BẬC SƠ THIỆN




BẬC TRUNG THIỆN




BẬC CHÁNH THIỆN NĂM 1




BẬC CHÁNH THIỆN NĂM 2




YÊU MÃI NGÀN NĂM !

YÊU MÃI NGÀN NĂM !

Gió lùa trăng, trăng treo ngọn gió

Mây tỏ tình, mây quấn quýt quanh trăng

Trăng hỏi rằng: Mây còn yêu nhớ ?

Trăng nói rằng: Trăng yêu mãi ngàn năm !

 

Mối tình ngàn năm óng ánh trăng vàng

Giữa dòng sông trăng trong vắt miên man

Mãi miết mạn thuyền xuôi êm ả

Mãi ngàn năm, mãi cả dòng đời

 

Nhưng đời không như là mơ

Yên ắng như hồ thu trong lắng

Cho vầng trăng ín đáy sông ngân

Cho cành liễu buông thơ soi bóng âm trầm

 

Mơ cũng chỉ là mơ

Trôi mãi, miên man bến bờ vô tận

Vắt kiệt sức em vô vàn tủi phận

Nơi của ngàn năm đến lặng thầm !…




XIN NẮM LẠI BÀN TAY LAM ẤM CÚNG

XIN NẮM LẠI BÀN TAY LAM ẤM CÚNG
Đôi mắt ướt dòng suối Từ tuôn chảy
Áo Lam hiền xanh mát giữa rừng hương
Giờ hội tụ rộn ràng chim Oanh hát
Ánh nến khuya soi rọi định hướng đời

Nghe gió hờn lùa vào đêm thêm rối
Cuồn cuộn xoay bức xé dáng mây buông
Bàn tay nào nỡ dập nát tang thương
Nỗi nhứt nhối mỗi ngày thêm rạn nứt

Dáng Oanh nhỏ chợt khóc thầm rưng rức
Sao đường dài bổng ngã rẽ mênh mang
Tung bụi mờ thêm gió chướng xốn xang
Sao lạnh ngắt chim Oanh buồn co quắp

Đêm khuya khoắc thôi dài thêm thao thức
Xin trăng vàng thôi úp mặt mây tan
Xin lòng người thôi vội vã rách toang
Xin nắm lại bàn tay Oanh ấm cúng

Cho mắt xưa dòng suối từ đằm thắm
Chảy hiền hòa thấm đẫm giữ hương xa
Áo Lam thơm xinh xắn giữa ngàn hoa
Oanh ríu rít hồn nhiên vui bất tận

Đạt Ma, 18072553 – 06092009




THẦM LẶNG MỘT GÓC SÂN

THẦM LẶNG MỘT GÓC SÂN

Tôi chuyển sinh họat về đây đã hơn tám tháng, nhưng tuần nào cũng vậy. Các em oanh vũ nữ đều đồng phục áo Lam cổ cánh sen và chiếc ríp màu xanh có dây đeo chữ H. Riêng em, vẫn cứ chiếc áo sơ mi trắng, ríp xanh dây đeo chữ X, bộ đồng phục nữ sinh, bạc màu củ kỹ. Mỗi lần đến chùa, em thui thủi thầm lặng thu mình ở một góc sân, trông thật tội nghiệp – đáng thương! Tôi lân la đến bên em. Em tâm sự, ba em mất trong năm qua, cơn bão dữ đã đánh ập chiếc ghe, cuốn trôi đi tất cả các bạn chài, trong đó có số phận hẩm hiu của ngưới cha cần cù, thân yêu nhất của em .

“Mất cha là mất cả bầu trời”, gia đình em suy sụp hoàn toàn. Mẹ em thân gầy hạt mai, chèo chống chiếc thuyền con cọc cạch đổ nước thuê, em và hai em nhỏ hơn, phải phụ mẹ cạy sò ở ngoài lò, có đêm đến hai ba giờ sáng mới về đến nhà. Số tiền còm cỏi thu nhập được của cả bốn mẹ con đủ để lây lất qua ngày !…

Cảm cảnh trước nỗi buồn tê tái của em, tôi ngỏ lời với vợ tôi:

– Em giúp anh làm một nghĩa cử cao đẹp, chúng ta tặng cho một em oanh vũ một bộ đồng phục xinh xắn, để giúp cho em thôi mặc cảm – tự ty, nhanh chóng hòa nhập cùng bạn bè. Sau khi đi chợ về, với nụ cười tươi tắn – rạn rỡ trên môi, cô ấy trao cho tôi hai xấp vải một lam – một xanh. Tôi mừng rở cám ơn vô cùng.

Vợ tôi là vậy, mọi yêu cầu của tôi trong các công tác Phật sự, cô ấy đều đáp ứng nhiệt tình. Nhờ có sự hổ trợ đắc lực của cô, mà tôi vững vàng trong sinh hoạt đến ngày hôm nay. Có lần Thầy Tĩnh Thông nói vui:

– Các công đức mà anh làm được, phải chia cho cô Quãng Trầm một nửa!
Quãng Trầm là pháp danh của vợ tôi. Còn các anh

– chị huynh trưởng cao niên thì nói:

– Anh đang làm nhiệm vụ của một bồ tát hạnh. Nhưng vợ của anh mới là một Bồ Tát thị hiện!

Đúng vậy, nếu không có vợ tôi, người phụ nữ đảm đang ấy tán đồng – hổ trợ hết lòng, thay tôi gánh vát công vịệc gia đình mỗi khi tôi bận bịu công tác Phật sự – đi xa, thì tôi khó mà thành toàn được trọng trách mà tổ chức giao phó

Hôm ấy, tôi đến chùa sớm hơn, vừa trông thấy em, tôi gọi lại. Em vội vã chạy đến, ùa vào lòng tôi. Không biết đã được biểu hiện từ lúc nào, tình cảm giữa chúng tôi rất thắm thiết, em xem tôi vừa là một bão huynh, vừa là một người cha tinh thần thân thiết. Mọi vui buồn riêng tư, em đều thố lộ – tâm sự cùng tôi. Mỗi lần như vậy, tôi đều xoa đầu chia sẻ nỗi niềm với em. Tôi mở túi xách, lấy ra hai sấp vải, trân trọng trao vào tay em, em ngước mắt kinh ngạt

– Anh tặng em! cuối giờ sinh hoạt, sau khi dây thân ái xong, chúng ta ra hiệu may đầu đường em nhé

Em rươm rướm nước mắt, lý nhí lời cảm ơn. Tôi ôm em vào lòng. Cả hai chúng tôi đều xúc động

Các em của chúng ta, mỗi em đều có mỗi hoàn cảnh đáng thương. Nếu không gần gũi, không tiếp xúc, thì khó mà biết được từ nỗi thâm sâu, mỗi tâm sự u hoài riêng tư, mỗi hoàn cảnh khúc mắc. Người huynh trưởng (H.Tr) đâu phải chỉ biết có đến giờ họp Đoàn là có mặt, đâu phải chỉ có lý thuyết suông trong các tiết giảng Phật Pháp, và đâu phải chỉ có họat náo trong giờ sinh hoạt vui chơi là đủ, mà chúng ta còn phải có một tấm lòng chân thành, tha thiết thương yêu các em. Trách nhiêm của người H.Tr là giáo dục đạo đức tâm linh, nếu chúng ta thành toàn đươc trọng trách cao quí này mới đúng nghĩa là người “kỹ sư tâm hồn”, mới định hướng cho các em một tương lai trong sáng ./-




TÂM SỰ NGƯỜI LỚN TUỔI

TÂM SỰ NGƯỜI LỚN TUỔI

Tôi năm nay đã 65 tuổi rồi, chỉ còn vài tháng nữa là bước vảo tuổi 66
Ai rồi cũng vậy, tuổi đời càng chồng chất, thì sức vóc càng lúc càng hao gầy – yếu đi, và trí tuệ cũng theo đó mà suy kém giảm dần, không còn nhạy bén như thuở nào nữa, sức phấn đấu cũng tùy theo đó mà suy giảm trầm trọng. Bằng chứng là những hoạt động của tôi mấy lúc gần đây, đâu còn nhanh nhẹn như trước đây được nữa. Lắm lúc vì tuổi cao sức yếu, tôi đã buông xuôi tất cả. Hay vì sĩ diện, mà tôi đã cố gắng để làm, nhiều lúc tôi cứ ngỡ rằng, tôi đã làm việc rất nhiều – rất cật lực. Nhưng thực chất, thì lực bất tòng tâm, công việc cứ ngất ngứ – cứ chựng lại, giải quyết không đâu đến đâu được cả. Đôi lúc gặp phải chướng duyên, tôi đã chùn lòng – run tay – co quắp – tránh né – đùn đẩy, mà không dám đối mặt với thực tại, làm mất lòng tin của thế hệ đàn em. Bế tắc trước sự bất phục của người khác, tôi võ đoán – kẻ cả – nóng nãy lấn lướt, làm ảnh hưởng đến thân giáo. Nhiều lúc tôi thể hiện là tôi còn quá đủ trí tuệ, hoênh hoang với nhiều lý thuyết dạy đời, nhưng mỗi lời nói giong dài được thốt ra đều rổng toếch, làm ngán ngẩm người nghe, không mang lại lợi ích thiết thực

Tôi không thể ỷ mình là tuổi cao – là cấp lớn rồi ganh tỵ với tuổi trẻ, vùi dập tài năng, vô tình làm một viên đá lăn quay giữa đường, cản trở lối đi, làm chậm bước phát triển của tổ chức – làm cản trở bước tiến của tuổi trẻ. Trong khi đó, xã hội thì càng lúc càng tiến triển – vươn tới vô cùng. Để bắt kịp với thời đại, phải cần nhiều ở sức vóc năng động hơn, có đủ tay nghề chuyên năng tinh xảo – nhạy bén hơn, mới đủ năng lực ứng xử kịp thời trong thời đại tên lửa này, chứ lớn tuổi rồi, chậm lụt như tôi, thì chỉ có làm thêm trì trệ

Chẳng lẽ tôi cứ mãi ngờ nghệch – tự ru ngủ – tự thôi miên chính mình, khư khư ôm lấy chiếc ghế chong chênh, phó mặc cho con thuyền vô định, thì tôi có tội với lịch sử biết bao!

Tôi viết lên những dòng này là muốn cảnh tỉnh chính tôi, là phải biết nhìn thẳng vào sự thật, phải biết toàn tâm toàn ý, ròng rả thắp đuốc đi tìm người kế tục, thay mình tiếp tục làm nên sự nghiệp truyền đăng. Không thể còn có cái suy nghĩ thiển cận, chỉ có ta mới là trung tâm vũ trụ, mà phải thấy ra rằng, chung quanh ta còn có biết bao tài năng vượt trội. Và nhắc nhở với tuổi trẻ hôm nay, là phải thấy rõ sứ mệnh trọng đại, các anh các chị không còn thời gian để bàng quan hay ỷ lại, mà phải tự thân rèn luyện – phấn đấu để đủ sức gánh vác trọng trách, đang kỳ vọng đặt trên đôi vai trẻ trung của các anh các chị thế hệ trẻ hôm nay !

Lan Nhã Thảo Am, 20/7/2015.




BẬC SEN NON




BẬC MỞ MẮT




BẬC CÁNH MỀM




BẬC CHÂN CỨNG




BẬC TUNG BAY




ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ




Nhân Quả

Nhân Quả

I. Dẫn nhập
Nói đến Nhân Quả là nói đến Nhân duyên, bởi vì Nhân – Duyên – Quả là một tổ hợp tương quan – tương duyên, là mắt xích giao hợp với nhau để cấu thành vạn sự – vạn vật.

          “Vạn pháp do nhân duyên sinh”

Tất cả sự mọi vật được sinh ra, trước hết là do “Nhân”, nhờ gặp “Duyên” phối hợp mà phát sinh ra “Quả”.

Vũ trụ vạn vật đang tuần hoàn theo quy luật Nhân Quả “Nhân nào thì Quả nấy”. Luật Nhân Quả đang điều hành – chi phối toàn bộ mọi sự mọi vật trong vũ trụ.

Giáo lý Đạo Phật đã lý giải khúc chiết toàn bộ thế giới hiện tượng và tâm linh qua “Nhân quả biện chứng” một cách nhân bản, nhằm mục đích hình thành một nhân sinh quan tích cực, xây dựng – hình thành nên một xã hội tốt đẹp.

Nhân Quả được lý giải – biện chứng trong cuộc sống thực thể. Mọi hiện tượng xảy ra, đều được phát triển theo quy trình Nhân Quả. Rời Nhân – tách Duyên thì không hề có Quả, không có cái gì bổng nhiên mà có. Cơ sở trên Luận cứ này, có thể lý giải mọi diễn biến xảy ra, tránh đi những luận cứ áp đặt – mơ hồ – mất gốc một cách vô cớ – thiếu cơ sở, dẫn đến những uẩn khúc có thể diễn ra trong đời thường.

II. Định nghĩa
1. Nhân: Là nguyên Nhân, là năng lực phát sinh.

Nhân thứ nhất có 2 loại:
– Sanh nhân: Cái Nhân sinh ra sự vật.
– Liễu nhân: Nhờ tác động mà làm phát triển thêm lên.

Nhân thứ hai có 2 loại:
Chánh nhân: Là cái nguyên Nhân chính sinh ra sự vật.
– Duyên nhân: Là những điều kiện chung quanh tác động nên.

2. Duyên: Là ngoại Duyên. Những điều kiện tác động nên, làm phát sinh ra Quả.
Duyên, có 4 Duyên:
– Nhân duyên: cái Nhân này làm Duyên cho cái Nhân kia tác thành nên Quả.
Nhân cũng là Duyên cho cái kia, mà Duyên cũng là Nhân cho cái nọ.
– Tăng thượng duyên: Là làm tăng thêm nhiều hơn để được phát triển.
– Vô gián duyên: Là Duyên liên tục không để bị gián đoạn.
– Sở nhân duyên: Tự Nhân làm Duyên tác động lên chính nó để được phát sinh.
– Quả: Là cái kết Quả đang hiện hành.

Quả gồm có 3 tướng:
– Dị thục: Khác thời mà có. Từ khi gieo hạt giống cho đến khi ra quả, thời gian có khác nhau.
– Dị loại: Khác loài mà có. Khi mới có thì tính khác nhau, đến khi già đi thì khác tính.
– Biến dị: Thay đổi thể trạng. Lúc còn nhỏ thì hình dáng có khác, khi lớn lên thì hành vi khác đi.

III. Nhân quả biện chứng:
Người ta nhìn thấy sự vật này có mặt, sinh vật kia ra đời có hiện tướng một cách sinh động, do đó họ cho rằng không phải bổng nhiên mà có, mà phải do một đấng tối linh nào đó tạo nên. Đây là sông, kia là núi, nọ là rừng, đấy là biển v.v… Một toàn cảnh kỳ quang đẹp mắt được xắp xếp một cách trình tự đang dàn trải ra, là phải có một bàn tay toàn năng vô hình sắp đặt.

Tinh thần Nhân Quả mang tính biện chứng khoa học của Phật giáo, cho thấy sự vật luôn luôn chuyển hóa vô cùng “Trùng trùng duyên khởi”. Không phải vật này sinh ra vật kia, mà là vật này làm Nhân – làm Duyên để sinh khởi “Một là tất cả, tất cả là một”. Nhân cũng là Duyên và Duyên trở lại làm Nhân để tạo nên Quả. Quả sinh ra cây, cây nở hoa, hoa kết thành Quả. Nếu có Nhân mà không có Duyên, hoặc có Duyên mà thiếu Nhân thì không hình thành nên Quả. Đến khi hết Duyên, mọi điều kiện tạo nên sự có mặt dần hồi thoái hóa – mõn dần nhiệt năng, thì sức sống tàn lụi dần theo năm tháng đến khi tắt hẳn. Như cái bánh xe đến lúc hết hơi thì không còn nâng được chiếc xe chạy tới.

          “Nhược thử Hữu tắc bỉ Hữu
          “Nhược thử Sinh tắc bỉ Sinh
          “Nhược thử Vô tắc bỉ Vô
          “Nhược thử Diệt tắc bỉ Diệt”

          ‘Cái này Có thì cía kia Có
          ‘Cái này Sinh thì cái kia Sinh
          ‘Cái này Không thì cái kia Không
          ‘Cái này Diệt thì cái kia Diệt

– Majjhimani Nikaya III.63 –

Sự: Có – không – còn – mất, chỉ là sự thay đổi hình dạng mà thôi, thực ra nó không mất đi đâu cả.

Đạo Phật là đạo nhân bản, con người có đủ năng lực huyền nhiệm để tự giải quyết lấy thân phận – đời sống của chính mình. Một việc tốt xảy ra hay một việc xấu đưa đến, là do chính ta đã tự tạo nên từ trước đó. Đạo Phật không thừa nhận thuyết định mệnh, bởi vì không có một bàn tay của Thượng Đế vô tưởng nào áp đặt lên đời sống nhân sinh.

Con người luôn luôn cúi đầu trước áp lực nặng nề mà người ta gọi là “Nghiệp”. Nghiệp có ra bởi do khởi niệm vô minh, cái hạt giống (Nhân) đầu tiên mà chúng ta đã vội thả vào lòng đời, rồi gặp phải gió Duyên góp sức tác động lên nhau tạo nên dòng sống khổ.

Nhân – Duyên – Quả, đây là một quy luật, một chu trình vốn có để tạo nên mắt xích sự vật. Và cũng từ Nhân – Duyên – Quả này tác động lên nhau dẫn đến sự vong ngã, có nghĩa là làm mất đi sự tồn tại của một tâm – vật. Sự mất đi của một sự vật, không phải là mất hẳn, hoặc vắng bặt bóng dáng của nó trong không – thời gian. Nhưng nó được thay đổi – biến dạng từ một trạng thái này hình thành một dạng khác. Con người khi chết đi không phải là mất hẳn, mà nó được sinh ra dưới một dạng khác (đó là một xác chết thối rửa sinh ra xương cốt – thành đất, hơi thở hòa nhập với gió ngàn phương, hơi ấm – dòng nhiệt năng trả về với lửa, nguồn năng lượng luôn luôn vận hành tồn tại trong vũ trụ v.v…).

“Sinh – Trụ – Di – Diệt” – “Thành – Trụ – Hoại – Không” là một trình tự được gắn liền song song với hoạt động Nhân Quả.

Người ta nói: “Một chớp cánh của một con bướm tại cửa ngọ môn của Tử Cấm Thành – Bắc Kinh, nó cũng có khả năng làm xao động cả Kim Tự Tháp tại vùng Ai Cập”. Một cá nhân lau sậy – nhỏ bé cũng có khả năng làm ảnh hưởng đến tập thể, đến cả vũ trụ bao la, và ngược lại, vũ trụ cũng dư thừa khả năng tác động lên mỗi dư thể – mỗi sự sống nhân sinh.

Một cá nhân tốt, ảnh hưởng xấu đối với xã hội cũng giảm đi, và cũng nêu gương được với cộng đồng. Mỗi thôn xóm đều tốt thì quốc gia đó có thái bình. Từ giới lãnh đạo cho đến quần chúng – nhân dân đều tốt, thì đất nước được thịnh trị, mưa hòa – gió thuận, thiên tai – dịch bệnh không còn, mọi biến cố không bao giờ xảy ra.

          “Nhất nhơn tác phước thiên nhơn hưởng
          “Độc thọ hoa khai vạn thọ hương”

‘Một người làm phước, ngàn người được hưởng. Một cây trổ hoa, ngàn cây chung quanh được thơm lây’.

IV. Mâu thuẩn sinh tồn
Đạo là khác với Đời, Đời là vọng – Đạo là chân.

“Duy vật là không có Duy tâm”, hai con đường ý thưc hệ song song này luôn luôn đối kháng nhau và không bao giờ gặp nhau ?!

Duy vật thiên về vật chất giả tạm – vô thường, hữu ngã – vô thần. Chọn vật chất để giải quyết nhân sinh, lấy dục vọng hữu ngã – ngạo mạn cạnh tranh sinh tồn. Không Thần quyền, bởi vì mọi giải quyết trong đời sống đều bởi bàn tay – khối óc của con người quyết định, mà không phải từ quyền năng phép mầu của Thượng Đế tối linh vô tưởng nào ban cho. Muốn sống – muốn tồn tại, mỗi sinh linh phải tự thân đấu tranh quyết liệt với khắc nghiệt để giành lấy chỗ đứng trong thế giới hữu hạn. Ngoài vật chất ra, không còn một thứ ngẫu tượng nào giải quyết được vấn đề nhân sinh. Vật chất là cơn sốt, là mục đích cuối cùng để thỏa mãn dục vọng điên cuồng mà con người nào muốn tồn tại – muốn có chỗ đứng cao hơn, là phải dẫm đạp lên nhau, bươn chải – bươi móc tối mày tắt mặt, mưu lượt khốn khó để tạo nên một vị thế – quyền lực hư danh giữa xã hội rối ren, nếu sơ hở – mềm yếu rẩy tay là té quỵ một cách đau đớn ê chề.

Duy vật là đánh mất tâm linh, là phủ nhận sự phát triển cao nhất về mặt tâm lý.

Duy tâm là chạy theo thần quyền, phó mặc đời sống dưới sự điều khiển của Thượng đế, nhờ vã van xin Thánh linh, chối bỏ quyền hạn làm người, cúi đầu thần phục ngoại giới, phó mặc cho sự thương xót được cứu rỗi, hay phủ phàng ghét bỏ – hù dọa bị đọa đày vào địa ngục.

Sự sống của con người không phải chỉ có cơm ăn – áo mặc – nhà ở – thuốc men, vật chất thừa mứa, với mớ lý tưởng ước mơ hảo huyền xa rời thực tế. Mà phải là một đời sống sinh động thực tiễn, cân bằng cả tinh thần lẫn vật chất, đáp ứng hoàn thiện nhu cầu nhân cách cho mình và toàn xã hội.

Con người hạnh phúc hay đau khổ, quyền lực hay dân ngu, khỏe mạnh hay bệnh tật đều là kết quả của Nhân – Duyên và Quả. Muốn có hoa thơm – quả ngọt, mỗi nhân thân phải tự biết chọn giống mà gieo, chứ không thể tự ru mình tin theo khẩu hiệu lý thuyết mị dân, hứa hẹn vu vơ – xa vời: “ban ơn – nhờ ơn – chuộc tội cho nhân loại”, hay hứa hẹn một nước trời hảo huyền – một thiên đường ảo tưởng xa vời nào đó.

Người ta thường nhẫm lẫn: “Nhân sinh là không hư”, không có ý nghĩa, không có giá trị, hoặc thiên về vật chất – duy sinh hữu hạn. Ngoài thỏa mãn ăn uống – trai gái… ra, thì việc gì cũng là vô nghĩa cả. Đó là kết quả của ngạo mạn – của nô lệ – của mù quáng – của cuồng tín tự sát. Cho mục đích của nhân sinh chỉ thỏa mãn về vật chất là đủ, phó thác tinh thần vào tìm tòi hưởng thụ, thỏa mãn cho dục vọng điên cuồng hèn hạ. Do đó mà mâu thuẩn cạnh tranh sinh tồn diễn ra gay gắt – khốc liệt, làm cho xã hội đảo điên – nhũng loạn – nhiễu nhương khốn cùng, kết quả của xã hội dẫn đến một thời kiếp bi đát.

Vạn pháp đều do “Duyên sinh”. Tất cả sự vật đều được sinh ra, điều tiên quyết là Nhân, hội đủ các Duyên tác động hiện hành kết quả. Nhân – Quả là cán cân. Nhân có năng lực mau hay chậm, Duyên có mạnh hay yếu, dẫn đến cái thành Quả theo thời gian tính mà hiện báo. Có khi kết quả hiện tại “Đương sinh thành thực”, có khi kết quả qua đời sau “Tái sinh thành thực”, có khi hậu quả phải trải qua nhiều đời mới thành “Đa sinh thành thực”.

Muốn có một xã hội toàn thiện, mỗi nhân cách đạo đức phải nhận thức thẩm thấu “Nhân sinh là vô thỉ – thế giới là vô chung”.

Dòng sinh mệnh “Quá khứ là Nhân, thời gian là Duyên, hiện tại là Quả” và mọi hành vi hiện tại là phát sinh cái kết quả tương lai: Có – không – còn – mất – sống – chết – mạnh – yếu – được – thua – sướng – khổ – vui – buồn – khôn – dại – thành – bại – giàu – nghèo – no – đói v.v… Nhân Quả trùng trùng không dứt.

V. Kết luận
Đức Phật ra đời vì một nhân duyên lớn: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”, giác ngộ được thực tướng “Pháp giới tính”, thấu rõ được sự chuyển động của hiện tượng vạn pháp, đó là tính “Trùng trùng Duyên khởi” có ảnh hưởng dây chuyền. Mỗi sự mọi vật tác động lên nhau “Một là tất cả – tất cả là một”. “Một con cá vẫy đuôi ở Biển Đông, tuy rung động rất nhỏ, nhưng dòng cảm từ xung động khắp bốn bể”.

Nhân quả khác với định mệnh. Định mệnh thì việc gì cũng đã được xắp xếp định sẵn, còn Nhân Quả thì có mối tương quan tương duyên tác động lên nhau – ảnh hưởng lẫn nhau, nên quả báo hiện tại có thể thay đổi từng giờ từng phút.

Dòng sinh mệnh được chuyển đổi lên tục, chính cái Nhân quá khứ đã tạo nhên cái Quả hiện tại, chính cái Nhân hiện tại sẽ tạo nên cái Quả vị lai.

          “Dục tri tiền thế Nhân
          “Kim sinh thọ giả thị
          “Dục tri lai thế Quả
          “Kim sinh tác giả thị

          ‘Muốn biết Nhân đời trước
          ‘Hãy xem Quả đời này
          ‘Muốn biết Quả đời sau
          ‘Xem Nhân làm hiện tại’.

Sở dĩ nhân sinh hiện tại đau khổ, bởi vì quá khứ đã gieo Nhân không lành. Hôm nay không tích cực hành thiện, thì tương lai Quả đắng chắc chắn phải đeo mang.

          “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
          “Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”

Việc lành – việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi.

Nhận thức được giá trị vô biên của luật Nhân Quả, khởi niệm làm một việc gì, thì cái việc làm đó phải được cân nhắc – chắc lọc thật kỹ để mang đến lợi lạc thiết thực cho bản thân và toàn nhân quần xã hội, tránh đi những nuối tiếc mai sau.

          “Người có trí tuệ sợ Nhân
       “Người ngu si sơ Quả hơn sợ Nhân”.      – Lời Phật dạy –

 




VIỆT NAM SỬ LƯỢC – Trần Trọng Kim




LĨNH NAM CHÍCH QUÁI




Đại Việt Sử Lược




Việt Nam Phật Giáo Sử Lược – Thích Mật Thể


 (Xin mời ACE: Đưa chuộc vào nền đen, hình vuông nhỏ mầu trắng, bên trên, góc phải, nhấp vào mũi tên trắng, mở lớn bài viết tiếp tục xem đọc…)




LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM – THÍCH THIỆN HOA

 (Xin mời ACE: Đưa chuộc vào nền đen, hình vuông nhỏ mầu trắng, bên trên, góc phải, nhấp vào mũi tên trắng, mở lớn bài viết. Đưa chuộc vào bài viết, kéo chuộc xuống xuống,  xem đọc từng trang…)




LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM – LÊ MẠNH THÁT


 (Xin mời ACE: Đưa chuộc vào nền đen, hình vuông nhỏ mầu trắng, bên trên, góc phải, nhấp vào mũi tên trắng, mở lớn bài viết. Đưa chuộc vào bài viết, kéo chuộc xuống xuống,  xem đọc từng trang…)




NHỮNG LỜI PHÁT BIỂU TRONG TIỆC CƯỚI

NHỮNG LỜI PHÁT BIỂU TRONG TIỆC CƯỚI

 (Xin mời ACE: Đưa chuộc vào bài viết, góc dưới, bên trái, nhấp chuộc vào mũi tên thứ 2, tiếp tục xem đọc từng trang…)




LỄ HẰNG THUẬN LÀ GÌ

LỄ HẰNG THUẬN LÀ GÌ

 (Xin mời ACE: Đưa chuộc vào bài viết, góc dưới, bên trái, nhấp chuộc vào mũi tên thứ 2, tiếp tục xem đọc từng trang…)




Lễ Hằng Thuận

Lễ Hằng Thuận

 (Xin mời ACE: Đưa chuộc vào bài viết, góc dưới, bên trái, nhấp chuộc vào mũi tên thứ 2, tiếp tục xem đọc từng trang…)




TÂM SỰ MỘT NGƯỜI ĐI

Gia Đình Phật Tử Việt Nam là một tổ chức giáo dục đạo đức tâm linh, ứng dụng – tu học giáo lý Phật Đà để hướng thiện cuộc sống. Là một Phật tử thuần thành chân chánh, chúng ta ý thức được rằng, đời là một dòng chảy cuộn xiết đến vô cùng, trong đó trộn lẫn vui sướng và khổ đau. “Nghiệp” luôn luôn trĩu nặng trên đôi vai – đoanh vây quanh ta suốt cuộc hành trình vào đời, dứt nghiệp là dứt khổ đau buồn tủi

Tệ nạn xã hội, đang là nỗi đau nhứt nhối của những tấm lòng có lương tri, nếu xa rời Phật pháp, chúng ta chơ vơ trước ngã ba đời đầy bão chướng. Tu học – thấm đẫm Phật pháp, nhân sinh định hướng được cuộc đời, vững vàng dấn thân, không vong thân sa lầy trác táng

Gia Đình Phật Tử là một tổ ấm muôn đời, nơi mà tuổi thơ của chúng ta đã được ấp ủ gắn liền tình cảm thân thương, dẫu có đi xa, ai nấy cũng đều hâm hấp nhớ về một thời sinh hoạt – vui chơi – tu học đằm thắm bên nhau, tay chung tay “Đây gia đình cùng nhau chung thân ái…” Hôm nay, do sinh kế – học tập, mỗi người mỗi ngã, nhưng mỗi lần về lại quê hương, là chúng ta lại vội vàng tìm lại dấu ái xưa, nơi khắc ghi một thời êm ấm thân thương, nơi đã góp phần hành trang, giúp cho chúng ta được thành nhân hôm nay

Nhớ quá đi thôi! Càng nhắc đến là càng gợi nhớ nôn nao da diết, lòng dặn lòng, một ngày nào đó chúng ta lại về, để được nhìn lại mái chùa xưa, nhìn lại mái ấm – nơi đó có từng khuôn mặt thắm thiết thân quen, được tâm tình – nối tiếp vòng tay thân ái xưa, hát lại bài ca chung gia đình mãi mãi

Như đọc được nỗi tiếc nuối da diết đọng lại trên từng khuôn mặt người đi. Người ở lại cũng không khác gì, mỗi buổi chiều chủ nhật sinh hoạt, lúc nào cũng trĩu nặng ưu tư, hướng mắt nhìn xa ra cổng chùa, mong đợi từng khuôn mặt người về…

Hè về, có lẽ bộn bề vì cuộc mưu sinh – học tập, biết bao lo toan luôn luôn nặng trĩu canh cánh bên lòng, nhưng khi nhận được tín hiệu thân thương, ai nấy cũng đều tất bật xắp xếp công việc, nhắn gọi nhau, hẹn gặp nhau trong giờ phút thiêng liêng đong đầy thân ái

Hẹn ngày hạnh ngộ !




LỤC HÒA LÀ GÌ ?

LỤC HÒA LÀ GÌ ?

Kỷ niệm tại trại Chuyên Năng Phú Lâu Na, tại chùa Phổ Hiền Strasbourg, tổ chức bởi Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử VN tại Hải Ngoại từ ngày 15 đến 17.07.2023.

Cổng trại có 2 khung biểu tượng nhắc nhở những người con của Đức Phật , xuất gia và tại gia, luôn ghi nhớ và thực hành trong cuộc sống hằng ngày, đó là LỤC HÒA và LỤC ĐỘ

KHUNG CỔNG LỤC HÒA

LỤC HÒA LÀ GÌ ?

* Lục là 6,

* Hòa là hòa thuận, vui vẻ với nhau trong mọi công việc của cuộc sống.

Lục hòa là sáu phương pháp thể hiện nhân cách sống một con người có đạo đức, đem lại sự hòa thuận, yêu thương, đùm bọc giúp đỡ và chia sẻ cho nhau, từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói cho đến mọi việc làm trong cuộc sống hằng ngày

6 pháp Lục Hòa là :

1) THÂN HÒA

2) KHẨU HÒA

3) Ý HÒA

4) GIỚI HÒA

5) KIẾN HÒA

6) LỢI HÒA

Hòa ở đây với mục đích cao đẹp, lợi ích cho mình và người khác, chứ không phải thụ động nhu nhược, không phải ai nói sai cũng ừ… không phải ai làm sai cũng gật… cũng không phải dùng thủ đoạn để âm thầm giành phần hơn về mình.

Trong sự sống chung và cùng làm việc, mỗi người hiểu biết được điều gì tốt đẹp, phải giải bày và hướng dẫn cho nhiều người khác hiểu để họ cùng bắt chước và thực hành theo những gì có ích lợi.

Khi ta khám phá hay phát minh được một điều gì mới lạ, hay có một ý kiến gì lợi ích cho nhiều người, nếu ta không hướng dẫn cho người khác biết, thì ta trở thành kẻ tham lam, ích kỷ.

Người Phật tử tu học trong thời hiện đại với tam tạng kinh điển và có sự giải thích của nhiều người, nếu chúng ta không có trí tuệ sẽ không phân biệt được đâu là chánh, đâu là tà, đâu là phương tiện thiện xão, đâu là cứu cánh.

Trong trường hợp này, nếu người hiểu đúng và biết đúng mà không giải bày quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người biết đúng sai thì sẽ dẫn đến tình trạng gây chia rẽ và làm hại cho nhau.

Lục Hòa gồm những gì?

Lục hòa gồm có sáu điểm sau đây:

1. THÂN HÒA: Thân hòa cùng ở (Thân hòa đồng trú)

Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức, hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành.

Khi đã sống chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa thuận với nhau, không dùng sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đạp nhau. Nếu là anh em, vợ chồng, con cái trong một gia đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự, hiếp đáp, sát phạt nhau.

Nếu là những Phật tử, cùng ở với nhau học tập dưới một mái chùa, thì tuy là không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung của đức Phật, cùng một lý tưởng mục đích, thì cũng phải lấy cái hòa khí làm đầu, không được chia phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy được.

Nếu là đồng bào, cùng chung sống trong một quốc gia xã hội, thì phải lấy sự đoàn kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt, chia năm xẻ bảy, làm thành giặc chòm, giặc xóm; sát phạt nhau, chém giết nhau. Người nước ta có câu ca dao rất có ý nghĩa:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

Khác giống, mà sống chung trên một giàn, còn phải hòa thuận, thương yêu nhau; huống chi là cùng một dân tộc, một giống nòi !

Cũng thể, đã là nhân loại, cùng chung sống trên quả địa cầu nầy, thì dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là “Tứ hải giai huynh đệ” cả. Đã là giống người như nhau mà lại đem nhau ra chiến trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô trí, thì thật là vô cùng phi lý.

2. KHẨU HÒA: Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi nhau (khẩu hòa vô tránh)

Muốn thân không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh nhau, thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn; trong mọi trường hợp, nhất thiết không được rầy rà, cãi cọ nhau.

Có người thân hòa mà khẩu không hòa, ăn thua nhau từng câu nói, tìm cách mỉa mai, châm thọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối cùng sanh ra ấu đả nhau.

Trong một gia đình, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi anh em xa lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt nhau, trở thành những kẻ xa lạ, thù hằn nhau.

Trong xã hội, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi quốc gia phải lâm nạn chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào lò sát sanh thảm khốc.

Bởi thế, nên thân thể hòa chưa phải là đủ, mà Phật dạy phải hòa cả miệng nữa. Nghĩa là người Phật tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã với nhau, nhất thiết không được cãi lẫy, gây gổ nhau. Nếu có gì thắc mắc, cần phải bàn cãi cho ra lẽ, thì tuyệt đối phải dùng lời nói ôn tồn, hòa nhã mà bàn luận. Không văng tục… không chửi thề… không nguyền rủa… không nói lời dơ bẩn… không nói lời xấu ác…

3. Ý HÒA: Ý hòa cùng vui (Ý hòa đồng duyệt)

Duy thức học có nói: Ý là hệ trọng hơn hết, nó là động cơ thúc đẩy miệng và thân. Kể công thì nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng đứng trước (công vi thủ, tội vi khôi). Bởi thế cho nên, trong một gia đình, một đoàn thể, mỗi người cần giữ gìn ý tứ, tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hòa khí. Trái lại nếu ý bất hòa, thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, thì thân và khẩu khó mà giữ cho được hòa hảo. Dù có cố gắng bao nhiêu, để thân và khẩu được hòa khí, hay vì sợ một uy quyền gì trên, mà phải ăn ở hòa thuận với nhau, thì sự hòa thận này cũng chẳng khác gì một lớp sơn đẹp đẽ, tô lên một tấm gỗ đã mục. Một khi sự xung đột bên trong đã đến một mức độ không thể chứa đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra trong lời nói hay trong những cái đấm đá; cũng như tấm gỗ khi đã mục quá rồi thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nứt, đổ bể.

Đức Phật đã thấu rõ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm ý vui vẻ hòa hợp trong khi chung sống với nhau.

Muốn được tâm ý hòa hợp, phải tu hạnh Hỷ Xả. Hỷ xả nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế, tâm mới thư thái, vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng, thanh tịnh được.

Vậy Phật tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh Hỷ Xả.

4. GIỚI HÒA: Giới hòa cùng tu (Giới hòa đồng tu)

Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất đều có kỷ luật qui củ hẳn hoi.

Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị cấp bậc tu hành của mình, mà thọ lãnh ít hay nhiều giới luật. Người tại gia thì thọ Ngũ Giới; người xuất gia thì thọ 10 giới nếu là Sa Di, Sa Di Ni; thọ 250 giới nếu là Tỳ Kheo, thọ 348 giới nếu là Tỳ Kheo Ni…

Khi Phật tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu học, mỗi ngày tùy theo cấp bậc của mình mà giữ giới. Đã cùng một cấp bực với nhau, thì tất phải thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ giới nầy, bỏ giới kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ. Nếu có sự vô kỷ luật nầy thì lẽ tất nhiên tổ chức ấy sẽ tan rã. Vì thế, đức Phật dạy: khi Phật tử đã chung sống với nhau, thì triệt để phải cùng nhau tu những giới luật như nhau, giữ đúng những giới luật của cấp bực mình.

Nói rộng ra, trong một trường học, một gia đình Phật tử, một hội, bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu. Trong trường, nếu học sinh không giữ kỷ luật của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học cứ học, ai muốn chơi cứ chơi, thì trường ấy ắt phải sập. Trong gia đình Phật tử, đoàn sinh mỗi người mỗi làm theo mỗi ý riêng mình, không tuân năm điều luật của gia đình, không làm theo huấn lệnh của Huynh trường, thì Phật tử ấy sẽ tan rã. trong một hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai cấp, tự cho mình sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho mình giàu, không giữ giới như người nghèo, tự cho mình có học thức không giữ giới như người vô học; nếu có tình trạng như thế tất hội ấy sẽ tan rã.

Nói tóm lại, trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau gìn giữ giới điều, kỷ luật, quy tắc, thì chúng ta không bao giờ sống chung với nhau được. Vậy Phật tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì mỗi người cần phải gìn giữ giới luật như nhau.

5. KIẾN HÒA (KIẾN LÀ THẤY): Thấy biết giải bày cho nhau hiểu (Kiến hòa đồng giải)

Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì, khám phá được điểm gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế trình độ hiểu biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần bình đẳng, mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể.

Khi ta khám phá ra được một điều gì mới lạ, hay có một ý kiến gì hay, nếu ta không giải bày cho người chung quanh, thì không những ta là một kẻ ích kỷ, mà còn tạo ra một sự tắc nghẽn giữa sự thông cảm với những người khác. Lòng ích kỷ và sự tắc nghẹn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bất hòa, xung đột. Trước một vấn đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách, và do đó, sẽ gây nghi ngờ, hoang mang trong đoàn thể, vì phần đông không biết tin vào ai.

Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, mỗi Phật tử có thể khám phá ra một khía cạnh khác nhau, tìm ra một ý nghĩa có thể đúng, mà cũng có thể sai. Trong những trường hợp ấy, mà không giải bày quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người trong đoàn thể hiểu biết, thì khó mà có thể sống hòa hợp với nhau.

6. LỢI HÒA: Lợi hoà đồng quân (lợi hòa cùng chia):

Cùng sống chung với nhau dưới một môi trường, ta phải chia đều cho nhau về vật chất, của cải, đồ dùng theo thứ bậc lớn nhỏ, không được lạm dụng quyền hạn của mình để làm của riêng.

Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y phục, mền chiếu, thuốc thang v.v… thì phải đem ra chia đều cho nhau, không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, mà phải lấy sự công bằng làm trọng theo thứ tự lớn nhỏ.

Trong xã hội sở dĩ có sự bất bình đẳng với nhau dẫn đến đối kháng, phân chia giai cấp, cũng vì không biết lợi hòa đồng quân. Đây chính là điều kiện rất quan trọng để đảm bảo tính hòa hợp của một tập thể, bởi vì khi thực hiện theo nguyên tắc này thì mọi người đều không còn phân biệt giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể, đều xem rằng mọi giá trị vật chất có được đều là của chung, mọi người phải được chia đều một cách bình đẳng không phân biệt.

LỢI ÍCH CỦA SÁU PHÁP LỤC HÒA KÍNH

Kinh Pháp Cú viết:

“Vui thay hòa hợp tăng già

Lành thay bốn chúng vui mà đồng tu’’.

Những lời dạy chân chính của đức Phật có được phát triển và tồn tại bền vững lâu dài hay không, là do nơi bốn chúng vui vẻ đồng tu với nhau trên tinh thần hòa hợp bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Thế gian ai cũng biết thực hành Pháp Lục Hòa kính sẽ giúp cho chúng ta sống có nhân cách đạo đức, nên không bao giờ gây sự chia rẽ, đố kỵ, phân biệt để làm tổn hại cho nhau.

Giúp cho mọi sinh hoạt tập thể được phát triển theo tinh thần đoàn kết, hòa hợp, thông cảm và biết chia xẻ cho nhau về mọi mặt từ vật chất lẫn tinh thần.

KHUNG CỔNG LỤC ĐỘ :

* Lục là 6

* Độ tiếng Phạn là Ba-La-Mật (Pãramitã) có nghĩa là vượt qua, từ mê mờ qua giác ngộ, từ đau khổ qua cảnh giới an vui, từ sanh tử qua Niết bàn. Cũng có nghĩa là Cứu Giúp .

Lục độ là pháp môn tu đặc thù, pháp môn cao nhất trong sự hành trì của đạo Phật, đòi hỏi hành giả phải an trú tâm vào cái không tính của chân như, cái trạng thái mà kinh Kim Cang đã dạy “ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ”. Khi tu theo pháp môn này hành giả không còn khái niệm phân biệt “ Nhân, ngã, bỉ, thử ” (người ta, tôi, cái này, cái kia) mà hòa đồng vào cái lý mầu nhiệm, giải thoát của đạo Phật, cái thể tính chân không của vạn hữu.

Lục độ là 6 hạnh có thể đưa hành giả và chúng sanh vượt qua mê mờ đau khổ thẳng tới cảnh giới an vui thanh tịnh.

Sáu hạnh là :

1) BỐ THÍ Ba La Mật,

2) TRÌ GIỚI Ba La Mật,

3) NHẪN NHỤC Ba La Mật,

4) TINH TẤN Ba La Mật,

5) THIỀN ĐỊNH Ba La Mật

6) TRÍ TUỆ Ba La Mật.

  1. BỐ THÍ Ba La Mật:

Bố là cùng khắp; Thí là cho, trao tặng.

Bố thí là đem của tư riêng của mình đem cho cùng khắp tất cả mọi người không phân biệt giới hạn người hay vật, thân hay sơ. Thấy ai còn thiếu thốn vật gì, cần thiết. nếu mình sẵn có, đều bình đẵng giúp tất cả không luyến tiếc.

Bố thí Ba La Mật gồm có 3 phương thức sau đây :

Tài thí: Tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra cho. Tài thí cũng có 2 phương thức

Nội Tài và Ngoại tài:

1. Nội tài: Là những vật chí thân quý báu nhất của mình như thân mạng, có nghĩa là khi cần thiết vẫn xả thân mình để cứu giúp người khác không kể sự nguy hiểm đến thân mạng nếu có. Đây là phương pháp bố thí cao nhất mà chỉ có những người giàu lòng từ bi, mới làm được ( trong các câu chuyện tiền thân của Đức Thế tôn )

2. Ngoại tài: Là những vật thường dùng trong đời sống của mình như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, tư trang, tiền bạc . . .

Pháp thí: Là đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy của chư Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác, hoặc y theo giới luật của Phật để hành trì trong đời sống hằng ngày nhằm làm khuôn mẫu cho mọi người bắt chước bỏ ác làm thiện. Pháp thí là một phương thức bố thí có một giá trị lớn lao, nó có tác dụng huân tập về mặt tinh thần mang đến nhân lành không những cho kiếp này mà cả những kiếp sau, không kể nghèo khó hay giàu sang, lao động hay trí thức.

Vô úy thí: Trong cuộc sống, sự sợ hải trước bao nhiêu điều đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra là một tâm lý khổ đau nhất, chiếm hết quá phân nữa thời gian của kiếp người. Do đó khi thực hiện Vô úy thí là mang lại cho họ sự bình tĩnh tuyệt đối trước mọi sự kiện bằng chính hành động của bản thân, nhằm tạo cho họ một tâm an tịnh hầu xử dụng lý trí suy xét của từng sự kiện, phù hợp với tinh thần khế lý khế cơ của đức Phật. Để qua các giáo lý thích hợp đó tâm họ không còn xao động và bình tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy hiểm. Tóm lại tu hạnh vô úy thí khi hành giả đi đến đâu cũng đem đến một sự bình tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.

Nói đến hạnh Bố thí Ba la mật cần phải nhận rõ 2 điểm sau đây:

Bố thí chấp tướng và Bố thí không chấp tướng

Bố thí chấp tướng: là bố thí với một dụng tâm không trong sạch ( cầu danh, cầu tài lợi, vì ganh đua, vì muốn làm nhục và khinh rẽ người, vì sự lừa lọc, bất công, thiên vị ). Đây chính là bố thí thuộc về hữu lậu kết quả rất mong manh như mây nổi giữa hư không gặp gió thổi thì tan biến.

Bố thí không chấp tướng: là bố thí Ba la mật với một dụng ý trong sạch, đúng với ý nghĩa của nó, bố thí với tâm từ bi bình đẳng, bố thí với tâm không thấy kẻ nhận và người cho, không tự cao, tự đại. Bố thí mong người nhận biết Tỉnh Ngộ… Mong người nhận biết làm nhiều Thiện Lành đối với mọi người và mọi súc vật để người được nhận nhận sớm tiêu Nghiệp Nghèo Khổ… tiêu Nghiệp Bệnh Tật… Í Bố thí với một tâm như vậy sẽ được phước trí vô lậu thanh tịnh, mới đúng nghĩa là Bố thí Ba la mật.

Bố thí thì phát sanh các công năng sau đây:

* Diệt lòng tham lam ích kỷ

* Đem lại ấm no

* Phát triễn chánh trí vì tu hạnh Pháp thí.

* Đem lại sự bình tĩnh vì tu hạnh Vô úy thí.

2. Trì giới Ba La Mật:

Trì giới Ba la mật là một hạnh tu để đi đến bờ giác ngộ bằng cách giữ gìn nghiêm chỉnh và trọn vẹn giới luật mà đức Phật đặt ra, tự thân thọ lãnh.

Giới luật :

Có thể chia ra làm 3

* Giới tại gia: là những giới dành cho những người cư sĩ từ Ngũ giới đến Thập thiện giới, Bồ Tát giới tại gia hoặc Bát quan trai giới.

* Giới xuất gia: là giới dành riêng cho hàng xuất gia gồm có 5 chúng:

* Sa di và Sa di ni giữ 10 giới

* Thức xoa ma ni phải giữ 6 điều giới và tập 296 hạnh giới.

* Tỳ kheo giữ 250 giới.

* Tỳ kheo ni giữ 348 giới.

– Giới Đạo và Tục thông hành: Là giới Bồ Tát mà Phật tử tại gia và xuất gia trong hàng Đại thừa phải thọ trì sau khi đã phát tâm Bồ đề tu Bồ Tát hạnh. Đây là những giới mà người tu hạnh trì giới Ba la mật phải giữ gìn cho đúng, còn gọi là Tam tu tình giới:

– Nhiếp luật nghi giới (Bất tác chư ác): Là 6 giới trọng và 28 giới khinh (của Bồ tát tại gia) để giữ gìn và ngăn ngừa những tội lỗi về thân, khẩu, ý.

– Nhiếp thiện pháp giới (Phụng hành chúng thiện): Là quyết tâm thực hành những việc thiện có lợi cho mình và cho người như 10 điều thiện và 4 nhiếp pháp.

– Nhiêu ích hữu tình giới (Hóa độ chúng sanh): Làm các điều lợi ích cho tất cả chúng sinh bằng cách quyết tâm tu hạnh từ, bi., hỷ, xả.

1. Công năng của hạnh Trì giới Ba La Mật :

Cũng như hạnh Bố thí cũng có 2 loại :

* Trì giới chấp tướng: Là trì giới với hình thức bên ngoài nhưng bên trong thì nhiễm ô (vì hiếu thắng, cầu danh, khinh khi người phạm giới, bị ép buộc, miễn cưỡng), thiếu thành tâm và tự đánh lừa mình.

* Trì giới không chấp tướng: Là thuận theo tự tánh, không nhiễm trước mà làm điều lợi ích cho tất cả chúng sanh, còn nhìn nhận trì giới là bổn phận luôn luôn nhiếp tâm cho thuần thục để đến khi không biết rằng mình có trì giới. Đây là tính chất trì giới Ba la mật: không chấp có sự tướng.

Ngoài ra tu hạnh trì giới có các công năng :

* Ba nghiệp thanh tịnh: Không sanh các tà niệm

* Các thiện công đức phát sanh.

* Nêu cao giá trị: Không phạm các điều xấu xa, thô bỉ.

* Người và vật kính yêu: Không làm thương tổn đến mọi người, mọi vật.

3. Nhẫn nhục Ba La Mật:

Là chịu đựng nhẫn nhịn đến chỗ cùng tột cho đến khi “tâm ý” cũng không ngấm ngầm nỗi dậy phản đối, đứng trước mọi nghịch cảnh lòng vẫn lắng đọng như không. Nhẫn nhục là phương pháp đối trị với tâm sân hận của con người.

Nhẫn nhục:

Có 3 thành phần:

* Thân nhẫn: Đối với nghịch cảnh của thời tiết, của hoàn cảnh, của bệnh tật, của đối xử hành hạ về thân xác.

* Khẩu nhẫn: Thân đã chịu nhẫn không chống lại mà miệng cũng không rên la, mắng chửi, phàn nàn, nguyền rủa.

* Ý nhẫn: Không căn hờn, oán giận, không nổi lên ý nghĩa phản đối, không có tư tưởng trả thù.

Ngoài ra trong 3 thành phần nhẫn này còn có các tên gọi để chỉ danh những hành động cụ thể như :

* Thuận sanh nhẫn: Không kiêu căng tự đắc trước sự tán thán, cung kính.

* Nghịch sanh nhẫn: Không bực tức thù ghét trước sự chửi mắng, đánh đập.

* Nội pháp nhẫn: Bị phiền não, tham sân áp bức nhưng tự tâm vẫn thanh tịnh sáng suốt không bị nhiễm ô.

* Ngọai pháp nhẫn: Bị những cảnh đói rét khiến thân thể phải chịu đựng nhưng vẫn không than phiền hay có thái độ phẩn uất.

Và 2 loại nhẫn nhục :

  • Nhẫn nhục có chấp tướng: Là nhẫn nhục vì sợ quyền thế, vì đang nằm trong một hoàn cảnh bất lợi, nhẫn nhục vì cầu danh và lợi quyền, vì khinh bỉ đối thủ. Tất có hình thức nhẫn nhục này vì còn do dục vọng, tham sân si mạn, nghi thúc đẩy.\

  • Nhẫn nhục không chấp tướng: Là do ý muốn diệt trừ lòng sân hận, kiêu mạn, tật đố, tham lam, tự biết quay về quán tưởng khi sự việc xảy đến. Đây là các hình thức nhẫn nhục nhằm mục đích trau dồi “Tứ vô lượng tâm”, nhẫn từ ngoài thân đến tâm.

Công năng của Nhẫn nhục:

  • Không làm những việc vô ý thức

  • Bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh, biến cố xảy ra trong cuộc sống.

  • Không trụy lạc theo năm dục.

4. Tinh tấn Ba La Mật

Tinh tấn là không ô nhiểm, không thối xuất, chuyên tâm nhất trí tiến hướng cầu đạo giải thoát và giác ngộ. Ở đây tinh tấn hiểu theo nghĩa đạo pháp là thực hiện “ Tứ chánh cần ” .

Tứ chánh cần gồm có 4 điều:

  • Tinh tấn ngăn các điều ác đừng sanh.

  • Tinh tấn diệt cho nhanh các điều ác đã phát sanh.

  • Tinh tấn làm cho các điều lành phát sanh.

  • Tinh tấn làm cho các điều lành đã phát sanh tăng trưởng.

Tinh tấn có 2 lọai :

  • Tinh tấn có chấp tướng: Là thực hiện sự siêng năng cần mẫn bên ngoài với một dụng tâm không trong sạch như vì danh, vì lợi, vì kiêu căng . . .

  • Tinh tấn không chấp tướng: Là thực hiện với một tâm nguyện sám hối tội lỗi đã làm để quyết tâm sửa chữa để giúp mình và giúp người thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi.

Công năng của hạnh Tinh tấn:

  • Dũng mãnh hăng hái: Diệt trừ được tánh rụt rè, biếng nhác.

  • Không thối xuất: Không chán nản lùi bước trước những hoàn cảnh chướng duyên.

  • Tiến gần đến đạo giải thoát.

5. Thiền định Ba La Mật:

Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không cho tâm tán loạn để tâm thể được vắng lặng và tâm dụng được mạnh mẽ hầu quan sát và suy nghiệm chân lý. Thiền định là danh từ ghép của 2 từ Thiền (tiếng Phạn gọi là Thiền na) và từ Định (tiếng Phạn gọi là Tam Muội)

Các loại thiền định :

  • Quán hởi thở: Đây là pháp ngồi thiền cho hàng sơ cơ, tức là tập theo dõi hơi thở vào hơi thở ra, để cho tâm tập trung vào hơi thở, không nghĩ bông lung với mục đích đối trị sự tán loạn của tâm.

  • Quán hạnh từ bi: Dùng tâm từ bi, quán sát những nỗi khổ của chúng sanh, mục đích để đối trị với lòng sân hận.

  • Quán sự không thanh tịnh: Quán sát con người đều do ngũ uẩn tạo thành với sanh, già, bệnh, chết, để không còn tham đắm vào sắc dục.

  • Quán về pháp nhân duyên: Quán sát vạn pháp đều giả hợp, do nhân dyên mà có, khi hết nhân duyên thì tan rã, để đối trị với lòng tham mê vật chất, tiền tài, danh vọng, của cải.

  • Quán theo niệm Phật: Quán công đức, tướng hảo của chư Phật để dứt bỏ phiền não.

Công năng của pháp môn Thiền định:

  • Loại trừ bớt lòng tham dục: Nhờ quán thanh tịnh.

  • Trừ nóng giận: Nhờ quán từ bi

  • Phá si mê: Nhờ quán nhân duyên

  • Ngăn các phiền não: Nhờ quán niệm Phật

  • Diệt loạn tâm: Nhờ quán hơi thở.

  • Khai phát được trí tuệ vô lượng và an trú trong cảnh giới của chư Phật

6. Trí huệ Ba La Mật:

Là thể tánh sáng suốt có khả năng soi sáng sự vật một cách thấu đáo, tinh tường đến nơi đến chốn không thể sai lầm.

Trí huệ là danh từ ghép của 2 từ “Trí” (phiên âm từ chữ Phạn là Phãna, có nghĩa là quyết đoán) và từ “Huệ” (phiên âm chữ Phạn là Bát nhã, có nghĩa là giãn trạch). Theo Phật học Trung hoa định nghĩa thì: Trí là biết Tục đế và Huệ là biết Chơn đế hay có thể nói: Trí là thể tánh sáng suốt trong sạch và Huệ là diệu dụng xét soi tự tại.

Trí huệ có 2 lọai:

  • Căn bản trí: Là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sanh đã có sẳn, nhưng bị phiền não nhiễm ô che lấp nên chưa phát chiếu ra được.

  • Hậu đắc trí: Là trí huệ có được nhờ công phu tu tập như trì giới, thiền định. Theo Duy thức học sau khi đạt đến địa vị giác ngộ, nghĩa là có được “hậu đắc trí” thì 8 thức được chuyển thành 4 trí :

  • Đại viên cảnh trí: Thức thứ 8 (A-lại-da) có tác dụng chấp trì sanh mạng và chủng tử, khi đạt đến địa vị vô lậu.

  • Bình đẵng tánh trí: Thức thứ 7 (Mạt-na) có tác dụng là chấp ngã.

  • Diệu quan sát trí: Thức thứ 6 (ý thức) có tác dụng phân biệt.

  • Thành sở tác trí: Năm thức còn lại (Nhãn, nhĩ, tỷ, thiêt, thân).

Tuy vậy để đạt được Trí huệ, đức Phật đã chế ra nhiều pháp môn tu, trong đó pháp môn Văn-Tư-Tu là được nhắc nhở và thực hành nhiều nhật với các tên gọi:

  • Văn huệ: Là do tai nghe âm thanh, mắt thấy văn tự mà hiểu được nghĩa lý.

  • Tư huệ: Là do trí suy nghĩ, tìm tòi để rõ được nghĩa lý, hiểu được sự thật.

  • Tu huệ: Là do tu hành thể nghiệm và thể nhập chân lý mà giác ngộ chứng clic sự thật.

Công năng của trí huệ:

  • Diệt trừ phiền não: Phiền não là do mê lầm phát sinh, khi trí huệ đã có thì mê lầm phải mất và phiền não đoạn tận. Như ánh sáng đẩy lùi bóng tối.

  • Chiếu sáng sự vật: Sự vật bị vô minh che khuất, nay trí huệ phát chiếu thì thực tánh của sự vật được phơi bày như thật. Như ánh sáng mặt trời lên thì màn sương tan biến.

  • Thể nhập chân lý: Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì tưởng chừng vạn pháp như sai biệt. Nay nhờ trí huệ hiển lộ thấy rõ được tâm, cảnh đều không nên thể nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.

Trừ mê diệt khổ là nguyên vọng duy nhất của người con Phật. Muốn đạt được nguyện vọng ấy cần phải cương quyết thực hành sáu hạnh độ, chỉ vì chỉ có 6 hạnh độ mới có đủ công năng đưa chúng ta đến bến bờ giác ngộ, giải thoát.

Với chúng ta những con người thuộc hàng sơ cơ, nên khó có thể hành trì ngay tức thời 6 hạnh độ, tuy thế phải ghi nhớ lời Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, do đó mình cũng có khả năng giải thoát và giác ngộ, nếu tự mình chí tâm thì có thể tu hành để phát triễn khả năng giải thoát và giác ngộ sẵn có của mình để từ đó dùng mọi phương tiện nhiếp hóa và giải khổ cho tất cả chúng sanh.

Muốn đạt được quả vị giải thoát, điều tiên quyết ngay từ bây giờ tự mỗi cá nhân chúng ta phải phát triển tín tâm trên con đường bước vào tu tập 6 hạnh độ bằng cách:

1. Phát Bồ đề tâm:

Tức là thực hiện bốn lời thề nguyện rộng lớn:

  • Chúng sanh không số lượng thề nguyện đều độ khắp.

  • Phiền não không cùng tận thề nguyện đều dứt sạch.

  • Pháp môn không kể xiết thệ nguyện đều tu học.

  • Phật đạo không gì hơn thệ nguyện được viên thành.

2. Xem thường tài sản và tính mạng:

Phải mở rộng cõi lòng vì sự lợi lạc chúng sanh làm trọng, phải vui lòng đảm nhận mà không một lời oán than trách móc hay tiếc nuối.

3. Xem chúng sanh đau khổ như chính mình đau khổ:

Phải nhận rõ chúng sanh và mình đều cùng chung một bản thể vô tận tuy có khác hình dáng, tư tưởng, vì giọt nước tuy nhỏ nhưng thể chất vẫn đồng với thể chất của cả đại dương. Phải ý thức được sự sống của mọi loài cũng tương quan mật thiết như thế, để có quan niệm: Chúng sanh đau khổ tức mình đau khổ, cứu chúng sanh tức là tự cứu chính mình.

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát

TKN Nguyên Hồng sưu tập.




EM LÀM ĐỘI TRƯỞNG

EM LÀM ĐỘI TRƯỞNG

15 tuổi, lứa tuổi chưa phải đã lớn, nhưng ở em có nhiều điều thú vị. Với khuôn mặt hoa niên xinh xắn, với nụ cười vô tư tươi sáng – thân thiện – cởi mở, đong đầy tự tin, em thật sự đã được trưởng thành

15 tuổi, em được các bạn đồng đội đề cử làm đội trưởng Đội Sen Lam. Mô hình Đội Tự Trị được Hội Đồng Đoàn giao phó, em điều hành một cách tuyệt vời, hoàn thành xuất sắc

Trong phật sự điều hành đội, em luôn luôn khiêm tốn, không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức sâu rộng, rèn luyện kỹ năng – đạo đức bản thân, yêu nghề đội trưởng, mạnh dạn dấn thân. Trong sinh hoạt đội, các đề tài tu học được tái hiện, em hướng dẫn các bạn thảo luận, cùng nhau bàn bạc đưa ra giải pháp sinh hoạt tuyệt vời thú vị

Với hoài bảo ước mơ to lớn, với tinh thần đồng đội – vị tha, em luôn luôn nghĩ đến các bạn, dành nhiều thời gian – tình cảm, vì các bạn thân yêu. Em luôn luôn là sự ngưỡng mộ, là nguồn động lực, truyền cảm hứng đến từng mỗi thành viên trong đội, thích thú tham gia sinh hoạt đội, tiếp cận nền giáo dục GĐPT. Làm cho mỗi thành viên là những hạt nhân dần dần hé lộ, phát triển tài năng, làm cho các buổi sinh hoạt đầy sinh thú, làm cho môi trường sống chung quanh tốt đẹp đầy ý nghĩa hơn theo từng ngày

Mô hình Đội Tự Trị là sức sống, là đòn bẩy tạo nên sức bật, làm cho đoàn phát triển vững mạnh. Mô hình Đội – Chúng Tự Trị, đúng ra đã được phổ biến. Nhưng nhiều năm qua, chương trình này chưa được xem trọng

Ngành Thiếu Nam GĐPT phải được vững mạnh, phật sự này phải được đặc biệt mở rộng, tổ chức hội thảo lớn đến từng HTr cầm đoàn, xoáy vào trọng tâm, thúc đẩy – xúc tiến – nhân rộng mô hình Đội Tự Trị nhiều hơn

Hội thảo được thành công, là hội thảo có nhiều nhân tố tham gia đề tài, có trải nghiệm xuất sắc, tập trung công trình nghiên cứu có tầm cở, có tư duy – ấn tượng, có khối lượng thông tin cần thiết. Đề tài hội thảo, phải nói lên cho được những vấn nạn, mục đích hướng đến như thế nào. Hầu hết phải được nổi bật, toát lên được mặt mạnh mặt yếu, mặt làm được và chưa làm được, rút ra ưu – khuyết điểm. Từ đó, tạo nên nguồn cảm hứng, cử tọa tâm huyết chia sẻ – lập luận – tranh biện, mạnh dạn khám phá – tìm ra điểm sáng đặc biệt – có giải pháp giải quyết vấn nạn, định hình tiêu hướng hành hoạt, vận dụng dự án phù hợp, đảm bảo chắc chắn sinh hoạt ngành Thiếu Nam vững mạnh – hiện thực hoành tráng




GIA TÀI CỦA MẸ – Trịnh Công Sơn




Nếp sống Gia Đình Phật Tử

Nếp sống Gia Đình Phật Tử

“Sống và viết” như một người huynh trưởng GĐPT là tâm nguyện tôi luôn luôn giữ trong lòng mình. Thật ra “viết” đã là phần của “sống” rồi nhưng tôi chỉ muốn dặn dò mình kỹ hơn. Tôi nghĩ đây cũng là cây kim chỉ nam nên được mang theo trong hành trang của một huynh trưởng GĐPT dù còn sinh hoạt hay vì lý do nào đó đã rời đoàn.

Theo nội quy năm 1951 của Đại hội Huynh trưởng, các điều luật dành cho Thanh Thiếu Niên Nam Nữ và Huynh Trưởng GĐPT gồm:

1. Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện.
2. Phật tử mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống.
3. Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật.
4. Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.
5. Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo.

Những điều luật đó các đoàn viên ngành Thanh, Thiếu và Huynh Trưởng các cấp đọc không biết bao nhiêu lần trong những ngày Chủ Nhật đã qua trong đời mình. Anh chị em nào cũng thuộc nhưng thấm sâu vào nhận thức và chuyển thành cách sống là điều vô cùng khó.

Tôi trở lại thăm văn phòng Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam vài ngày sau 30 tháng 4, 1975. Văn phòng nằm phía bên trái lối vào hẹp của Trung Tâm Quảng Đức, số 294 Công Lý Sài Gòn. Vì chỉ mới vài hôm nên văn phòng BHD còn nguyên bàn ghế nhưng lá cờ đoàn cắm trên giá đã bị lấy đi hay được anh chị nào đó cất đi. Nhìn quanh không có ai quen.

Trung tâm Quảng Đức, trụ sở của Tổng Vụ Thanh Niên GHPGVNTN sau 30-4-1975 đã trở thành nơi sinh hoạt của một nhóm thanh niên sinh viên lạ. Trong thời buổi tranh tối tranh sáng không biết ai là ai. Nhiều “nhà cách mạng 30 tháng 4” chợt từ đâu xuất hiện với khuôn mặt lạnh lùng và có thể vài năm sau chính các “nhà cách mạng” này lại lên đường vượt biển như nhiều người khác.

Tôi chỉ là một đoàn viên GĐPT như trưởng Tâm Kiểm Bạch Hoa Mai thường gọi vui “đoàn viên Thị Nghĩa” mỗi khi trích dẫn một câu nào đó từ bài “Người Huynh Trưởng Thời Đại” của tôi.

Tôi cũng không có liên hệ trực tiếp nào với Ban Hướng Dẫn Trung Ương ở Trung Tâm Quảng Đức. Nhưng mỗi khi có dịp ghé qua đó tôi thường dừng lại vài phút để nhớ tới cậu bé đội đồng niên bảy tuổi ốm o của GĐPT chùa Ba Phong, Duy Xuyên, Quảng Nam, nhớ tới anh Liên Đoàn Trưởng Lê Thanh Hải (cố Hòa Thượng Thích Tâm Thanh), nhớ các anh huynh trưởng thay phiên đến nhà chở tôi đi tập hát mỗi tuần, nhớ những chị trưởng vá giùm tôi chiếc áo. Tôi vắng mẹ như nhiều người biết nhưng tôi cũng vắng chị nữa. Các chị trưởng trở thành chị của tôi và các chị rất thương tôi. Một lần tôi đi học, cổ áo sơ-mi không xếp đúng, một chị trưởng tình cờ gặp trên đường làng thấy vậy gọi tôi lại và nhẹ nhàng bẻ cổ áo ra phía sau cho đều. Một cử chỉ rất bình thường nhưng khi chị đi khuất tự nhiên tôi muốn khóc và nhớ tới giờ.

Sau lối vào là hai hành lang dài bao bọc chiếc sân khá rộng. Trên hành lang đó, cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và cũng là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên đầu tiên đã bước trong những buổi chiều. Tôi nhớ đến Thầy trong bài thơ Hoa Đạo. “Anh” tôi gọi trong bài thơ là trưởng Viên Lạc Phạm Gia Bình:

Anh trở về xin ghé Trại Hàm Tân
Thăm Thầy Thiện Minh
Nhục thể bị phơi giữa rừng già hiu quạnh
Họ tra tấn thầy
Đôi mắt bầm đen
Màu da tím thẫm
Họ giết một người chỉ biết có thương yêu
Bước chân thầy đi
Khập khiễng mỗi buổi chiều
Dọc hai hành lang Trung Tâm Quảng Đức
Vết thương nặng đã nhiều năm đau nhức
Vẫn cố nghiêng người mang Đạo Pháp trên vai
Thầy còn đây với biển rộng sông dài….

(Hoa Đạo, thơ Trần Trung Đạo)

Sau ngày 30 tháng 4, 1975, hệ thống Gia Đình Phật Tử đã trở thành một tổ chức bị đặt ngoài vòng pháp luật không văn bản. Tôi không nhớ đã đọc một quyết định nào của nhà nước CS tuyên bố giải tán GĐPT hay không cho phép GĐPT sinh hoạt. Ngay trong Hiến Chương 1981 của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” cũng không nhắc tới GĐPT.

Nhà nước dĩ nhiên không quên nhưng họ tin rằng dù không giải tán tổ chức GĐPT cũng sẽ tan rã trước cơn bão đỏ đang quét qua mọi lớp tuổi từ các em oanh vũ măng non đến ngành thiếu, ngành thanh cho tới các cấp huynh trưởng từ địa phương đến trung ương.

Họ tin những chương trình “kế hoạch nhỏ” sẽ làm các em oanh vũ nam nữ quên những chiều Chủ Nhật quây quần bên bạn, bên chị, bên anh dưới mái chùa ấm áp.

Họ tin bài hát “Hành khúc đội thiếu niên tiền phong” với những lời đầy sắc máu sẽ làm các em oanh vũ nam nữ quên đi những “Anh em ta về”, “Dây thân ái” thân thương.

Họ tin những “năm điều bác Hồ dạy” sẽ làm các em oanh vũ nam nữ quên những lời hứa chân thành bên dòng suối từ bi “Em tưởng nhớ Phật, em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em, em thương người và vật.”

Họ tin các đoàn viên ngành Thanh, Thiếu Niên và Huynh Trưởng các cấp khi đối diện với một xã hội mới, một chế độ chính trị mới phải có những chọn lựa mới thích nghi.

Sau 30 tháng 4, 1975, một số trưởng vào tù, một số trưởng “ngã lòng”, và thành thật mà nói cũng có một số bỏ đoàn ra đi theo thời thế. Chẳng trách gì ai. Là con người ai lại chẳng có lúc “ngã lòng” và “bỏ đi” nhưng may mắn không phải tất cả đều như thế. Dòng nước trôi xa nhưng phù sa đọng lại.
Khó khăn, đương nhiên là quá khó. Sau 1975, khi về thăm Viên Giác, sư phụ tôi bảo “công việc chính của thầy trong những ngày này là đi thăm nuôi.” Không có “tội” gì nặng chỉ những lý do vặt vãnh như “tổ chức đóng trại không xin phép”, “không đi thủy lợi ngày Chủ Nhật”, “ngủ lại đêm ở chùa không khai báo” v.v…

Nhưng dù áp lực vật chất lẫn tinh thần, dù một số anh chị huynh trưởng đã “ngã lòng”, “bỏ đi”, GĐPT như một tổ chức vẫn tồn tại và duy trì được gần hết các sinh hoạt như trước 1975.

Làm thế nào một tổ chức của thanh thiếu niên Phật Giáo như GĐPTVN lại có thể tồn tại trước một sự thay đổi tận căn bản như xã hội CS?
GĐPT tồn tại nhờ Phật chất.

Phật chất đó là “kính Phật trọng Tăng”, “mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống”, “trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật”, “trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm”, “sống hỷ xả”.

Bản tính con người là hướng thiện. Phật chất không phải là cứu cánh mà là chiếc thuyền đưa con người đến bến thiện. Sau 1975 giữa tiếng loa như hét vào tai mỗi buổi sáng vẫn có tiếng chuông ngân nhẹ nhàng lắng xuống tâm hồn người vào mỗi buổi chiều.

Sống được như năm lời phát nguyện của Thanh Thiếu Niên và Huynh Trưởng GĐPT là điều vô cùng khó. Tuy nhiên, điều luật GĐPT được đặt ra là để hướng tới chứ không phải là những điều kiện để bước vào. Điều quan trọng là mỗi ngày chúng ta nên cố gắng sống theo tinh thần của năm điều luật dù ở đâu, làm gì và vào tuổi tác nào. Những Phật chất quý giá đó đã giữ GĐPT tồn tại sau những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người.

GĐPT tồn tại nhờ “nếp sống GĐPT”.
Nhà thơ Huyền Không (Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Mãn Giác) để lại cho chúng ta hai câu thơ đậm màu lịch sử: “Mái chùa che chở hồn dân tộc , nếp sống muôn đời của tổ tông”.

Tổ chức GĐPT có cơ cấu hình tháp như nhiều tổ chức khác nhưng không sinh hoạt một cách cứng ngắc theo hình tháp mà tạo thành “nếp sống GĐPT” linh hoạt ngay từ mỗi ngôi chùa làng.

Tương tự như “nếp sống” của dân tộc mà Ôn Mãn Giác đã ví trong thơ, “nếp sống GĐPT” là chiếc áo màu lam, bài hát, trò chơi, lửa trại, ánh mắt, nụ cười, lời dặn dò, bài giảng, mái chùa cong, cây đa rợp lá, tình thương bao bọc và trên tất cả là những lời phát nguyện vào đoàn.

Màu lam gắn bó với mỗi đoàn viên GĐPT vô cùng sâu đậm. Cố Hòa Thượng Thích Hạnh Tuấn, một cựu đoàn viên GĐPT và nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ có lần đã ví chiếc áo nâu sồng Thầy mặc là kết quả của “màu máu của con tim hòa với màu lam của GĐPT”.

Sau 1975, “nếp sống GĐPT” như hệ thống miễn nhiễm chống lại căn bệnh thời đại đang tàn phá các giá trị nhân bản của con người. Có nơi không chịu nổi, nguồn sinh lực cạn dần nhưng nhiều nơi đứng được và đã vượt qua.

Dù ít nhưng những hạt mầm sống sót qua mùa bão đã nảy thành những chồi xanh. Những ngọn lau non vẫn hát trên cánh đồng Việt Nam. Ở Mỹ, Pháp, Đức, Úc v.v.. những bài hát sinh hoạt bằng tiếng Việt Nam không dấu cũng được các em cất lên “duong tuy xa nhung tinh bao la”. Đau thương chưa dứt nhưng “hy vọng đã vươn lên”.

Nhưng giống như lòng yêu nước, “nếp sống GĐPT” cũng mang nhiều đặc tính bảo thủ và rất dễ trở thành căn nhà không cửa sổ. Nếu biết mở ra để cùng nhìn về phía chân trời, “nếp sống GĐPT” sẽ hòa nhập vào dòng chảy văn minh để trở thành một “nguồn sống” cho tương lai của GĐPT, cho tuổi trẻ VN và cả cho đất nước Việt Nam.

Thị Nghĩa – Trần Trung Đạo
Nguồn: https://thuvienphatviet.com/thi-nghia-tran-trung-dao-nep-song-gia-dinh-phat-tu/




VƯỜN THƠM RỘN RÃ

VƯỜN THƠM RỘN RÃ

Anh lại về miền cỏ hoa xanh mát
Nơi vườn thơm rộn rã tiếng chim muôn
Đón anh về từ thuở mộng còn ươm
Nơi ký ức một thời thêm trong trẻo

Anh là áng mây trôi lên vạn nẻo
Bục giảng vẫn còn màu phấn chưa phai
Mỗi lời anh khôn lớn mỗi hình hài
Ước mơ bước vào tương lai tươi sáng

Nhớ thuở lều trăng in lên vách núi
Đêm trại Hè nghe sóng vỗ trùng khơi
Anh và em bắt nhịp ca thân ái
Cho tình ngưòi thêm lớn mãi quên thôi

Cho đây gia đình sức sống truyền đời
Nơi muôn thuở là tình lam bất diệt
Nơi ươm mầm tâm hồn yêu đất Việt
Tổ quốc còn đạo pháp mới truyền lưu !

Lan Nhã Lam Trang, nửa khuya 08/5/2018