với những sai lầm và sửa chữa nó trân trọng những ý kiến đóng góp của người khác. Không quá kiêu căng, thể hiện quá đà.

– Luôn có suy nghĩ tích cực
Đứng trước một vấn đề, chúng ta cần có những suy nghĩ tích cực để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi sự tự ái sẽ làm chúng ta mất tự tin vào khả năng của mình khiến ta suy nghĩ không có khả năng làm được việc đó. Vì vậy một thái độ sống tích cực là điều quan trọng để chúng ta có thể loại bỏ sự tự ái. Thái độ sống tích cực là một liều thuốc tinh thần giúp chúng ta có thể xoa dịu về tinh thần để hướng tới một cuộc sống hạnh phúc yên bình vui vẻ cùng mọi người.
Trên đây là một số chia sẻ của luật Minh Khuê về tính tự ái. Hy vọng đó là những tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn. Mong rằng tài liệu này có thể giúp bạn nhận ra được những tính cách của bản thân.

Nguồn: https://luatminhkhue.vn/tu-ai-la-gi.aspx

Lòng Tự Trọng

Lòng tự trọng thể hiện giá trị của bản thân con người, từ đó giúp họ được tôn trọng và đánh giá cao. Lòng tự trọng được chính bản thân con người nuôi dưỡng, hình thành và thể hiện. Qua đó mang đến kết quả được phản ánh ra bên ngoài, để mọi người nhìn nhận và tôn trọng. Do đó, tự trọng mang đến ý nghĩa cũng như vai trò lớn trong nhận thức và cuộc sống của con người. Đây là đức tính tốt, có ý nghĩa thúc đẩy con người phát triển tích cực. Con người cần xây dựng và nuôi dưỡng để lòng tự trọng được thể hiện đúng lúc, đúng chỗ, mang đến giá trị bản thân.

Mục lục bài viết

1. Lòng tự trọng là gì? 

Lòng tự trọng là sự coi trọng danh dự, phẩm chất, tư cách của chính bản thân. Tự bản thân thấy được giá trị trong con người mình. Qua đó coi trọng các giá trị đó, giúp con người được người khác tôn trọng, mang đến nhiều giá trị tích cực cho người khác. Lòng tự trọng là một đức tính cần phải có trong mỗi người. Mất tự trọng bạn sẽ mất đi rất nhiều thứ, mất luôn cả giá trị chính mình. Từ đó không thể hiện được chất lượng trong năng lực, quyết định cũng như tiếng nói đối với người khác.

Người có lòng tự trọng là luôn biết trị giá của chính mình mình. Sự tự trọng cho ta thấy các giá trị xung quanh bên cạnh lý tưởng nhận thức đúng đắn. Biết mình là ai, mình có những gì, tự hào về điều gì và không để mọi người xâm phạm đến những điều ấy. Mang đến giá trị thể hiện cho bản thân cũng như được mọi người xung quanh đánh giá cao.

Người có lòng tự trọng sẽ biết bảo vệ lòng tự trọng của mình. Họ bảo vệ cho các quyền và lợi ích không để người khác xâm phạm. Lòng tự trọng sẽ không là những thứ đi ngược với lương tâm con người. Bản thân con người cần mang những nhận thức chuẩn mực và đúng đắn để thể hiện trong cuộc sống.

Người có lòng tự trọng:

Người có lòng tự trọng là những người hiểu giá trị của mình, biết mình là ai, mình có những gì,… Khi đó, họ xác định được giá trị bản thân, điều được và không được làm. Và họ luôn cố gắng bảo vệ lòng tự trọng đó của mình, không cho bất kỳ ai xâm phạm. Cũng như thể hiện các giá trị của bản thân họ để người khác tôn trọng.

Lòng tự trọng được chia thành 2 cấp bậc:

Đó là: lòng tự trọng cao và lòng tự trọng thấp. Qua đó mang đến cư xử và mức độ Đó là: lòng tự trọng cao và lòng tự trọng thấp. Qua đó mang đến cư xử và mức độ điều chỉnh hành vi, chuẩn mực của họ.

+ Những người có lòng tự trọng thấp luôn nhìn nhận vấn đề theo hướng tiêu cực, phiến diện. Họ luôn nghĩ những thứ đang xảy ra không quan trọng đối với họ và có cách cư xử, suy nghĩ làm mất đi giá trị của bản thân.

+ Ngược lại với những người có lòng tự trọng, họ không bao giờ coi rẻ giá trị bản thân vì bất cứ điều gì. Họ luôn nhìn nhận, quyết định cũng như chủ động bảo vệ các lợi ích tốt nhất. Mọi hành động và suy nghĩ của họ đều cho thấy họ là người liêm khiết, chính trực, dám làm dám nhận.

2. Lòng tự trọng tiếng Anh là Self-esteem.

3. Vai trò và ý nghĩa của lòng tự trọng đối với cuộc sống con người:

Không chỉ là một phẩm chất cao quý, lòng tự trọng còn mang đến nhiều ý nghĩa tích cực cho con người. Lòng tự trọng là giá trị của mỗi con người, cũng như thể hiện trong giá trị cuộc sống của họ. Phản ánh với các ý nghĩa nổi bật như:

– Giúp chúng ta biết cách tôn trọng bản thân cũng như tôn trọng người khác. Nhìn nhận các quyền lợi, tiếp cận hiệu quả trong nhu cầu và giới hạn của quyền lợi đó.

– Tạo động lực để chúng ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống. Mang đến nhìn nhận tích cực, để hoàn thành nhiệm vụ được giao trong mục tiêu và động thái sẵn sàng. Tự trọng là động lực để chúng ta mạnh mẽ bước tiến và gặt hái nhiều thành công. Qua đó, con người tìm kiếm được các lý tưởng và có thái độ sống tích cực hơn.

– Nâng cao phẩm giá và sự uy tín cho bản thân mỗi con người. Từ đó cũng đánh giá và nhìn nhận trực quan hơn về con người trong xã hội.

– Được nhiều người yêu quý, nể phục và tôn trọng. Có được tiếng nói, giá trị cống hiến cũng như bài học cho người khác. Trở thành các tấm gương về nhận thức và thái độ sống tích cực đối với cộng đồng.

Các vai trò đối với chính bản thân con người:

Lòng tự trọng giúp con người nhìn nhận vấn đề theo hướng tích cực. Sự tự trọng giúp họ xác định được giới hạn của công việc, của mối quan hệ. Cũng như không cho phép các khó khăn, trở ngại tác động đến sự cố gắng, sáng tạo của họ. Tạo động lực và tự tin vững bước trên con đường của chính mình. Sẵn sàng thích ứng và thay đổi trong hoạt động cuộc sống.

Lòng tự trọng còn giúp ta sống đúng lương tâm, trách nhiệm, đúng chuẩn mực. Không làm những việc sai trái, vi phạm đạo đức, pháp luật,… Chính sự tự trọng mang đến thước đo trong giới hạn bản thân con người. Họ đặt mình trong vị thế của người khác để điều hòa các mối quan hệ xung quanh.

Lòng tự trọng giúp ta nhận ra phần hạn chế của chính mình. Nhìn nhận, thay đổi là tất yếu để con người được hoàn thiện, được tốt hơn. Để từ đó không ngừng nỗ lực, cố gắng vươn lên, giúp bản thân hoàn thiện hơn.

Lòng tự trọng thể hiện ở các khía cạnh cuộc sống:

Trong gia đình, nếu thiếu lòng tự trọng, các thành viên sẽ không biết tôn trọng lẫn nhau. Nhờ có tự trọng mà vai vế được xác định. Có sự tôn trọng, kính trên nhường dưới, lắng nghe và chia sẻ với nhau. Đặc biệt khi gia đình là nơi để về, gia đình sẽ che chở cho con người.

Trong xã hội, nếu có quá nhiều người thiếu lòng tự trọng thì không sớm thì muộn cũng đầy những kẻ dối trá, sẵn sàng chà đạp lên những nguyên tắc tốt đẹp giữa người với người. Thông qua pháp luật và các chuẩn mực xã hội, chuẩn mực đạo đức mà lòng tự trọng được nâng lên.

Hành vi giả dối, lừa gặt sẽ được ngăn chặn và biến mất dần trong xã hội. Từ đó nhân lên vai trò và ý nghĩa của các phẩm chất, đức tính tốt đẹp khác ở con người. Cũng như giúp các mối quan hệ xã hội được phát triển, nâng cao.

Các giá trị của lòng tự trọng:

Sống biết tự trọng con người sẽ không làm những điều dối trá. Tuy người khác không biết nhưng chính mình biết rõ. Chẳng hạn như:

+ Một học sinh biết tự trọng sẽ không gian dối trong học tập thi cử. Sẽ nghiêm túc thực hiện công việc học tập, rèn luyện.

+ Một công chức nhà nước biết tự trọng thì biết tự giác hoàn thành nhiệm vụ, không lợi dụng chức vụ để tư túi. Từ đó bài trừ được các hành vi, các vi phạm được chủ thể có chức quyền thực hiện.

+ Một con người biết tự trọng sẽ không phản bội lòng tin của người khác. Giúp con người có cơ sở chắc chắn để tin tưởng và yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

4. Biểu hiện của tự trọng:

Khi cuộc sống ngày càng xô bồ thì lòng tự trọng ngày càng được đề cao. Con người cần phải có lòng tự trọng để biết cách đối nhân xử thế, biết mình cần làm gì và muốn làm gì để phân biệt được đúng – sai, phải – trái, ngăn chặn bản thân làm những việc trái với lương tâm. Qua đó có những biểu hiện cụ thể, rõ ràng trong cuộc sống và nhận thức.

Mỗi chúng ta không phải ai sinh ra đều hoàn hảo cả. Ai cũng có những khuyết điểm cần sửa chữa và khắc phục từng ngày. Do đó mỗi người cần thể hiện lòng tự trọng, cần trau dồi để mang đến các giá trị thể hiện hiệu quả của bản thân ngoài xã hội. Và chính lòng tự trọng sẽ là kim chỉ nam giúp chúng ta có hướng đi cụ thể, rõ ràng hơn cho bản thân. Cũng như giúp đánh giá thái độ sống, đánh giá giá trị của một con người.

Trong cuộc sống, lòng tự trọng hiện hữu trong mọi hoạt động sống thường ngày, từ những việc to lớn cho đến những hành động rất nhỏ. Phản ánh trong suy nghĩ, hành vi được con người thực hiện. Qua đó phản ánh nhu cầu, quyết định và các tư tưởng của họ đối với sự vật, mọi người xung quanh.

Có thể liệt kê một vài biểu hiện của lòng tự trọng như:

– Luôn cố gắng hoàn thành công việc mình, chịu trách nhiệm bằng chính năng lực bản thân. Thể hiện các chuyên môn, đảm nhận công việc trong tinh thần lắng nghe, tiếp thu và hoàn thành tốt nhất công việc.

– Sẵn sàng đứng ra chịu trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra. Không bao giờ đổ lỗi cho người khác để phủ nhận sai sót của bản thân. Phải để bản thân xác định được thực lực, nhìn nhận so với mặt bằng xung quanh để rút ra bài học.

– Tự nhận ra lỗi lầm của bản thân và lắng nghe góp ý của người khác với thái độ cầu tiến.

– Sống nhã nhặn, luôn chan hòa vui vẻ với người khác. Họ luôn ý thức rằng tôn trọng người khác là tôn trọng chính bản thân mình.

– Có chứng kiến, kiên định với các định hướng, mục tiêu của bản thân, không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cực.

– Ngoài ra, tự trọng còn được thể hiện trong nhiều hành động nhỏ như: không tham tiền bạc của người khác, nhặt được của rơi trả lại cho người mất. Lỡ va quệt vào người khác khi tham gia giao thông thì sẽ xin lỗi, hỏi han người đó cẩn thận,….

Một số biểu hiện của người thiếu lòng tự trọng:

Lòng tự trọng không chỉ là phẩm chất tạo nên giá trị cho mỗi người mà còn tác động đến toàn xã hội. Ngày nay có rất nhiều người nhiều việc thể hiện thiếu lòng tự trọng.

+ Học sinh tìm cách quay cóp trong những kỳ thi, sinh viên chép lại luận văn mỗi kỳ thi tốt nghiệp.

+ Ngoài đường người ta đi vào đường ngược chiều hay vượt đèn đỏ tự nhiên khi không có cảnh sát. Đi lên các vỉa hè hay làn đường dành riêng cho người đi bộ.

+ Nơi công sở người ta làm việc riêng hay dùng điện thoại cơ quan để trò chuyện hàng giờ.

+ Nơi công cộng người ta gây phiền hà cho mọi người không có ý thức giữ vệ sinh bảo vệ môi trường.

Nguồn: https://luatduonggia.vn/long-tu-trong-la-gi-y-nghia-bieu-hien-va-vai-tro-cua-tu-trong/

Tự trọng

Khái niệm về bản thân là những gì chúng ta nghĩ về bản thân; lòng tự trọng, là những đánh giá tích cực hoặc tiêu cực về bản thân, như cách chúng ta cảm nhận về nó.” 

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1_tr%E1%BB%8Dng

TỰ TẠI

Tự tại 自在 có nghĩa là: ジザイ jizai ||| (1) Translated into English as “freedom,” “omnipotence,” but it is difficult to find the adequate expression to deliver the meaning of zizai . What is being referred to by this term is the ability of a buddha to function throughout the universe in any way without impediment. For example, a buddha has all kinds of “supernatural powers” (神通), such as knowing the past and future, reading minds, etc. But in Buddhism, the reason such “powers” are possible is not because of the development of great personal power on the part of a buddha, but because of his/her realization of the world to be completely interpenetrated (通). Thus, the unhindered function of a buddha is nothing other than an expression of the reality of the universe. (2) The name of a god in the Lotus Sutra. 〔法華經 T 262.9.2a17〕

1. Được hiểu là sự tự do tuyệt đối, sức mạnh vạn năng, nhưng khó tìm được từ nào để diễn tả tương ứng với nghiã của thuật ngữ nầy. Ý nghĩa của thuật ngữ nầy là chỉ cho năng lực của Đức Phật có thể vận hành suốt khắp mọi cõi giới mà không hề chướng ngại. Chẳng hạn, một Đức Phật thường có đầy đủ năng lực thần thông (神通), như biết rõ quá khứ vị lai, biết rõ tâm niệm của người khác… Nhưng theo đạo Phật, nguyên do các năng lực thần thông nầy có được không phải vì sự phát huy một năng lực cá nhân của một vị Phật, mà do vì sự chứng ngộ của Ngài về thế giới là hoàn toàn xuyên suốt (thông 通), Do vậy, năng lực không ngăn ngại của Đức Phật chẳng khác gì hơn là thực tại của vũ trụ.

2. Tên một vị thần trong kinh Pháp Hoa.

Nguồn: https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/tu-tai-k9762.html

TỰ DO VÀ TỰ TẠI
CHÁNH TRÍ

Có lẽ không ở thế kỷ nào mà nhân loại bàn và đòi hỏi về tự do bằng thế kỷ thứ XX này. Nào tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do ngôn ngữ, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do kinh doanh,v.v… Đây là không kể những cái tự do thông thường như tự do ăn mặc, tự do ăn ở… mà mỗi người được quyền sắp đặt tùy ý và tùy túi tiền mình.

Tuy nhiên, như chúng ta biết, các thứ tự do đó đều là những tự do tương đối, có giới hạn: mỗi người được tự do làm những gì mình muốn miễn đừng đụng đến tự do của người khác, hay miễn đừng phương hại đến an ninh công cộng, quyền lợi chung của số đông, sinh tồn của xứ sở… Bị hạn chế như thế vì những tự do của thế gian không ít thì nhiều đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với đời sống duy vật, hữu vi, mê chấp của chúng sinh. Còn sống trong xác thịt, vì xác thịt, trong cảnh giới hữu hình hữu tướng, mỗi người đều tự thấy khác với bao nhiêu người xung quanh, mỗi chúng sinh chẳng những muốn giữ chặt phần của mình mà còn muốn khuếch trương là khác, thì bảo làm sao có tự do tuyệt đối được.

Xét cho thật kỹ, đi thật sâu vào vấn đề, chúng ta sẽ thấy những tự do hạn chế đó lắm khi vì lỗi lầm của mỗi người mà hóa ra con số không.

Như tự do cá nhân, thí dụ: Khi bản thân chúng ta không bị bắt bớ giam cầm, tù tội một cách vô cớ, trái với luật pháp, thì chúng ta tự cho là tự do cá nhân của chúng ta được tôn trọng. Đúng như vậy, nhưng chỉ đúng với đối lập, còn tự ta đối với ta, ta có thể từ ngày lập gia lập thất, mỗi người chúng ta tự truất cái quyền tự do cá nhân rồi. Câu “Vợ dây con trói” là một nhận xét rất chân xác của người xưa về cảnh con người tự bắt bớ, tự cột trói lấy mình. Thêm vào đó còn gia nghiệp, càng to lớn bao nhiêu lại càng giam cầm, làm tù làm tội con người bấy nhiêu.

Hay một thí dụ khác: Tự do đi lại. Có quyền đó rồi mà cứ mắc lo giữ của giữ nhà, sợ hao sợ mất, hóa ra một tấc đường chẳng dám ra đi. Vậy cái tự do đi lại có cũng như không.

Đến những cái tự do khác, như tự do tư tưởng, tự do ngôn ngữ, tự do tín ngưỡng… cũng đều tùy thuộc ta mà có hay không, mà bị hạn chế nhiều hay ít. Tâm ta có hướng về một vấn đề nào đó mới phát sinh những tư tưởng, ngôn ngữ, tin tưởng về hướng đó, còn không thì thôi. Không là vì hướng ấy bị che khuất, bị chướng ngại.

Tóm lại, vì con người thế gian bị vấp ngã chấp, pháp chấp, chưa thấy được cái Chân, cái Thật của mọi sự vật cho nên không thông đạt với muôn sự muôn vật, hóa ra vốn tự tại mà lại bị ngăn ngại.

Tự tại là tự do hoàn toàn trong cái thấy nghe hay biết sự nhận định không chân xác thành ra bao nhiêu hành động phải bị hạn chế theo.

Con người thật là Tâm là Tánh, nhưng chúng ta chấp thân và ý làm “ta” cho nên những hoạt động về thể xác cũng như tinh thần của chúng ta phải bị sự hạn cục của thân và ý chế ngự. Tiếp xúc với ngoại cảnh, chúng ta không thể đi quá mức thấy của mắt, nghe của tai… Tư tưởng suy tư, chúng ta không vượt qua nổi bức tường rào của những tri kiến, thành kiến, tập quán, phong tục tích tụ trong đầu óc chúng ta.

Bồ tát tu hành đến mức độ cao (đệ bát bất động địa) là đã thấy rõ cảnh Chân, trái với cảnh giả của thế gian, và năng thông đạt với tất cả các pháp (muôn sự muôn vật), vì vậy mà được tự do hoàn toàn hay đắc viên dung tự tại. Rồi từ cấp thứ tám lên cấp thứ mười, Bồ tát mới dứt khoát với những tư tưởng phân biệt nhân ngã, thân tâm thanh tịnh, ở trong hoàn cảnh nào, lòng vẫn thanh tịnh, không thấy buồn thấy vui, hết còn bị phiền não nghiệp phược làm chướng ngại nữa, tha hồ mà ban bủa lòng thương, thuyết pháp hóa độ chúng sanh một cách bình đẳng.

Tự do của thế gian không thể so sánh với tự tại của các bậc giải thoát.

Trích Từ Quang số 238, tháng 12/1972 – (P.L. 2516)

AN NHIÊN TỰ TẠI

Cuộc sống hằng ngày với nhiều mối lo và sự trăn trở. Nên nhiều người thường cầu cho một cuộc sống an lành, bình yên. Và từ cuộc sống “An yên”, “An nhiên” cũng xuất phát từ những tâm nguyện đó. Vậy bạn hiểu an nhiên là gì? Như thế nào là một cuộc sống an yên? Ý nghĩa của cuộc sống an nhiên tự tại thực chất là gì? Bài viết này có thể sẽ trả lời cho bạn các câu hỏi đấy.

Định nghĩa về an nhiên là gì ?
An nhiên là 1 từ Hán Việt dùng để chỉ trạng thái tâm hồn và một cuộc sống bình yên, tĩnh lặng, thư thái của con người.

– Theo nghĩa cơ bản thì “An nhiên” có nghĩa là:
– An: Hàm ý cho sự an toàn, an lành, bình an, an toàn,…
– Nhiên: có nghĩa cho sự tự nhiên, không cưỡng cầu

Vậy nên “An nhiên” mang ý nghĩa về sự thư thái trong tâm hồn, một lối sống vui vẻ, thoải mái, không sầu lo muộn phiền. Có thể gặp chuyện không nhưng mong muốn, tuy nhiên vẫn sẽ suôn sẻ, như ý,…

An nhiên tự tại là gì? Sống an nhiên là gì?
An nhiên tự tại là sống tĩnh lặng, thong dong giữa dòng đời hối hả, tấp nập

An nhiên tự tại là để chỉ thái độ sống lạc quan, biết cách tận hưởng. Nói một cách hoa mỹ hơn, cụm từ này là để nói giống như cách sống mà các vị thiền sư khuyên bảo chúng ta. Sống không tham sân si, không vương vấn bụi trần. Mang thái độ độc lập tiền tài, danh vọng, để tự do cảm nhận từng khoảnh khắc của cuộc sống.

Tóm lại là an nhiên tự tại là hướng đến một lối sống chỉ có tích cực, bỏ qua mọi tiêu cực để không cảm thấy buồn phiền. Sống tĩnh lặng, thong dong giữa dòng đời hối hả, tấp nập.

Ý nghĩa của an nhiên
Sống an nhiên là không ganh đua, tị nạnh với đời, làm bất cứ điều gì mình muốn, tự do hơn, thoải mái hơn

Nghe qua định nghĩa thì chắc chắn bạn đọc đều cảm nhận được rằng đó là một thái độ sống mà hầu hết ai cũng mong muốn có. Để có thể dễ dàng bỏ qua những tiêu cực cứ xảy đến hằng ngày. Ý nghĩa của lối sống an nhiên đối với mỗi con người chúng ta là:

– Giúp tâm hồn nhẹ nhàng, luôn luôn vui tươi, trẻ trung. Có thể giúp tuổi thọ được kéo dài hơn.
– Không ganh đua, tị nạnh với đời, làm bất cứ điều gì mình muốn, tự do hơn, thoải mái hơn.
– Dễ dàng bỏ qua những áp lực, buông bỏ mọi thị phi, thì bản thân sẽ không dễ dàng đánh gục bởi những khó khăn.
– Khi sống an nhiên tự tại thì bạn sẽ có cái nhìn về cuộc sống một cách đa chiều hơn.
– Có thái độ sống chủ động, luôn biết nhìn vào những mặt tốt lành trong mọi hoàn cảnh sống.

Làm thế nào để có một cuộc sống an nhiên tự tại?
Thử hỏi ai trong mỗi chúng ta lại không muốn có một cuộc sống an nhiên tự tại? Tuy nhiên, dù có phấn đấu đến đâu, thì cuộc sống này rất khó có thể cho bạn sự an nhiên được.

Điều gì xảy đến với bạn không quan trọng, cái quan trọng là thái độ bạn đối diện với nó

Hằng ngày, mỗi người trưởng thành mở mắt dậy là phải bắt đầu với cuộc chiến mưu sinh, lo về cơm áo gạo tiền. Việc “không cầu mà có” chỉ diễn ra với những trường hợp rất ít ỏi trong đời mà thôi, còn lại tất cả đều phải do chính bản thân chúng ta tự thân vận động, không ngừng tìm kiếm cơ hội và chăm chỉ làm việc để có được. Nên thực sự mà nói cuộc sống an nhiên giữa dòng đời tất bật này là vô cùng khó khăn.

Tuy vậy, ta thường nghe người đời nói: “Điều gì xảy đến với bạn không quan trọng, cái quan trọng là cách bạn đối diện với nó”. Bản chất của cuộc sống an nhiên là ở thái độ sống, chứ không phải những gì diễn ra xung quanh chúng ta. Vậy nên hãy rèn luyện cho mình thói quen và thái độ sống tích cực, thì cũng sẽ tới một lúc bạn có thể mặc kế những điều diễn ra ở bên ngoài, mà sâu thẳm bên trong nội tâm vẫn an nhiên tự tại.

Một số giải pháp dành cho các bạn muốn hướng đến một cuộc sống an nhiên tự tại:
Nuôi dưỡng tinh thần
Nuôi dưỡng tình thần bằng cách không tham lam hay cố chiếm đoạt thứ không thuộc về mình. Cũng không buồn vì người khác có được gì đó mà mình không có được.

Nên tìm hiểu về chính bản thân mình, để hiểu rõ hơn về giá trị của bản thân. Bớt ganh đua, ít tính toán sẽ giúp cho tinh thần bạn cảm thấy thoải mái hơn.

Chăm sóc sức khỏe
Xây dựng cho mình chế độ ăn uống lành mạnh, ăn nhiều các loại rau củ quả, giảm thiểu chất béo và dầu mỡ. Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao như một thói quen. Khi cơ thể khỏe mạnh thì dù cuộc sống có vất vả tới đâu, thì vẫn có thể vượt qua được nhiều hơn.

Chăm sóc sức khỏe cho bản thân là biểu hiện rất tích cực của cuộc sống an nhiên
Sống thiện lương

Hãy nên nghĩ đến những điều tốt đẹp, làm những thứ tốt đẹp. Dù bản thân có thể thiệt thòi một chút, tuy nhiên tâm hồn sẽ cực kỳ thanh thản.

Sống cầu tiến
Thể hiện một quan điểm sống vươn lên, tự đạt lấy những gì mình xứng đáng. Như vậy sẽ không phải đau đầu để kiếm kế mưu sinh, không tham sân si, thì cuộc sống mới ung dung, an nhiên, tự tại được.

Nguồn: https://mayruaxemay.vn/an-nhien-la-gi/