NGỦ QUÊN TRÊN THÂN PHẬN

NGỦ QUÊN TRÊN THÂN PHẬN

Việt Nam, một đất nước hình cong chữ S, mang dáng hình uốn lượn eo thắt nhọc nhằn khắc khổ. Nhưng thiên nhiên ưu đãi, một dãi lụa xanh biếc biển Đông, tô điểm – làm xinh xắn cuộc đời. Chính nơi đây, một đất nước luôn luôn bị thui chột bởi các nền văn hóa nô dịch, được thổi lồng từ các thế lực vô minh, làm cho đất nước này khốn khó, càng thêm điêu linh cơ cực thêm.

Từ nhiều thế kỉ trôi qua. Những thảm trạng áp bức – bất công – bạo động xảy ra trền miên, dẫn đến đói rét – bệnh tật, thiếu thốn mọi mặt. Xã hội lạc hậu, dẫy đầy hủ hóa – mê tín dị đoan tràn lan. Những tôn giáo Thần quyền, phủ che – sơn phết muôn vàn sắc màu cuồng tín, lừa dối – phỉnh dụ, đè nặng lên nỗi khổ tinh thần nhân loại.

Con người đang ngủ quên trên thân phận nô lệ, đắm chìm triền miên trong bóng tối đêm đen, phó mặc cho các dòng ý thức hệ đoanh vây – tung hoành – giành giật ảnh hưởng, xâu xé lẫn nhau, tha hồ nhã ra biết bao độc tố, làm ô nhiễm độc hại môi trường. Chúng như những kí sinh, rục rịch ngứa ngáy, là ngoi lên bòn rút, làm tê liệt quằn quại sức sống nhân sinh, nhằm mục đích đắp cao thêm quyền lực thống trị.

Xã hội là một quần thể người, được tập hợp sống chung dưới một hệ thống chính trị – kinh tế – văn hóa – giáo dục – tôn giáo… Trình độ dân trí sẽ được thay đổi tùy theo nhu cầu cuộc sống. Chạy đua, để đáp ứng thỏa mãn tiện nghi đời thường. Con người nỡ đành dẫm đạp lên nhau, để tìm vị thế cao hơn. Từ đó việc tranh giành ảnh hưởng, tạo nên thế đứng – cát cứ riêng tư trong xã hội, dẫn đến những cuộc đấu tranh nghiệt ngã, tình trạng an ninh bị đe dọa khắp toàn cầu. Chế độ này sụp đổ, thì chế độ khác khốc liệt hơn, nổi dậy bùng lên. Cứ vậy, mà vòng xoáy nhân duyên cứ mãi thay đổi triền miên, trật tự bị xáo trộn hoàn toàn, hòa bình chỉ còn là sáo ngữ, đời sống con người bị đe dọa – bất an mãi miết.

Để tìm một giải pháp an uổi cho nỗi bức bối nội tâm, con người tìm về với tôn giáo – cầu an, xem đây là nơi chốn ẩn trốn, thụ động – tiêu cực, phó mặc cho dòng chãy trần ai cuộn xiết. Giới thống trị, bất lực trước làn sóng ào ạt hấp dẫn của tôn giáo, lo sợ quyền lực bị lung lay, họ tìm đủ mọi phương cách, tung ra hỏa mù chính trị, nhằm mục đích làm lung lạc – vô hiệu hóa, hoặc ràng buộc khống chế cho được con ngựa chứng bất kham.

Trước những đối xử phủ phàng tệ bạc, xem thường quần chúng, dẫn đến phập phòng âu lo, sẽ có nguy cơ bất đồng bột phát, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nên đã đầu tư thật kĩ càng, tìm ra mọi biện pháp khủng bố hoặc lấp liếm ru ngủ, nhiều loại hình nghệ thuật lôi cuốn quần chúng được đặt ra, xem nghệ thuật như mục đích chính trị, hòng lôi cuốn, đẫy quần chúng vào những thỏa mãn đam mê – ước vọng nông cạn, hòng ngủ quên trên thân phận hèn kém, trốn thoát muộn phiền.

Nhưng đời thì vẫn là đời với vô vàn rối rắm. Trần tục vẫn cứ là trần tục, với nỗi trầm luân tanh tưởi. Lắm lúc thế quyền, cứ ngỡ rằng đã nắm bắt – bó buộc – ức chế được giáo quyền, quản lý chi phối được tôn giáo. Nhưng không, như một con lươn trơn trợt, tôn giáo cứ mãi trôi tuột trên đôi tay vô hồn – bất lực của các nhà thiên tài chính trị. Có chăng chỉ rờ mó được cái đuôi biết ngoe ngoảy của những hình đồng – đội lốt, thoái hóa biến chất, không được tầng lớp thiện hữu tri thức ủng hộ.

“Nhà chính trị sợ nhà văn hóa không ủng hộ mình, mà còn muốn cho mình làm những điều mà nếu mình làm thì mình phải đổ. Vì vậy nên có hiện tượng đàn áp những tư trào văn hóa nào có cơ hội lôi kéo được đa số quần chúng theo, và đang là một sự đe dọa cho sự tồn tại của chính quyền. Chỉ có những nhà văn hóa nô dịch mới được đảm bảo trong chính thể độc tài, còn những nhà văn hóa chân chính, bao giờ cũng bị đe dọa. Khi một tư trào văn hóa lớn mạnh, nhà chịnh trị sẽ không dám đe dọa nữa, và bắt buộc phải vuốt ve, hoặc xoa dịu, hoặc nâng niu” ./-




NGHỀ HUYNH TRƯỞNG

NGHỀ HUYNH TRƯỞNG GĐPT

Huynh trưởng là một cái nghề. Ngoài năng lực ra, còn phải có một tấm lòng thiết tha – đam mê nồng nhiệt với cái Tâm hết lòng phụng sự tổ chức GĐPTVN, mang lại một giá trị đích thực cho xã hội – và sự trường tồn của đạo pháp. Không thể có một Huynh trưởng GĐPT thiếu phẩm chất dưới dạng “cửi ngựa xem hoa”, coi tổ chức như là một chốn nương náu – mua vui – làm đà tiến thủ – thỏa mãn ngã ái – lợi dưỡng cá nhân.

Nghề Huynh trưởng là một nghệ thuật mà người Huynh trưởng GĐPT cần phải thao thức – động não suy tư tìm ra phương pháp hay hơn – thích hợp hơn để tập hợp cho được các em. Từ chỗ không phải làm cho có, từ chỗ có ít làm cho có nhiều hơn. Đây là một tài năng – một trách nhiệm thiêng liêng – nặng nề – to lớn mà người Huynh trưởng GĐPT lãnh đạo đang làm công tác văn hóa giáo dục cần phải quan tâm và cần phải làm mãi miết liên tục trong suốt hành trình làm Huynh trưởng.

Nghề huynh trưởng là một cái “Nghiệp”. Chúng ta biết làm sao để trả cho hết nợ ân tình mà tổ chức yêu thương cưu mang truyền trao – tin tưởng trao phó.

Trong giờ giảng mà chỉ lèo tèo có một số ít Đoàn sinh thì tẻ nhạt biết bao ! Là người Huynh trưởng GĐPT, chúng ta thể hiện đúng đắn lời phát nguyện đầu đời bước vào nghề Huynh trưởng:

“Chúng sinh vô biên thề nguyện độ”

Làm đúng chức năng của mình, Bồ tát dấn thân độ tận chúng sinh mà không hề nản mỏi – không hề từ bỏ một ai.

Phải để cho các em thốt lên cho được tình cảm chân thành:

  • Em luôn luôn nhớ đến Đoàn, nhớ đến các anh – các chị trưởng. Em mong mỏi từng ngày – từng giờ, mong sao mau chóng đến hẹn lại lên – đến kì sinh hoạt, mong sao nhanh chóng đến với các anh – các chị – các bạn đoàn thân thương.

Nếu được vậy, thì đây là kết quả thành công, thể hiện tài năng tuyệt vời của người Huynh trưởng GĐPT đang đứng trên cượng vị làm công tác văn hóa giáo dục có hiệu năng thiết thực.

Các em là mặt sau của chúng ta. Huynh trưởng GĐPT là tấm gương sáng đang phản ánh hình ảnh của chúng ta ở góc độ này hay ở góc độ khác, hãy làm sao cho mặt sau của mình đẹp đẽ hơn lên. Một Huynh trưởng GĐPT giỏi, là người Huynh trưởng có nhiều sáng tạo, mẫn tiệp trước mọi vấn đề, ứng phó nhanh gọn, hiểu rộng biết nhiều, tự tin nhưng không tự tôn, quyết đoán nhưng không võ đoán, lời nói – việc ham tu học – nghe nhiều – ham thực hành – ít nói mới đủ uy lực tạo nên tính cách một Huynh trưởng GĐPT chín chăn – lành nghề.

Người Huynh trưởng GĐPT lãnh đạo Đoàn, chỉ điều hành sinh hoạt ngắn ngủi, mỗi tuần một lần vào ngày chủ nhật. Nhưng hầu như nó vẫn nối tiếp bằng hơi thở, phải luôn luôn làm mới – nóng hổi – hâm ấm lại mỗi ngày. Luôn luôn phải là những nuối tiếc mong chờ ngày hội cuối tuần, dù trong tuần còn có những thời gian trống trãi, vẫn không cảm thấy rơi vào khoảng không trống vắng, không dễ để cho Đoàn sinh đi vào lối mòn quên lãng.

Người Huynh trưởng GĐPT là một chiến sĩ trên mặt trận tâm linh – một kỹ sư tâm hồn – một thiền sinh trên bồ đoàn, đang đối mặt với thực tại vô minh – khai phóng tuệ giác. Phải luôn luôn nỗ lực phấn đấu, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng Đoàn – xây dựng GĐPT vươn lên phía trước. Không lùi bước khi nhắm vào mục phiêu cứu cánh – không xuê xoa trước những sai trái đời thường – không chùn bước trước những xuyên tạc – những kẻ rắp tâm bẻ cong chân lý. Bởi vì trên hành trình đi tìm lẽ sống, mỗi trở ngại – mỗi gian nan đều có giá trị đích thực của nó. Nếu đường đời mà bằng phẳng cả, sẽ là trở lực lớn cho sự trưởng thành và phát triển, đây là cơ sở đánh giá, là thước đo năng lực vốn sống của người Huynh trưởng GĐPT.

Những năm gần đây, nhiều Huynh trưởng GĐPT vững vàng hơn, nỗ lực bám chặc phong trào, góp phần tích cực trong xây dựng sự nghiệp GĐPT, đây là điểm son sáng chói đáng mừng. Hiện tại đang đòi hỏi nhiều Huynh trương GĐPT có tâm huyết, có nhiệt tình, sẵn sàng cống hiến sức mình cho tổ chức.

Tự nguyện khép mình vào tổ chức khi trân trọng gắn lên tim mình một đóa sen trắng, Huy hiệu cao quý GĐPTVN. Một Huy hiệu Hoa sen thiêng liêng bất tử do cố Huynh trưởng Từ Mẫn-Lê Lừng sáng tác, được cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết chấp thuận và đích thân gắn cho Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Hóa Phổ (Thừa Thiên) trong buổi lễ ra mắt, được tổ chức vào lúc 16 giờ – ngày mồng 8 – tháng Chạp – năm Mậu Tý (08-1-1949), nhân dịp Lễ Phật Thành Đạo, cử hành tại chùa Từ Đàm (Huế). Người Huynh trưởng GĐPT nguyện hứa suốt đời trung thành với lý tưởng. Làm việc gì – nói cái gì cũng tự đặt câu hỏi: Phải làm việc gì và để phục vụ cho ai ? Phải toàn tâm toàn ý hòa nhập vào cuộc sống đại thể của tổ chức.

Biết bao cấp Huynh trưởng GĐPT đi trước đã nêu những tấm gương ngời sáng, đã từng xông xáo quả cảm đầy sinh lực – đầy tài năng. Đã thể hiện những hoạt động nóng bỏng trong những giai đoạn gay go nhứt, qua đó đã khắc họa nên những suy tư – những chân dung đẹp đẽ kì vĩ lạ thường. Những con người ấy đã trung thực với cuộc sống và hết lòng vun vén cho những mầm non được nhanh chóng đâm chồi nẩy lộc tỏa hương ngời sắc.

Trong giai đoạn rối ren khắc nghiệt chưa rõ ràng như hiện nay, đòi hỏi người Huynh trưởng GĐPT phải tỉnh thức, nghiêm túc đi đúng hướng, chấp nhận một tác chiến gay go khắc nghiệt khó khăn nhất. Đòi hỏi chúng ta phải thận trọng, không thiếu phần xốc vác – bén nhạy – tinh khôn. Biết bao thử thách cam go đang chực chờ quanh ta, nên phải đòi hỏi ở chúng ta một tài năng – một đức độ sẵn sàng ứng phó.

Nếu mở lại những trang sử sáng ngời ngày qua, làm cho chúng ta không khỏi ngỡ ngàng. Nhưng phấn chấn biết bao, khi thấy có nhiều Huynh trưởng GĐPT tình nguyện hiến dâng đời mình vì sự trường tồn của tổ chức, đã lăn lộn với những giai đoạn khó khăn – uyển chuyển với thời cuộc. Nhiều Huynh trưởng GĐPT đã lãnh đạo phong trào, nhận lãnh gánh vác những gánh nặng, phụ trách nhiều GĐPT địa phương đầy lửa bỏng. Quả thực, đây là những lò lửa, có nơi lên đến cả nghìn độ, rực cháy suốt đêm ngày. Nhưng các anh các chị vẫn hùng lực, trên ngực áo vẫn hiên ngang gắn nổi Huy hiệu Hoa sen sáng chói. Những con người ấy có bao giờ ngơi nghĩ – có bao giờ xuôi tay, mặc dù hiện nay có người đã nằm xuống ! Nhưng các anh các chị vẫn sống đầy ý nghĩa, vẫn tinh khôi trong từng mỗi tâm thức của đàn em.

Là Huynh trưởng GĐPT, chúng ta mong sao, mỗi người tự xác định trách nhiệm, đem đến cho mọi người một niềm tin vững chãi vào đường hướng của tổ chức, và thường xuyên chăm lo làm trong sáng mọi thế hệ – mọi tầng lớp quần chúng – đến các em thân yêu.

Các em đến với chúng ta do một nhân duyên hòa hợp, được gieo tạo từ nhiều đời. Dẫu biết rằng “do duyên mà hợp và cũng do duyên mà tan”. Nhưng “Nghiệp” thì có thể chuyển hóa được. Người Huynh trưởng GĐPT phải có cái Duyên tốt hơn để chuyển hóa cái Duyên xấu ác, tạo nên một cái Duyên mới thiện lành đẹp đẽ, để tập hợp cho được các em, làm “Tăng thượng duyên” cho các em gắn bó với mình – với tổ chức nhiều hơn, mà không vì lý do này – hay điều kiện nào khác mà phải rời bỏ Đoàn. Dẫu mai này do hoàn cảnh – hay điều kiện sinh kế – học tập mà phải ngậm ngùi chia xa, các em vẫn mãi mãi nhớ về, và đủ thuận duyên, dù ở bất cứ nơi đâu, các em vẫn nhanh chóng – thiết tha tìm về với tổ ấm muôn đời. Bởi vì hạt giống chủng tử Như Lai đã được bàn tay lành nghề của các anh các chị chăm bón kĩ càng, cho dù được thả dưới vùng đất nào cũng vẫn nẩy mần vươn cao rợp mát bóng đời. Và cũng bời vì các em là một phần thực thể không thể thiếu trong đời sống của người Huynh trưởng GĐPT.

Đạo Phật là nguồn sống của tất thảy mọi sự sống, tách rời Phật chất thì không nhận chân được lẽ sống như thật, sức sống sẽ tàn phai bởi dục vọng điên cuồng thế tục.

Tinh thần Phật giáo là căn bản của một xã hội người văn minh. Muốn dẫn đến một nền văn minh toàn triệt, con người phải tự quyết định lấy vận mênh xã hội. Con người là chìa khóa mở cửa sự sống. Xã hội được an lạc thanh bình là do mỗi nhân thân tự quyết định. Muốn được vậy, phải lấy văn hóa giáo dục Phật giáo làm nền tảng đào tạo nên một con người toàn diện. Phải hướng cho con người vươn lên tầm cao đạo đức tâm linh, biết tôn trọng phẩm giá – nhân cách tha nhân. Mỗi nhân cách có đạo đức luân lí tốt là có một xã hội yên bình. Sự sụp đổ hoàn toàn về mặt đạo đức – luân lí – tâm linh sẽ dẫn đến một tai họa thảm khốc cho toàn thế giới ./-




NGÀY HẠNH GIA ĐÌNH PHẬT TỬ BỒ ĐỀ

NGÀY HẠNH GIA ĐÌNH PHẬT TỬ BỒ ĐỀ

“ Hiền dịu thay nữ Phật tử Việt Nam
“ Mang vóc dáng Quán Thế Âm bồ tát
“ Vòng tay mở ra, tấm lòng bát ngát
“ Từng cánh sen thơm ấm áp tình Lam …”

Không phải ngẫu nhiên biểu tượng đức Quán Thế Âm bồ tát lại được thể hiện bằng hình ảnh một người nữ. Tấm lòng của người nữ là biển rộng sông dài, chan chứa một tình yêu bao la bát ngát không bờ bến. Luôn luôn cởi mở – vị tha, sẵn sàng bao dung – từ ái, đùm bọc chở che tất cả.

Mọi người con Phật, khi nhắc đến đức Quán Thế Âm, ai ai cũng đều có khái niệm chung là một vị bồ tát tầm thinh cứu khổ, lắng nghe tiếng kêu của cuộc đời mà thị hiện cứu khổ cứu nạn cho tất cả nhân sinh.

Đức Quán Thế Âm biểu hiện cho đức từ bi, còn ngài Văn Thù thì thể hiện cho trí tuệ, đây là hai đức tính vốn có của Phật tánh.

Chúng ta chiêm ngưỡng đức Quán Thế Âm với một tinh thần từ bi, mà còn biểu trưng cho niềm khát vọng tâm linh, trải lòng cứu khổ ban vui cho nhân loại. Chính ý thức tự nhiên này, mà đạo Phật đã gắn liền tinh thần từ bi bao la, qua hình tượng của một người nữ dịu hiền.

GĐPTVN là một tổ chức giáo dục, ứng dụng giáo lý Phật đà để xây dựng hoàn chỉnh nhân cách mỗi nhân thân. Người nữ GĐPT tu học pháp môn nhĩ căn viên thông của đức Quan Thế Âm, là huân tập tự tánh biết lắng nghe – quán chiếu những tiếng đời thở than đau khổ như thật, phát huy trí tuệ sáng suốt, khởi tâm từ bi vô lượng như đoá sen trắng muốt, toả ngát hương thơm trên mặt hồ gợn sóng, thương xót mọi người chung quanh, tùy duyên thị hiện chuyển hoá, đem đến cho tha nhân một nguồn giải thoát – an lạc, chân hạnh phúc.

Muốn thành toàn được công hạnh huyền nhiệm nói trên, người nữ Phật tử phải thực hiện trọn vẹn bốn hạnh bồ tát Quán Thế Âm, đó là Tứ Vô Lượng Tâm : Từ – Bi – Hỷ – xã.

  • Tâm Từ: Là với tấm lòng ban phát an vui bình đẳng, dùng Phật pháp nhiệm mầu làm món hỷ thực, giúp cho mọi người chung quanh chuyển hóa được thói hư tật xấu.
  • Tâm Bi: Là tâm kham nhẫn, thương xót cứu giúp mọi người chung quanh đang đau buồn – khổ sở.
  • Tâm Hỷ: Là tâm tùy thuận, vui mừng khi thấy mọi người vui vẻ đến với Phật pháp, nhờ đó mà họ không còn buồn – không còn khổ – không còn sợ hãi âu lo nữa.
  • Tâm xả: Là làm cho mình và giúp cho mọi người buông bỏ tất cả những tánh hư xấu ác, những vị kỷ hẹp lượng nhỏ nhen, gây nhiều phiền lụy cho kẻ khác.

Khi thể hiện trọn vẹn được bốn hạnh Tứ Vô Lượng Tâm, thì lúc bấy giờ tâm của chúng ta hoà nhập cùng với công hạnh của đức Quán Thế Âm là một.

GĐPT Việt Nam chọn ngày vía đức Quán Thế Âm làm Ngày Hạnh cho ngành Nữ GĐPT. Nhân Ngày Hạnh thiêng liêng này. Ngành Nữ GĐPT Bồ Đề, trang trọng tổ chức Lễ Hạnh, nhằm mục đích cho toàn thể nữ Phật tử ôn lại công hạnh của mình trong thời gian qua.

Kỷ niệm ngày vía đức Quán Thế Âm, kỷ niệm Ngày Hạnh. Toàn thể ngành nữ GĐPT Bồ Đề, ấp ủ một hoài bảo độ sanh rộng lớn, phát nguyện thực tập hanh nguyện lợi tha của đức Quán Thế Âm, thị hiện nghìn mắt nghìn tay – thực sự vào đời, thấy rõ nơi nào còn có một chúng sinh đau khổ, là nơi đó hình ảnh của người nữ GĐPT Bồ Đề có mặt ở đó, đưa bàn tay dịu hiền ấm áp tình thương, xoa dịu thương đau mà giải khổ cho họ. Bằng tâm nguyện từ bi, người nữ Phật tử Bồ Đề ứng hiện mọi diệu pháp thiện xảo, tạo nhiều thiện duyên – khơi nguồn tâm thức, dìu dắt các bạn còn chơ vơ lạc lõng ngoài thế gian ảo hoá, mãi mê lăn quay theo vòng quán tính – lăn lóc trong chốn trần ai nhốn nháo – lặn ngụp mãi hoài trong biển trầm luân, nhanh chóng bước vào đường đạo, tham gia sinh hoạt GĐPT – hướng đến lý tưởng từ bi bình đẳng, vô ngã vị tha, nhanh chóng thiện hoá cuộc đời, nhiêu ích quần sinh.

Philadelphia – PA, 19092552 – 17102008.




Nữ Huynh Trưởng Huyền Trang

Nữ Huynh Trưởng Huyền Trang !

Em là 1 Nữ Huynh trưởng trẻ mới hoàn tất Huyền Trang, được giới thiệu về đây thực tập Liên Đoàn Trưởng.

Tài năng bộc lộ từ tuổi trẻ ! Em tinh cần bám sát đơn vị, ý thức được lý tưởng – trách nhiêm. Em miệt mài đối mặt trước gian nan – không nề hà mệt mỏi. Em đem hết tâm huyết phụng sự. Em nỗ lực thực tập – em tài tình ứng dụng chương trình tu học được – ứng dụng tinh thần thân cận xứ: Tiếp cận Thầy Trụ trì – tiếp cận phụ huynh – gần gũi thân thiện đàn em.

Sau gần 3 tháng em đã thu hút trên 60 đoàn sinh – trang bị đồng phục đầy đủ, hoàn chỉnh 1 đơn vị GĐPT. Đây là công đức của em. Em xứng đáng thừa hưởng cái gia sản do em chắc chiu tạo dựng ! Em xứng đáng là con chim đầu đàn tại 1 đơn vị GĐPT mà em đã bỏ ra biết bao công sức ắp ủ – tận tụy nuôi dưỡng – chăm chút – nâng niu – thai nghén, để được khai hoa – nở nhụy thành tựu xuất sắc !

Rất đáng khen 1 Nữ HTr trẻ tân khoa Huyền Trang – xứng đáng tuyên dương – xứng đáng được quan tâm bồi dưỡng trọng dụng vào các chức danh… tạo nhiều thuận duyên cho HTr trẻ được cống hiên – phát huy tài năng !

Houston, 27052024




NỖI LÒNG ĐÓN TRUNG THU

NỖI LÒNG ĐÓN TRUNG THU

Cũng như mọi năm, Tết Trung Thu năm nay, chúng tôi (anh trưởng BHD và tôi), đánh xe đi một vòng, thăm các đơn vị nằm trong trung tâm thị xã. Mỗi đơn vị có mỗi hình thức tổ chức khác nhau, nhằm mục đích, tạo nên một sân chơi ắp đầy sinh khí, cho các em vui đón Trung Thu. Có nơi tổ chức múa lân, có nơi cho các em hái hoa phật pháp, có nơi thực hiện các trò chơi dân gian. Đặc biệt, lồng vào đó, đơn vị nào cũng có xen kẻ một chương trình văn nghệ bỏ túi – quanh đèn.

Xúc động nhất và cũng thể hiện sự ấm cúng nhất, quanh sân chùa, bất chấp vì sự vô tâm trước niềm vui của tuổi thơ, toàn bộ khu vực bị mất điện, hoạt cảnh Hằng Nga – Hậu Nghệ và chú Cuội vẫn được diễn ra trong ánh đèn cầy lung linh, từng tràng vỗ tay của đoàn sinh và khán giả tại khu phố nhiệt liệt tán thưởng. Và một hình ảnh thật dễ thương, trong ánh mắt từ bi đong đầy nụ cười hiền hòa trìu mến, tiếng vỗ tay của Thầy cũng hòa vào tiếng đồng ca cùng các em oanh vũ.

Đơn vị cuối cùng mà chúng tôi đặt chân đến, một đơn vị đang bị thế lực vô minh toa rập với cường quyền, ngông cuồng đánh phá khốc liệt. Chúng tôi rất cảm động trước sự đón tiếp nhiệt tình của Ban hộ tự – Ban Huynh trưởng và các em đoàn sinh nơi đây. Đứng trước nỗi đau dằn xé thách đố ý chí này, Ban hộ tự vẫn sát cánh hổ trợ Ban Huynh trưởng, tổ chức một đêm Trung Thu hoành tráng cho các em chung vui. Sự tồn tại vững chắc như kim cương của GĐPT hôm nay, đã nói lên tinh thần vô úy – đoàn kết chặc chẽ, mà không một thế lực đen tối nào dã tâm cuồng bạo làm rệu rã được. Toàn thể Huynh trưởng – Đoàn sinh, thà chết vì chánh nghĩa, chứ không nỡ đành đang tâm, khom lưng cúi đầu nô dịch ngoại nhân – tà kiến.

“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
“Trần thế em nay chán nữa rồi
“Cung quế đã ai ngồi đó chữa
“Cành đa xin chị nhắc lên chơi
“Có bầu có bạn can chi tủi
“Cùng gió cùng mây thế mới vui
“Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
“Tựa nhau trông xuống thế gian cười”
– Tản Đà –

Trong niềm vui của tuổi thơ, vẫn còn phảng phất đâu đó tâm sự của Tản Đà, có phải ông đã thẩm thấu và cám cảnh được nỗi thực tại của nhân tình thế thái:

Hằng Nga (chữ Trung Hoa: 姮娥), còn gọi là Thường Nga (chữ Trung Hoa: 嫦娥), hay đơn giản là chị Hằng, là một nhân vật thần thoại truyền thuyết của người Trung Hoa:

Hằng Nga là một tiên nữ bất tử giữa thiên cung, bị đày đọa xuống nhân gian, để sống một cuộc sống con người thế tục. Trước nỗi bất công của Thượng đế, với cánh cung tài năng, Hậu Nghệ đã hạ gục chín thần mặt trời, đã từng gian hiểm gieo rắc biết bao âu lo thảm khốc cho nhân loại. Hậu Nghệ chuẩn bị hạ tiếp ánh mặt trời cuối cùng, Hằng Nga bất chợt xuất hiện, can ngăn không cho bắn nốt. Với tham vong vô minh không đáy, Hậu Nghệ trở thành một bạo chúa. Hằng Nga buồn bã bỏ đi, vượt qua cửa sổ, bay vào cung trăng – nơi chan hòa ánh sáng của chân lý – đạo dức kỳ vĩ. Hậu Nghệ vẫn ngông cuồng bắn theo, nhưng không đạt được mục đích !…

Lam nhã Thảo am, 15082554 – 22092010




NÓI THẬT

NÓI THẬT

Nói thật, là nói lên một sự thật hiện có đang diễn ra thường nhật.

Cuộc đấu tranh cho sự thật, là cuộc đấu tranh tự thân. Tự mình có dám sống thật, nói thật, không thỏa hiệp với những sai trái.

Vì muốn cho qua, an phận thủ thường, nhanh chóng suông sẻ trong công việc, chúng ta đã từng thỏa hiệp với sự gian dối, xuê xoa cho rằng đó chỉ là việc nhỏ. Chúng ta xót xa trước những bất công, kém văn hóa, nhưng lại thiếu mạnh dạn, dễ dãi buông xuôi cho qua, vì sợ đụng chạm, sợ bị trù dập, làm trở ngại trong việc xin xỏ, chạy chọt trong sự nghiệp tiến thân.

Sự thật không đánh giá được qua lời nói ồn ào, qua hứa hẹn hót suông, hay vì vong ngã, muốn nâng cao phẩm giá riêng tư, lợi ích cá nhân. Sự thật là cái giá trị tự thân, là cái kết quả được thể hiện qua hiệu năng hiện thực từ việc làm cụ thể, để đánh giá được một con người.

Bảo vệ giá trị truyền thống, hay chạy theo lợi ích vọng ngoại, đây là mâu thuẩn nghiệt ngã, là thách thức lớn, cần phải luôn luôn đấu tranh liên tục triệt để, để trả lại sự thanh sạch hoàn toàn. Trong công cuộc đấu tranh cho sự thật, lắm lúc chúng ta cảm thấy cô đơn, mềm lòng thua cuộc, dễ dàng yên phận thỏa hiệp, thì làm sao ươm mầm được sự thật, cải tạo môi trường, xây dựng nên một xã hội trung thực ./-




NỀN GIÁO DỤC KHAI PHÓNG

NỀN GIÁO DỤC KHAI PHÓNG

“Phật dạy giáo pháp chỉ một âm,
Mà mỗi chúng sanh tùy bậc hiểu”

Dù Phật pháp là một chứng nghiệm chân lý như thật, được trình bày khúc chiết, hàng Tiểu thừa tùy căn tánh – khả năng mà ngộ nhập khác nhau. Với kiến chấp đạo đoạn – tư duy hẹp hòi – kiến giải nông cạn, tạo nên muôn sai ngàn khác

Trong xã hội, dẫy đầy các hệ thống giáo dục. Tùy theo sắc thái, nhu cầu của mỗi tư trào văn hóa, mà định hình một hệ thống giáo dục, nhằm mục đích phục vụ cho dòng ý thức lập dị khác nhau

Nhưng bên trong từ mỗi nhân thân, còn có lương tri, còn có ý thức giác ngộ nhân chủ. Thì sự vươn lên để vượt thoát, tìm ra ánh sáng chân lý, chỉ còn là thời gian

“Làm thầy thuốc mà lầm, thì giết một người
“Làm địa lý mà lầm, thì giết một họ
“Làm chính trị mà lầm, thì giết một nước
“Làm văn hóa mà lầm, thì giết muôn đời”

Giáo dục có một định hướng đúng đắn, tri thức sẽ được nâng cao. Thiếu giáo dục, con người trở thành thứ phẩm, có một cuộc sống kém cỏi hạ liệt. Giáo dục là một nền tảng tối cần thiết, để phát triển xã hội. Xã hội có mức sống nâng cao – tốt đẹp hay không, là tùy thuộc vào nền giáo dục đó, có được tiến triển theo chiều hướng thiện hóa giác ngộ giải thoát tốt đẹp, hay nô dịch thoái hóa. Một xã hội thiếu giáo dục, là một xã hội, có cuộc sống ngang tầm với súc vật, chỉ biết có gầm gừ – đay ngiến – giành giật – xâu xé – dẫm đạp lên cuộc sống lẫn nhau. Nhìn vào phong cách sống của mỗi cộng động, sẽ đánh giá được trình độ giáo dục của xã hội đó, và cũng đánh giá dược mực độ tồn tại – tiến triển hay thoái hóa tụt hậu

“Do từ si mê sinh ra ái, từ đó mà bệnh tôi phát sinh. Vì tất cả chúng sanh bệnh, nên tôi bệnh. Nếu bệnh của chúng sanh không còn, thì bệnh tôi không còn. Vì sao? Vì Bồ tát đi vào trong sanh tử vì lợi ích chúng sanh. Vì có sanh tử nên có bệnh. Nếu chúng sanh không còn bệnh thì Bồ tát không còn bệnh. Ví như ông trưởng giả chỉ có một người con. Nếu người con bệnh thì cha mẹ bệnh theo, nếu con lành bệnh thì cha mẹ lành bệnh. Bồ tát cũng như thế, thương tất cả chúng sanh như con. Nếu chúng sanh bệnh thì Bồ tát bệnh, nếu chúng sanh lành thì Bồ tát lành”

Sở dĩ Phật giáo bị bệnh hoạn – ốm yếu triền miên, xa rời thực tế, thiếu vắng bóng dáng người chứng ngộ, cửa thiền trở thành nơi mua bán – cầu xin – hơn thua danh lợi, làm mất đi sức sống tươi trẻ, không đáp ứng thỏa đáng nhu cầu bức thiết – niềm kỳ vọng của nhân loại

Hơn hai mươi sáu thế kỷ trôi qua, những người học Phật và tu Phật, đều nhìn Đạo Phật với cái nhìn hướng về nội tâm, nằm ì ở phần thâm diệu cao siêu khó hiểu. Dẫn đến còn đang tâm đẩy lùi Đạo Phật vào chốn vong thân tối tăm thui chột, làm biến thái mê hoặc mụ mẫm, lừa phỉnh mọi người, “Cuồng hoa vô quả” tu thì nhiều, nhưng không thăng hoa được tri thức và đạo đức bao nhiêu, xa rời xã hội, tách biệt thực tại. Nhưng xã hội là một vấn đề bức thiết, cần phải tích cực giải quyết về mặt nhân sinh, mà đức Phật đã thể lòng từ mẫn, suốt bốn mươi lăm năm ròng rã hành đạo

“Đừng biến Đạo Phật thành một tổ chức có uy quyền thế lực, có giáo đường vàng son, có điện ngọc thâm u. Đừng biến tăng sĩ thành những con người vô tư, với những ưu đãi vụ lợi, chối từ nhiệm vụ thiêng liêng, thực hiện giải thoát và phụng sự con người”
– Nhất Hạnh – Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời –

Từ nơi sâu thẳm nhọc nhằn tột cùng, đất trời đã bao dung, ban tặng cho Việt Nam một kho tàng văn hóa đạo đức trân quí, đó là Đạo Phật – đó là GĐPTVN. GĐPTVN là một tổ chức giáo dục, có nền văn hóa kỳ vĩ, có uy lực làm sạch ô nhiễm, tô đẹp cuộc đời

Kinh Đại Bát Niết Ban Đức Phật đã dạy: “Hãy tự nương tựa chính mình, đừng nương tựa vào cái gì khác ngoài mình”. Đạo Phật là đạo tu lấy cái Tâm của mình. Hãy tự nổ lực để tự khai phóng ô nhiễm – thanh sạch tự tâm Đứng trước một nền văn hóa – giáo dục rối bời – rách nát, buông rơi đạo đức tâm linh, xem thường nhân nghĩa, bại hoại gia phong. Thì nền văn hóa – giáo dục ưu việt của tôn giáo, mà cụ thể là Phật giáo, cần phải nhanh chóng được đặt lại. Chỉ có nền giáo dục vô ngã – vị tha – khai phóng của Phật giáo – của Gia Đình Phật Tử Việt Nam, mới đủ năng lực huyền nhiệm làm được chức năng thiêng liêng, là giáo dục đạo đức, nâng cao phẩm cách của con người đến toàn diện. Hãy mở rộng vòng tay đón nhận tất cả. Phải thực sự là tổ ấm, tạo điều kiện cho thanh – thiếu – nhi bước vào, thể nhập cuộc sống. Giúp cho tuổi trẻ tự tin, phát tỏa nhiệt năng, phát triển nhân cách, nhận thức được cuộc sống sáng sủa, tràn đầy tươi đẹp, có nhiều ý nghĩa. Không còn tự ti – mặc cảm bị hất hủi – bỏ rơi…

Giáo dục trong GĐPTVN, là một hệ thống giáo dục ngoài trường học, giáo dục nhân cách đạo đức toàn diện. Ứng dụng giáo lý Phật Đà vào nền giáo dục GĐPT, nhằm mục đích rèn luyện mỗi nhân thân trở thành một nhân tố tích cực trong xã hội, một hiền tài cho dân tộc, một con người trên mọi người

Cái học của GĐPT, là cái học làm bùng vỡ vô minh – đánh thức giác tính: “Khai thị chúng sinh – ngộ nhập Phật tri kiến”, để tạo nên một chuyển biến mới – trở thành một người Phật Tử Mới – Chân Chánh, thông qua tuệ giác để chắc lọc bằng trí tuệ siêu việt. Đức Phật đã dạy: “Mỗi người phải được giác ngộ, rồi mới đi đến giải thoát”. Giác ngộ là nhận chân được thực tướng, thanh lọc ô nhiểm, đập nát vô minh, phá vỡ kiến chấp, lúc bấy giờ mới được giải thoát, an lạc – tự tại hoàn toàn
Qua các bậc học, các trại huấn luyện. Rèn luyện – nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, biết gát mình qua một bên, phát triển tinh thần vị tha, đủ khả năng – đủ bản lĩnh, đảm nhận được các nhiệm vụ mà tổ chức trao phó, đủ tư cách đảm nhận trọng trách thiêng liêng, đem đạo vào đời, giáo dục thế hệ mai sau

Phật pháp, là một pháp bảo tối thượng, muốn học được, phải học bằng cái tâm tỉnh thức, với phong cách của một thiền sinh đang đối mặt trước công án, khám phá vùng tâm thức biến động, điều ngự nội tâm, định hướng một thực tại trong sáng. Phật pháp là một môn học xuất thế gian, không với cái tâm tỉnh thức – khao khát, không với bộ óc siêu thế gian, thì khó mà thức ngộ được chân đế diệu kì
Phật pháp là một hành trình sống, lội ngược dòng đời, người thức giả tài tình, phải có một năng lực quán chúng, dẫn dắt tư duy, tạo nên một chuyển biến kỳ vĩ, giúp cho mỗi hành giả hội nhập kho tàng pháp bảo vô biên

Tư tưởng bất nhị bàn bạc suốt bộ kinh Duymacật: “Nhãn và sắc là hai, nhưng nếu biết nhãn đối với sắc không tham – sân – si thì đó là tịch diệt… cho đến ý với pháp là hai, nhưng ý đối với pháp không tham – sân – si thì đó là tịch diệt, sống trong ấy là nhập vào pháp môn Bất nhị”. Bất nhị có nghĩa là không hai, nhưng không phải là một, một trạng thái tịch diệt – buông xả hoàn toàn. Dưới cặp mắt nhị nguyên, còn nhìn thấy có bên này – bên kia, để rồi tự chìm nghĩm giữa dòng đối kháng

GĐPTVN tiếp thu nguồn tinh hoa vị tha rộng lớn, tiếp hiện vào đời, noi theo dấu chân thơm của đức Phật làm một cuộc cách mạng. Cách mạng của Đạo Phật, là không phải ở bên này hay bên kia dòng đời, vì ở mỗi dòng đều có dẫy đầy khổ đau, trộn lẫn bám víu vào nhau, nhận chìm sinh linh đến đọa đày đau khổ. Cách mạng của Phật giáo, là một con thuyền lội ngược dòng đời, cởi lên trên sóng khổ, trãi lòng từ bi – giải phóng nhân sinh vượt qua vũng xoáy mê vọng xa rời tự tánh

“… Khi giáo hóa chúng sinh… không ở bên này, chẳng đến bên kia cũng không ở giữa dòng… Không là đây, cũng không là kia, không lấy đây, không lấy kia… Không ở phương nào cũng không xa lìa phương nào, không phải hữu vi cũng không phải vô vi… Không phải đã tồn tại, không phải sẽ tồn tại, không phải đang tồn tại; không thể bằng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt

“… Thân Như Lai như vậy, nên quán như vậy. Quán như vậy gọi là chánh quán. Quán khác đi, gọi là tà quán”

Cái quan niệm cách mạng của thế gian, là tìm thời cơ trong thúc đẩy biến động, chối bỏ bờ bên này, để tìm qua bờ bên kia khác hơn. Xóa bỏ dòng ý thức hệ này, để rồi áp đặt dòng ý thức hệ khác nặng nề hà khắc khốc liệt hơn, nó chỉ có tính chất giải quyết ở phân đoạn, do đó cái gốc rể vẫn cứ tồn tại nẩy mầm, để rồi lại tiếp tục đối kháng

Đạo Phật là đạo chứng ngộ trong cuộc đời, biết bao tôn giáo đi trước và sau này, chưa có ai có thể vươn tới được. GĐPTVN đã thấy những cái mà ít người thấy được, đã hiểu những cái mà ít người hiểu được. Cố gắng khởi động nên một nền văn hóa giác ngộ – giải thoát kỳ vĩ, đem những cái đã thấy đã hiểu được, truyền trao lại cho thế hệ đàn em, gieo lại niềm tin tưởng, uốn nắn tâm tư, thuần hòa cuộc sống, hầu làm sáng tỏ phần nào ý chỉ của Như Lai, khỏi nhục lý tưởng xuất thế Muốn có được một xã hội tốt đẹp, là phải có những con người tốt đẹp. GĐPTVN đang hoàn chỉnh một nền giáo dục mới: Vô ngã – xả kỉ – vị tha – khai phóng – giác ngộ và giải thoát. Tập trung vào quỹ đạo giáo dục, mà tuổi trẻ là đối tượng cứu cánh để đặt lại đúng đắn vị trí làm người. Thiếu vắng sự hướng dẫn của Đạo Phật – của GĐPTVN, thì chưa có thể nói là cải tạo – cải cách, là cách mạng làm nên một xã hội thịnh lạc toàn triệt

“Con người là hơn cả, có thể thực hiện được tất cả những sự tốt đẹp”
– Kinh Hoa Nghiêm –

GĐPTVN đã đóng góp một vai trò rất quan trọng sự nghiệp phát triển giáo dục, góp phần tích cực trong xây dựng Đạo pháp và dân tộc. Sự đóng góp nhiệt thành của bao lớp Huynh trưởng GĐPTVN không phải là nhỏ. Nhưng cái công thầm lặng thiết thực này, chưa được trân trọng nhìn nhận một cách khách quan và công bằng. Nếu không có GĐPT làm nhịp cầu nối liền giữa thế hệ trẻ với thế hệ người lớn tuổi, thì thử hỏi văn hóa đạo đức Phật giáo có được phổ biến rộng rãi đến từng ngõ ngách của mọi đời sống tâm hồn thơ trẻ? Nếu GĐPT không Phật hóa trong các hoạt động văn hóa – văn nghệ – giáo dục – vui chơi – giải trí… thì dù các cấp chức năng, có đủ năng lực diệu thủ nghìn mắt – nghìn tay, cũng chưa chắc đã nắm bắt được hết các vấn đề bức súc, các nhu cầu cấp thiết nãy sinh trong đời sống dân sinh

Với hạnh nguyện kỳ vĩ “Ngũ trược ác thế thệ tiện nhập”. Như một chiến sĩ trên mặt trân tâm linh, dẫy đầy cam go khắc nghiệt, Huynh trưởng GĐPTVN sẵn sàng đối mặt với thực tại phủ phàng, như những con tằm, miệt mài với thiên chức, thắt ruột nhã tơ, để mai này trao lại cho đời những sản phẩm trác tuyệt

Giáo dục GĐPT là một sức mạnh, soi rọi vào các mặt tiêu cực xã hội, là mũi xung kích sắc bén làm sạch ô nhiễm, đem lại trong sáng cho đời. GĐPTVN là con thuyền đi ngược dòng đời, lật tung – phá vỡ mọi tệ đoan lạc hậu đang vây bủa làm rệu rã dòng đời. Cái tốt lúc nào cũng lột trần cái xấu, cho nên cái xấu rất khó chịu – khó chấp nhận được

“Như một du sĩ, khi nhìn thấy chỗ nằm như dáng hình sư tử. Ông ta không hài lòng thốt lên: – Ta đã nhìn thấy một điều xấu xa, đó là dáng nằm của samôn Gotama, một kẻ tàn hại sự sống. Ông ta gọi Đức Phật là một kẻ tàn hại, kẻ hủy diệt thế gian. Vì Đức Phật đã thẳn thắn chỉ rỏ bản chất dục vọng điên cuồng, thế nào là vị ngọt nguy hiểm của dục vọng và chỉ rỏ con đường thoát khỏi sự ràng buộc của dục vọng”
– Tuệ Sĩ – Phương Tiện Thiện Xảo –




LỜI THẬT TRÁI TAI

LỜI THẬT TRÁI TAI !

Ở mỗi tổ chức, còn có quá nhiều điều bất cập – đáng tiếc xảy ra, chưa thể hiện trọn vẹn tính nhân chủ công minh. Còn có nhiều bộ óc hẹp lượng – thủ cựu – cố chấp – chưa thoáng. Cho mình là lãnh đạo cấp cao, khi phán quyết một điều gì, thì áp đặt đối tác phải phục tùng – tuân thủ, nếu có ý kiến xác minh lại vấn đề, để tìm ra sự xác đáng – đúng đắn, thì vội vàng chụp mũ là bất tuân – không chấp hành tổ chức.

Ôi! buồn bã biết bao, khi mình làm sai, mà không biết là sai. Nếu có ai đó góp ý – phê bình, thì hàm hồ bảo thủ, lên giọng quyền lực – kẻ cả – lấn át, đánh giá người thấp cổ bé miệng là vượt cấp – không tuân thủ – xem thường tổ chức.

Cái đáng tiếc là, sự đóng góp ý kiến chân thành của thế hệ trẻ, không được trân trọng – lắng nghe – tiếp thu, mà còn bị coi là trẻ người non dạ – ngựa non háu đá. Không chú ý phát hiện tài năng trẻ, không quan tâm bồi dưỡng, tạo điều kiện cho tuổi trẻ tiếp cận – vươn lên. Thiếu tin tưởng, mà lại còn lo lắng vu vơ, e ngại nếu lỡ trao lầm thì sẽ đem lại di hại.

Là một tổ chức giáo dục, mang tính nhân bản rất cao, lấy con người làm đối tượng giác ngộ. Tính nhân chủ được đặt lên hàng đầu: “Các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi” – “Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành” – “Nhân thành tức Phật thành”. Hình thành nhân cách của mỗi người, sẽ đánh giá được sự thành tựu một vị Phật tương lai. Đức Phật đã phóng khoáng cho phép đệ tử của ngài, cần phải xét lại, dù điều ấy đã được truyền tụng lâu đời, đã được một đạo sư truyền trao dạy bảo…

Những vấn đề nêu trên, nếu được thẳng thắn đặt ra, sẽ có những ai đó chạnh lòng, sẽ cho rằng, tại sao lại nêu lên chi những cái tồi tệ của mình, nói xấu tổ chức, vạch lá tìm sâu, vạch áo cho người xem lưng. Lo sợ ngoại nhân biết được cái xấu của mình mà xem thường, mà chê cười. Tại sao lại can ngăn – tủi hổ che mặt, không mạnh dạn thố lộ sự thật, nói lên cho được những cái sai lầm, để mà thấm thía, để mà sửa sai.

Là một gã cuồng tử, từ tục đế mà vươn lên, có ai tự hào là mình đã sạch trong, ai mà không ít nhiều còn lấm lem – lầm lỗi. Nhưng có lỗi lầm – có sai sót mà biết quán chiếu để sửa sai, thì đây là điều đáng quí, đáng trân trọng nêu gương. Ở trong mỗi chúng ta còn có quá nhiều di căng – dị tật, nhiều chướng duyên, nhiều chứng bênh nghiệt ngã khó gột rửa, khó điều trị. Không nên lấp liếm – dấu diếm – che đậy nữa, mà cần phải nhanh chóng được phơi bày, bắt mạch – kê toa – bốc thuốc, chữa trị kịp thời. Phải thể hiện đầy đủ tính nhân chủ, tinh thần tự do dân chủ – tự do ngôn luận, mạnh dạn nói lên sự thật. Nếu tinh thần này được phát huy cao, thì sẽ là liều thuốc quí, nhanh chóng được chữa trị, làm khôi phục chứng bệnh nan y. “Thuốc đắng đã tật – lời thật trái tai”. Nếu được như vậy, kỳ vọng mai này tổ chức sẽ được làm mới – lớn mạnh – vững vàng biết bao !




LỢI THA

LỢI THA

Tứ nhiếp pháp:
• Tứ: là 4.
• Nhiếp: là thu phục.
• Pháp: là phương pháp.
• Lợi tha: là làm lợi ích cho người khác.

Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp lợi tha để giúp tất cả chúng sinh biết quay về với Phật pháp chân chính và sống an lạc hạnh phúc ngay bây giờ và tại uế độ này.
Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp, là bốn loại hình giúp Huynh trưởng GĐPT ứng dụng trong quá trình làm phật sự văn hóa giáo dục – chuyển hóa quần sinh. Đây là phương pháp gieo duyên – tạo nên mối giao cảm dễ dàng tiếp cận tha nhân – thu hút quần chúng.

1. Bố thí:
• Bố: là ban phát.
• Thí: là cho – là giúp đỡ.

Bố thí là phân phát – giúp đỡ những điều mà mọi người cần thiết. Cho mà không tính toán – không có ý đồ vụ lợi đòi hỏi báo ân. Cho với cả tấm lòng nhiệt thành mong mõi niềm hạnh phúc đến với mọi người.

Có những người bất hạnh gặp khốn khó cần sự giúp đỡ, chúng ta không nề hà – không chần chừ tiếc nuối, sẵn sàng ban phát cứu khổ kịp thời.

“Dù xây mấy bậc phù đồ
“Không bằng làm phúc giúp cho một người”.
-Ca dao – tục ngữ-

Với tấm lòng vị tha rộng rãi khoáng đạt, sự hào phóng không toan tính lọc lừa, dễ dàng thu phục nhân tâm.

“Phụng sự chúng sinh tức là cúng dường chư Phật”.

Bố thí là một trong sáu hạnh Ba-la-mật-đa (Lục độ), một trong Thập tùy niệm và là một đức hạnh quan trọng để nuôi dưỡng Công đức.

Bố thí được xem là phương tiện để đối trị tính tham ái, vị kỉ và được thực hành để tránh khổ đau của đời sau. Theo Đại thừa, bố thí là biểu hiện của lòng Từ bi và là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh đến giác ngộ.

Bố thí Ba la mật có ba loại: Tài thí – Pháp thí và Vô úy thí.

– Tài thí chia ra hai loại: Ngoại thí và Nội thí.
a. Ngoại thí: là bố thí những đồ vật bên ngoài như: vàng – bạc – của cải – quần áo – đồ ăn thức uống…

b. Nội thí: là bố thí những gì trong thân thể con người chúng ta, như xưa kia đức Phật còn là Bồ Tát đã bố thí đầu – mắt – chân – tay… Nếu chúng ta không làm được như vậy thì có thể ra công giúp sức như làm công quả cho chùa, kéo xe cho người già, v…v… Hoặc tiếp máu cho bệnh nhân, hoặc ký giấy cho những bộ phận trong thân thể khi bị chết bất đắc kỳ tử.

Bố thí tài vật thành tựu đước tính từ bi.

– Pháp thí gồm có:
a. Lời nói chân thật hữu ích đem lại an lạc cho người nghe.
b. Giảng dạy đúng chánh pháp.
c. Giảng dạy ba Tạng pháp: Kinh – Luật – Luận.
d. Giảng dạy hai pháp: Thanh văn và Bồ Tát.

Bố thí pháp thành tựu trí tuệ.

Vô úy thí:
Vô úy có nghĩa là không sợ.

Vô úy thí là bố thí sự không sợ hãi, làm cho người khác được an tâm yên chí – không sợ – hết sợ, đem lại sự bình an cho người.

Ðời sống đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Làm cho người bình tĩnh – tâm an – hết sợ, chính là đã cứu cho họ bớt đi quá nửa khổ đau trong kiếp sống.

Thực hành pháp môn vô úy thí, Huynh trưởng GĐPT thực tập đức tính không sợ gì cả. Người Huynh trưởng GĐPT chân chính, hiểu rõ giáo lý Phật đà, thì còn sợ nỗi gì ? Tiền của không tham cho nên không sợ mất, danh lợi không màng nên không sợ thiếu, sanh mạng là giả tạm nên không sợ chết. Với tâm lý đó mà cõi lòng luôn luôn không xao động, luôn luôn bình tĩnh trước mọi sự đổi thay – gian nan nguy hiểm. Huynh trưởng GĐPT tu hạnh thí vô úy, luôn luôn tĩnh tại – trí tuệ, sẵn sàng vào nơi nguy khó để hóa giải “Ngủ trược ác thế thệ tiên nhập”…

Bố thí vô úy thành tựu uy lực hùng dũng.

2. Ái ngữ:
• Ái: là yêu thương – yêu mến – yêu quý.
• Ngữ: là lời nói.

Ái ngữ là lời nói dễ thương truyền cảm đi vào lòng người – cuốn hút người nghe, nhíp phục đối tượng.

“Chim khôn hót tiếng rổn rang
“Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”.
-Ca dao-

Khôn ngoan trong giao tiếp, thể hiện lịch thiệp – nhã nhăn trong ứng xử. Không xem thường đối tượng là kẻ dưới – là người khờ khạo thiếu nhận thức. Phải tôn trọng cử tọa – không lên mặt kẻ cả – tỏ vẽ trịch thượng quyền uy phách lối dễ làm mọi người e dè khó gần.

“Lời nói không mất tiền mua
“Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
-Tục ngữ – ca dao-

Một lời nói hay – nói đúng lúc dễ dàng thu hút tình cảm – cảm hóa người nghe.
Đối với người sai phạm. Với lời khuyên nhủ đong đầy chân tình, xem đối tượng là người đồng hành thân thiết, dễ dàng cảm hóa nhiếp phục, hơn là răn đe lớn lời.
Nói dai – nói dài thành ra nói dại – nói dỡ, đây là các nói của kẻ khoe khoang – hợm hĩnh dễ làm cử tọa nản lòng.

“Đa ngôn đa quá”
‘Nói nhiều dễ vấp phải sai lầm’.
-Khổng Tử-

Phải biết đối tượng đang cần gì và mình cần phải nói những gì ? Chỉ nên nói những điều cần phải nói, nói có suy nghĩ – có chắc lọc đong đầy trí tuệ.

“Nhất ngôn khả dĩ hưng ban
“Nhất ngôn khả dĩ tán ban”.

‘Một câu nói có thể làm cho đất nước hưng thịnh
‘Một câu nói có thể làm cho đất nước diệt vong’.
-Xuân Thu – Khổng Khâu-

3. Lợi hành:
• Lợi: là lợi ích.
• Hành: là hành động – việc làm.

Lợi hành là một hành động có lợi ích thiết thực.

“Đừng thấy việc thiện nhỏ mà bỏ qua, chớ thấy việc ác nhỏ mà cố tình làm”.

Dù với một cử chỉ nhỏ nhặt thôi biết đâu mình đã gỡ rối cho người trong lúc khốn khó.

“Cái lỗ nhỏ nước chảy mãi cũng phá to”.

Biết đâu, nếu không giúp đỡ kịp thời, dù chỉ là nhỏ bé, thì sự khốn khó sẽ đưa đến một kết quả bi đát to lớn.

“Một đóm lửa nhỏ nếu không dập tắt kịp thời sẽ bùng cháy to”.

Phải với tấm lòng của người mẹ hiền, để tâm chăm sóc đến từng đối tượng lầm lạc, tạo duyên lành tốt nhất giúp đỡ – đưa họ về nẻo chánh.

Với tâm lượng Bồ tát đại từ – đại bi, Huynh trưởng GĐPT vào đời, ứng dụng mọi phương tiện thiện xảo nghìn mắt nghìn tay mà cứu vớt hóa độ quần sinh.

4. Đồng sự:
• Đồng: là cùng nhau.
• Sự: là việc làm.

Đồng sự là cùng làm một việc, hòa nhập vào nhịp sống mọi người cùng nhau làm việc. Đây là phương tiện tối thắng, nếu không có sự gần gũi – tiếp cận tha nhân thì làm sao nắm bắt được từng mỗi thâm sâu để mà cảm hóa.

Mỗi người đều có mỗi cuộc sống riêng tư. Bồ tát muốn thành toàn công hạnh hóa độ quần sanh, thì phải như một Quán Thế Âm thị hiện, biết lắng nghe, tùy nhu cầu của mỗi chúng sanh mà Huynh trưởng GĐPT phương tiện thể nhập để mà cảm hóa.

Thế giới đang chuyển biến một cách nhanh chóng, con người đang tốc lực chạy đua vào vô vọng. Huynh trưởng GĐPT đang quảy gánh trên vai một cái “Nghề”, đó là trách nhiệm làm công tác văn hóa – giáo dục nặng nề. Nếu không có phương pháp để mà hãnh tiến thì làm sao nhập thế vào đời, đưa mgười thoát ra ngỏ cụt trầm luân. Nhưng dù có một phương án toàn thiện trên tay, người Huynh trưởng GĐPT không đủ sức thù thắng, vận dụng thiện xảo nghìn mắt nghìn tay thị hiện vào đời, thì có đâu mà thành toàn công hạnh hóa độ.

Làm thế nào để giúp đỡ con người, xây dựng thế giới này ngày càng tốt đẹp hơn ?
Tứ ngiếp pháp là một pháp môn tối thắng, ứng dụng phương pháp này giúp cho Huynh trưởng GĐPT hóa giải được mọi tình huống khắc nghiệt.

Y cứ vào tinh thần từ bi – hỷ xã – bình đẳng và giải thoát. Huynh trưởng GĐPT thực hiện “tay nghề” bằng thể nhập, hòa mình vào mọi cuộc sống nhân sinh để thành toàn mục đích lí tưởng vị tha cao cả.

Trong các phương pháp giáo dục, thân giáo cũng rất quan trọng. Suốt bốn mươi năm truyền đạo giáo hóa chúng sinh, tùy lúc tùy hoàn cảnh mà đức Phật Thích Ca hiện ra hảo tướng. Có lúc thì trầm mặc – yên tịnh, hình tướng uy nghi, nên đại chúng cũng giữ oai nghi – thanh tịnh. Có lúc hiện tướng trang nghiêm khiến đại chúng theo đó mà thúc liễm thân tâm. Có lúc hiện tướng hoan hỷ đại chúng cảm thấy vui vẽ an lạc ./-




Không Thành Công Cũng Thành Nhân

Không Thành Công Cũng Thành Nhân

Trong công cuộc cách mạng, Việt Nam Quốc Dân Đảng khởi nghĩa Yên Bái 1930, nhà chí sĩ Nguyễn Thái Học đã phát biểu hùng hồn: “Không thành công cũng thành nhân”.

“Không thành công cũng thành nhân” thể hiện tinh thần dũng cảm, đức hy sinh và ý chí quyết tâm của người yêu nước trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dù cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng tinh thần yêu nước vẫn mãi mãi nối tiếp.

“Không thành công cũng thành nhân”. Trong quá trình rèn luyện ý chí, dù thành công hay thất bại, đều góp phần, giúp bản thân trở nên tiến bộ và hoàn thiện hơn mỗi ngày, khuyến khích mỗi người không ngại thất bại, dũng cảm theo đuổi ước mơ – mục tiêu cao cả. Nhắc nhở chúng ta ghi nhớ rằng, thành công không phải là đích đến duy nhất, mà quan trọng hơn là quá trình rèn luyện bản thân, học hỏi để trưởng thành.

Cống hiến, là hy sinh bản thân – dốc lòng đóng góp công sức. Sự cống hiến của biết bao thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ vô cùng quan trọng. Tuổi trẻ nỗ lực học tập – có kiến thức sâu rộng – không ngừng khám phá tìm tòi sáng tạo – rèn luyện bản lĩnh – làm nền tảng bước vào tương lai, tiên phong xả thân – thể hiện phong cách sống cao đẹp – nêu cao những tấm gương sáng ngời tuyệt bích.

Không thể bịt miệng một dân tộc chưa hề khuất phục trước phù thủy đồ tể đao phủ búa liềm !

Tinh thần “Yên Bái” để lại một ý chí quộc cường sẵn sàng sấn bước – vai chung vai gánh vát gian nan “Không thành công cũng thành nhân” ./-

Houston,18062024




KIẾN LẬP TỊNH ĐỘ NHÂN GIAN

KIẾN LẬP TỊNH ĐỘ NHÂN GIAN

Không biết do nghiệp trọng – phước khinh như thế nào, mà đã từ lâu, tổ chức GĐPTVN, luôn luôn đa mang – nếm trãi biết bao nghiệt ngã gay gắt

Đối diện trước nhiều ngã rẽ cuộc đời, những diễn biến phức tạp, càng lúc càng gia tăng. Đây, là một công án thử thách ý chí, thách thức những tấm lòng tri thức – nhiệt huyết của biết bao Lam viên

Nhiều dấu hỏi to lớn đã được đặt ra, con đường mà chúng ta đang đi, là đúng hay sại, là ích quốc lợi dân, hay lạc hướng dân tộc – đạo pháp?

“Bản chất tội không ở trong không ở ngoài, cũng không ở giữa. Như Phật đã dạy, chúng sinh cáu bẩn vì tâm cáu bẩn; nếu tâm trong sạch, hết thảy đều trong sạch. Tâm cũng không ở trong không ở ngoài, không ở giữa. Tâm như nhiên, tội cũng như nhiên. Các pháp cũng như nhiên, không vượt ngoài Như”, tâm chúng sinh cáu bẩn, nên thấy có cáu bẩn, với tâm hồn đen đúa thì khó mà nhìn ra ánh sáng, đối mặt trước thực tại mê vọng phủ phàng, đành phải im lặng bất tư nghì

Trãi qua những năm dài đen tối, trong nỗi niềm oan khuất ẩn ức, chưa biết phải lý giải như thế nào, là “Nói năng như chánh pháp”, cho nên đành phải “Im lặng như chánh pháp”

Huynh trưởng GĐPTVN tâm đắc định hướng hiến chương: “GHPGVNTN không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt, mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc”. Thế hệ Huynh trưởng hôm nay, một đội ngũ vững vàng, chịu trách nhiệm thịnh suy – tồn vong của tổ chức – đạo pháp – dân tộc. Đoàn kết chung lòng – chung sức, xác lập lý tưởng – sách tấn nhau, vượt qua gian khó, thể hiện châm ngôn, “Quốc gia hưng vong – thất phu hữu trách”

Chúng ta hãy thành tâm – tĩnh tại, nhìn lại đường hướng – tôn chỉ – mục đích, tiến trình lịch sử trên 70 năm – tổ chức GĐPTVN, để mà suy ngẫm, để mà tự hào

Sự thăng tiến vững chãi – tồn tại, có được hôm nay, đây là dấu ấn, đong đầy công đức to lớn, của biết bao thế hệ Huynh trưởng GĐPTVN. Đã khẳn định ý chí kim cương chính mình, được trưởng thành trãi nghiệm, trong đau thương gian khó

Với “lý tưởng hòa bình – sứ mệnh xiển dương chánh pháp – sự nghiệp giác ngộ và giải thoát”. Với thiện ý Tình Lam thắm thiết – đạo vị ấm áp chân tình – đoàn kết san sẻ khó khăn. Với tinh thần vô úy, vận dụng Bi – Trí – Dũng, vững vàng khí tiết, không chịu khuất phục cường quyền, hy sinh cúng dường cả thân mạng – cống hiến cả máu và nước mắt, để xây dựng chính nghĩa, trên nền tảng phụng sự và phát triển Đạo pháp – Dân tộc và Nhân loại. Cái công ơn thầm lặng vàng son kỳ vĩ này, lịch sử trân trọng tán thán – ghi nhận công đưc

Nhưng, cũng không ít trong chúng ta, còn có những HTr đi chệch hướng bay, chểnh mảng, thiếu niềm tin son sắc, chưa hết lòng, đặt trọn vẹn dưới sự thống lãnh của BHDTƯ – của Chư Tôn Đức Hội Đồng Cố Vấn – của bản thể Tăng già hòa hợp thanh tịnh. Thui chột – mê vọng – vô minh – điên đảo, xa rời nguồn cội. Đang tâm tạo nên thảm cảnh khủng hoảng – “thương tổn cốt nhục” – “nồi da xáo thịt”, làm cho “máu chảy – ruột mềm”, rây rức – nhứt nhối – đau đớn tột cùng !

Trong giai đoạn nghiệt ngã này, sự bình tỉnh – sáng suốt – tuệ giác của mỗi HTr, sẽ hóa giải được mọi chướng duyên

Trãi nhiều năm qua, từ trong gian khó, chúng ta đã tận tụy, giữ gìn di sản cảo thơm – gia tài trân quí của cha ông. Trong khi đó, còn có những chân tướng, nhân danh là Trưởng tử Như Lai, phơi bày giả tâm, nỡ đành phân hóa, làm rệu rã – tàn rụi ngôi nhà chánh pháp. Đứng trước nỗi phá tán nghiệt ngã, đảo lộn gia phong, chúng ta đau đớn chịu đựng – nhẫn nhục – im lặng, mặc tẩn những thành phần manh động – làm mất đoàn kết – gây chia rẽ nội bộ tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam – Phật Giáo Việt Nam

“Gia bần tri hiếu tử – Quốc loạn thức trung thần”, cữ mỗi lần gặp phong ba nguy biến, thì những mầm xanh không ngừng vươn lên, tạo nên kỳ tích, “cứ như pháp mà phụng hành”, làm cho lịch sử Áo Lam ngày thêm vững chãi – rạn rỡ

Dòng sinh mệnh của tổ chức, được thăng tiến luân lưu. Nền giáo dục tối ưu – nhân bản – vị tha – khai phóng của GĐPTVN. Ứng dụng giáo lý Phật Đà làm nền tảng – tiêu hướng hành hoạt – ươm mầm tài năng. Được liên tục vươn mình truyền tải, là nhờ vào mối tương quan cộng hưởng. Được thành tựu viên mãn, trên tinh thấn đoàn kết lục hòa cọng trụ, từ các thế hệ Huynh trưởng GĐPTVN

Sự nghiệp kỳ vĩ này, sẽ được chuyển tiếp, truyền thừa lại các thế hệ hậu duệ. Để đảm đương được trọng trách cao quí. Thế hệ HTr hôm nay, phát hạnh nguyện đại hùng – đại lực, tinh tấn cầu học – thực tâp đại hạnh Duymacật, chứng nghiêm vô biên Phật pháp, dung thông – vô ngại, tự giác – giác tha – giác hạnh viên mãn. Đầy đủ uy lực – đức độ – tài năng, sẵn sàng thừa kế – phụng sự tổ chức – phụng sự tam bảo, xiển dương chánh pháp, “thành tâm xây đời – hộ đạo”, thành tựu đaọ tràng – trang nghiệm Phật quốc

“Người Phật tử chân chánh, chỉ trung thành với lý tưởng đạo Phật, không pha trộn với bất cứ ý thức hệ nào, cũng không chịu điều khiển bởi bất cứ thế lực chính trị nào”, mà chỉ “duy nhất làm cái nhiệm vụ là, kế thừa truyền thống tâm linh của tổ tiên”

“Lịch sử Phật giáo Việt Nam đã từng bị bức hại bởi các tôn giáo khác, hay bạo quyền chính trị. Nhưng người Phật tử Việt Nam, vẫn ung dung thà chết vì đạo, hi sinh thân mạng cúng dường chư Phật, báo đáp ân đức tiền nhân, cảm hóa kẻ bạo tàn, giành lại tự do an bình, làm toát lên sự cao thượng vĩ đại phủ khắp Đạo Phật tuyệt vời”

Đôi dòng chân tình, xin được chia sẻ. Xin chân thành khâm phục, tinh thần vô úy – khắc phục khó khăn. Tán dương công đức của Chư Tôn Thiền Đức cố vấn – của các anh – chị Huynh trưởng hôm nay, đang tĩnh tại trên thế đứng tại vị. Không xao động – chao đảo – chùn bước – run lòng trước nghịch cảnh chướng duyên. Là tấm gương sáng, đang vững vàng trên chiến tuyến, trực tiếp trên pháp tòa – bục giảng, làm bổn phận, hướng dẫn – giáo dục – chăm sóc – vun xới, những mầm xanh tổ chức GĐPTVN, thực hiện – thành toàn hoài bảo to lờn

“Quốc độ của tất cả chúng sanh là Phật quốc độ của các Bồ tát. Vì sao? Bởi vì các quốc độ của Phật được giữ gìn do những chúng sanh được các vị Bồ tát chuyển hóa, và được giữ gìn do những chúng sanh được các Bồ tát giáo hóa. Quốc độ Phật được mở rộng do nhiều chúng sanh chứng ngộ trí huệ Phật, được mở rộng do những người giác ngộ tánh Bồ tát nơi chính mình. Như vậy, quốc độ Phật của Bồ tát là để làm lợi ích chúng sanh”

Huynh trưởng GĐPT liễu ngộ tư tưởng Duymacật, phát nguyện nhận lãnh sứ mệnh truyền bá chánh pháp – độ sinh – hình thành Phật quốc. Quốc độ mà Huynh trưởng GĐPT cần thiết phải kiến lập, đó là cảnh giới GĐPTVN, làm nhiêu ích – chuyển hóa Đoàn viên GĐPT, tỉnh thức thâm nhập tuệ giác Phật Đà, thành tưu trang nghiêm Phật quốc ngay tại ta bà này
Chúng ta thành tâm, phát đại nguyện tu học – thực tập tinh thần Duymacật, vô úy tĩnh tại, trung thành – son sắc, với lý tưởng Áo Lam truyền thống. Bảo vệ hai văn kiện pháp quy: Nội Quy – Quy Chế HTr GĐPTVN. Có thái độ dứt khoát, với những cá nhân – tổ chức, đi sai lạc tinh thần, Nội Quy – Quy Chế HTr GĐPTVN. Đặt trọn vẹn niềm tin, tuân thủ sự lãnh đạo tuệ giác – kỳ tài của BHDTƯ – của BHD địa phương – của Chư Tôn Đức Hội Đồng Cố Vấn. Đoàn kết nhất trí – duy trì, thành toàn xuất sắc, sứ mệnh cao cả, là giáo dục thế hệ hậu duệ – đàn hậu tấn mai sau, tài bồi hiền tài cho Tổ chức – Đạo pháp và Dân tộc, kiến lập hoàn chỉnh tịnh độ nhân gian ./-




IM LẶNG NHƯ CHÁNH PHÁP

IM LẶNG NHƯ CHÁNH PHÁP

Đáng lẽ ra là phải im lặng, tiếp tục nín nhịn, như từ lâu đã từng như vậy. Nhưng càng nín nhịn thì những điều ngang trái cứ tiếp tục diễn ra úp chụp một cách phủ phàng. Phải nói lên tiếng nói của thế hệ đàn em đang bị sa lầy ngất ngư, đang bị một ai đó nằm hờ – thọc tay – phù phép, đánh giá thấp nhân cách thế hệ đi sau

Tại sao trong tổ chức, mà lại là một tổ chức có tính nhân bản rất cao, quyền bình đẳng (đồng hạng) – tự – chủ – tự giác phóng khoáng được đặt lên hàng đầu, “Các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi” – “Ta là Phật Đã thành – các người là Phật sẽ thành”. Thế mà còn tồn tại những tâm lượng vị kỹ, đối xử với nhau một cách gia trưởng độc đoán hèn tiện, chưa nói là độc tài. Sự thăng tiến của cá nhân, cái kết quả công đức hôm nay, đòi hỏi ở mỗi nhân thân phải hy sinh – tự nổ lực tu dưỡng – rèn luyện – phấn đấu phẩm hạnh mới có được. Thế mà vì tâm lượng hẹp hòi, vì nội tâm khúc mắc khó giải, mà xử dụng quyền hạn, nỡ đành đang tâm trì kéo trù dập mầm non, đẩy lùi sự tiến triển của tổ chức

Tại sao đã được thống nhất để được sinh ra. Đây là niềm kiêu hãnh của toàn thể Lam Viên khắp thế giới! Cùng bọc dâu trăm trứng, mặc dù có ở xa hơn, thế mà lại còn có cái nhìn lệch lạc – khác biệt. Các anh đang ganh tỵ – tị hiềm – phân biệt! Có chuyện gì vậy?

Không biết có chuyện gì đang diễn ra. Đàn anh của chúng ta đang nghĩ gì và định hướng như thế nào trước tình hình thực tại. Có chuyện gì đang biến động tận chiều sâu tâm tưởng của một vài lãnh đạo. Có phải là đang lo lắng, đang sợ hãi. Có việc gì đang làm cho các anh run lòng – chùn bước. có phải âu lo vì thiếu điểm tựa hư huyển. Hay trong thâm tâm các anh đang có dự tính chuyển hướng, đang tìm ngã rẽ yên ổn cầu an, chỉ còn đợi thời gian và một cơ hội chín muồi nào đó

Thế hệ đi trước, nếu đã tài tình định hướng, sáng suốt nhận định con đường đã chọn là đúng đắn chính nghĩa, thì xin hãy

mạnh dạn đặt ra, thế hệ đi sau sẵn sàng tuân thủ nối tiếp sự nghiệp. Tại sao cứ mãi ởm ờ – đánh lận con đen, lừa phỉnh đàn em, tạo thêm nỗi dằn co nhứt nhối đau lòng

Còn nếu xác định đó không phải là chính thống, là sai lạc đường hướng tổ chức, thì xin hãy thẳng thắn đối mặt, sợ gì mà cứ mãi loanh quanh tránh né

Trong ACE chúng ta, ai nấy đã hy sinh nhiều rồi, sự cần thiết phải hy sinh nhiều hơn nữa trước sự tồn vong của tổ chức, thì đâu có xá chi. Tình trạng mập mờ cứ mãi kéo dài, dễ dàng làm mềm lòng nãn chí, suy yếu nhiệt năng. Các thế lực vô minh đang chờ đợi thời cơ may mắn này. Phải tỉnh táo – sáng suốt mà thôi! …

Các thế hệ đàn em đang cúi đầu – mõi lòng chờ đợi một hiệu triệu – một ánh sáng huy hoàng – một tiếng Hống Sư Tử sấm sét đầy uy lực !

Lam nhã Thảo am, 30012553 – 15032010




HƯỚNG ĐẾN GIẢI THOÁT

HƯỚNG ĐẾN GIẢI THOÁT

Từ mười điều phi pháp, dẫn đến ngã rẽ các bộ phái Phật giáo tại thành Tỳ Xá Ly, Kinh Duymacật đã có mặt sớm nhất, nhằm mục đích phát triển Đại thừa

Kinh Duymacật là cái nôi kiến giải tư tưởng Đại thừa – đưa đạo vào đời, thực tiễn trong đời sống dân sinh – hướng đến giải thoát, nhưng không bị đời làm ô nhiễm

Với cái nhìn khách quan, bằng trí tuệ bát nhã, Duymacật soi rọi vào lòng xã hội nguồn văn hóa tri thức vô ngã, đây là một tinh hoa siêu việt, vươn lên trên sự nghiệp xiển dương Đại thừa

Tư tưởng Phật giáo trước giai đoạn Đại thừa, hình ảnh người tu sĩ xuất gia, có cuộc sống nghiêm mật, giới luật tịnh hạnh, được xem là đối trọng. Nhưng thành quả của Duymacật, một thương gia giàu có, có gia đình, sinh sống tại thành Vaisali (Tỳ Xá Ly), được giới cư sĩ hướng đến tôn vinh, là một thánh giả thượng sĩ tại gia quán chúng nổi bật, ông là đại biểu lý tưởng cho giới cư sĩ Phật tử tại gia. Tư tưởng Duymacật tạo nên một luồng sinh khí mới mẽ – trẻ trung hóa Phật giáo, được hình thành từ đại chúng, nhập thế – từ tục đế mà phương tiện diệu hữu, đem lợi ích thiết thực tại nhân gian: “Phật pháp tại thế gian – Bất ly thế gian giác” không cần thiết phải từ bỏ thế tục, vẫn thực hiện được chí hướng giải thoát. Qua đó:

“Có thể nói cả hai giới tu sĩ và cư sĩ đều quan trọng như nhau trong giáo pháp của Đức Phật” – bình đẳng Phật tính

– Duy Ma Cật & Lý tưởng người cư sĩ – Daisaku Ikeda – Nguyên Hảo dịch –

Tâm đắc tư tưởng Duymacật, Huynh trưởng GĐPT thực tập – tu học, nhằm mục đích xây dựng hoàn chỉnh bản thân, năng hành Bồ tát đạo, phục vụ sự nghiệp giáo dục GĐPTVN, góp phần kiến tạo xã hội tăng huy Phật quốc – tịnh độ nhân gian.

“Không phải ngồi là ngồi thiền. Ngồi thiền có nghĩa là không hiện ra trong ba cõi. Cũng có nghĩa là hiển bày chính mình trong tánh tự nhiên, trong đó thân và tâm đều không còn. Có nghĩa là tu hành Phật đạo trong lúc làm những công việc hằng ngày trong thế gian. Ðó gọi là ngồi thiền”

Huynh trưởng GĐPT hành thiền ngay trong tục đế đời thường, không rời nơi uế trược để hướng đến cảnh giới xa vời, mà vì đàn em thân yêu ứng dụng vô biên thiện pháp, dù những sinh hoạt đơn giản nhất… cũng là Phật pháp, làm phương tiện để truyền tải – chuyển hóa – hướng dẫn các em phát triển tư duy – nhiếp tâm hành thiện

Nội tâm là một chiều sâu thăm thẳm – khúc mắc – phồn tạp, tàng chứa vô vàn kiến hoặc – lậu hoặc. Muốn hội đủ kiến thức – đủ tuệ giác để lý giải vấn đề tâm linh, mỗi nhân thân phải tự nổ lực rèn luyện – thực tập – tu học cho được chân đế

Nếu không có cuộc sống tâm linh, mỗi nhân thân triền miên đắm chìm trong tột cùng đau khổ. Đời là một dòng chãy bất như ý, mọi thứ không phải là một hạnh phúc có sẵn, để vuốt ve nuông chìu, mà phải nếm trãi biết bao cay đắng ngập lòng

Sở dĩ con người đau khổ, bởi vì không chịu tỉnh thức, không chịu mở mắt tri kiến. Để làm được điều kỳ diệu này, mỗi nhân giả phải tự giác ngộ lấy thân phận lau sậy, nổ lực tìm đến nguồn Phật chất vô biên

GĐPT là một dòng tu, muốn hoàn thiện nhân cách – hoàn thiện bản thân. Đến với GĐPT để chọn cho mình một pháp môn tu, nhằm mục đích thanh lọc tam nghiệp, tịnh thân – định ý, sau khi đã được tự giác, sẽ thực hiện giác tha, để được giác hạnh viên mãn. GĐPT là một tổ chức giáo dục, muốn hướng thiện được tha nhân, đòi hỏi mỗi nhân nhân phải đầy đủ thân giáo – khẩu giáo – ý giáo. Phải là một tấm gương sáng, một nhà mô phạm với đầy đủ đạo đức uy nghi, đủ sức truyền tải nguồn năng lượng Phật chất vô biên vào tận mọi ngõ lòng thâm sâu của mỗi nhân sinh. Kiến thức đâu phải bổng nhiên mà có, đòi hỏi phải hội đủ thời gian để dùi mài – đào luyện. Bỏ tu – bỏ học – bỏ bậc – bỏ trại nữa vời, không có quá trình sinh hoạt lâu dài với tổ chức, thì chỉ có mai một – lạc hậu, làm sao mà đuổi bắt theo kịp với thời gian, làm sao đủ năng lực – đủ bản lĩnh, nhất là làm gì có đủ tinh thần trung kiên – đủ niềm tin son sắc vào tổ chức – đủ nghị lực vô úy để mà lãnh đạo cầm đoàn, điều hành một đơn vị GĐPT sở tại, lội ngược dòng đời, góp phần làm thanh sạch – thiện hóa xã hội

Huynh trưởng GĐPT nổ lực tu học – thực tập tư tưởng siêu việt Duymacật, từ đó tỏa sáng sức sống diệu kỳ, mạnh dạn bước vào thế giới tâm linh sinh động, kiến giải – làm toát lên sự trong sáng tuệ giác, hiển bày bản nguyện, nâng cao phẩm giá, hun đúc ý chí, hành hoạt vạn hạnh tự tại, thành tựu thảnh thơi giải thoát đến vô cùng

Tịnh độ được kinh Duymacật quán chiếu bằng trí tuệ bát nhã. Mô hình tịnh độ được xây dựng bằng chính đôi tay và khối óc của Bồ tát, hiện thực ngay tại thế gian, chứ không từ một thế giới vô tưởng xa vời nào khác

Bát Nhã nói rằng: “Bất cấu bất tịnh”, thế giới Hoa Nghiêm thì nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo”, tư tưởng Duymacật đã trình bày: “Tịnh Phật quốc độ, người có tâm thanh tịnh sẽ thấy đất Phật thanh tịnh”. Tịnh độ có cấu hay được tịnh đều do tâm biến hiện. Tâm lượng chúng sinh mãi chìm nghĩm mê vọng trong ngũ dục – đánh mất chân tâm, dù có là tịnh độ ngay trước mắt cũng hóa hiện uế trược, với cái nhìn đoạn kiến đã tạo nên biết bao thảm cảnh ./-




HUYNH TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

HUYNH TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

Huynh trưởng GĐPT là gì ?
Huynh trưởng GĐPT không là gì cả ! Bởi vì Huynh trưởng chỉ là Huynh trưởng !

Hay cũng có thể nói: Huynh trưởng GĐPT là người cư sĩ trên người cư sĩ, là bậc thiện sĩ tại gia.

Người Huynh trưởng GĐPT không phải là người xa rời, tách mình ra khỏi xã hội, bởi vì vẫn còn có cuộc sống thế tục, nhưng không để đắm mình lăn lóc trong dục vọng ê chề, say mê giấc mộng kê vàng. Mà Huynh trương là người tỉnh thức, đang tiếp cận với tha nhân, đang làm cái nhiệm vụ thiêng liêng của mình, là làm công tác văn hóa – giáo dục, hướng dẫn thế hệ trẻ, thế hệ đàn em của mình theo dấu chân thơm của đức Phật.

Người Huynh trưởng GĐPT không phải là người cư sĩ bình thường, là người học trò còn phải học tập, và cũng không phải là người thấy với dáng vẽ nghiêm nghị khô khan – khó gần gũi.

Người Huynh trưởng là người vừa tu – vừa học – vừa làm người giảng dạy, hướng dẫn lại sở đắc đã kinh qua từ bản thân. Người Huynh trưởng GĐPT tự coi mình là người anh – người chị – người bạn chân thành thân ái chan hào tình cảm ngang tầm với các em để dễ dàng tiếp cận đoàn sinh tại mối gia đình nhỏ của các em, nắm bắt đời sống – điều kiện sinh hoạt – tâm tư tình cảm – nguyện vọng – đặc điểm, để vỗ về – lắng nghe từ sâu thẳm của các em mà tìm ra giải pháp hữu hiệu – để giải đáp thích ứng những nhu cầu bức thiết, hướng dẫn dìu dắt – giúp đỡ các em vượt qua rối rắm, vững vàng từng bước chập chững vào đời.

Muốn làm được nghĩa vụ thiêng liêng cao cả này, ngoài việc phải học – học mãi – học hoài để hội đủ kiến thức, chứng nghiệm Phật pháp sâu sắc để hướng dẫn các em, mà điều tối cần hiết là khả năng tu chứng – liễu ngộ. Thiếu chứng ngộ người Huynh trưởng GĐPT không bao giờ truyền đạt được ý chỉ của tổ chức – tâm ấn của chư Tổ – chư Phật – của các bậc đàn anh truyền thừa, không khéo chỉ là cái máy nói – lý thuyết suông mà thôi.

Huynh trưởng GĐPT thực hành trên nền tảng song đối: Đại trí – Đại bi – Đại hạnh.

  • Huynh trường GĐPT thực hành Đại trí, là học hỏi vô biên Phật pháp, quán sát thấu suốt chân tánh của vạn hữu.
  • Huynh trưởng GĐPT thực hành Đại bi, với tấm lòng người mẹ bao dung như trời biển, ôm trọn cả thế giới vào lòng.
  • Huynh trưởng GĐPT thực hành Đại hạnh, là thực hiện Bồ tánh đạo, không phải chỉ mong có lợi ích cho riêng mình, mà sử dụng phương tiện thiện xảo hướng đến giác ngộ – giải thoát hết thảy chúng sanh ./-




HIỆP KỴ

HIỆP KỴ GĐPT TỈNH BÌNH THUẬN

Người Phật tử đến chùa, là đến với Thầy – Tổ, là trở về nương tựa dưới mái nhà của người cha – người mẹ thân yêu của mình. Người con cần có nơi chốn để được vỗ vệ – ấp ủ – thương yêu, không phải là phải xin xỏ và được ban ân – bố thí mới có. Mà người cha – người mẹ (người Thầy: là “thiên – nhân sư”, là người xuất gia: “xuất thế tục gia” – “xuất phiền não gia” – “xuất tam giới gia”, lìa xa gia đình, lìa bỏ sự nghiệp quyền quý – cao sang, có đời sống tu viên, chuyên tâm học kinh – giữ giới – tu thiền để thanh lọc tâm ý, xa lìa ái dục – không thiết tha lưu luyến thế tục, có chí nguyện Đại Trượng Phu, có trái tim từ bi – cởi mở – vị tha bao la bát ngát, có ý chí kiên cường “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” – “bất bái quân vương”, tâm nguyện vững chắc, việc làm cao thượng, quyết tâm cầu giải thoát, tiến lên hàng thượng thừa), phải có trách nhiệm thương yêu chở che – bảo bọc, để cho người con tha phương của mình có được nơi chốn nương tựa ấm êm trong vòng tay từ ái, sau những năm tháng dài rong ruổi đường dài, dãi dầu nắng mưa gian khó – khắc nghiệt đời thường.

Chùa Huệ Đức – xã Sơn Mỹ – huyện Hàm Tân – tỉnh Bình Thuận, là một ngôi chùa nghèo khó, nằm giữa một miền quê hẻo lánh, do Thượng tọa Thích Đồng Khánh trụ trì. Thầy có một vóc dáng ốm yếu nhỏ nhắn, nhưng ẩn chứa trong Thầy một tâm hồn to lớn. Mặc dù gặp phải ma chướng, thế quyền bủa vây – ngơ mắt vô tâm trước những khốn khó của lương dân. Nhưng với một tấm lòng đại bi rộng mở, Thầy đã mạnh dạn mở rộng vòng tay ôm ấp biết bao mảnh đời cơ cực, những trẻ mồ côi – tật nguyền đang tìm về dưới mái ấm của Thầy càng lúc càng đông thêm. Nhưng manh áo – chén cơm – sách vở học tập của các em, đây là nỗi chật vật lo toan luôn luôn nặng trĩu canh cánh trong lòng Thầy. Có một hôm, tại một ngội chùa giữa lòng thị xã, tổ chức Lễ Trai Tăng, sau buổi tiệc chay thịnh soạn, thức ăn còn lại thừa mứa, Thầy ngỏ lời xin mang về cho trẻ mồ côi. Một hình ảnh như thật đã làm cảm động rơi nước mắt cho biết bao người. Nhớ lại hình ảnh tận tụy lo toan đầy thương cảm ấy, ngay cả giờ đây, khi ghi lại những dòng chữ này, mà nước mắt cứ mãi tuông ra, ràn rụa theo từng con chữ.

Và cũng với tấm lòng bát ngát trời mây ấy, Thầy đã mạnh dạn mở rộng vòng tay từ ái, đón nhận Gia Đình Phật Tử truyền thống, đang lưu vong trên chính quê hương mình. Chùa (Chùa to – Phật lớn) của chúng ta còn đó, Thầy của chúng ta còn đó, nền đạo lý – di sản từ bi to lớn muôn đời của chung ta vẫn còn đó, thấy nó sờ sờ trước mắt, thế mà sao xa xôi cách trở – cay đắng đến ngập lòng, để cho biết bao Áo Lam chính thống không còn nơi nương tựa – không dám bước vào! Một tổ chức giáo dục Truyền Thống đã từng gắn bó nhiều đời Lịch Đại Tổ Sư, xương máu – mồ hôi – nước mắt của biết bao anh – chị đi trước đã đổ xuống để bảo vệ cho sự sống còn của Giáo Hội – của đất nước này, và ý chí này – di nguyện này vẫn nối tiếp truyền trao lại cho thế hệ hôm nay và mãi mãi muôn sau, thế mà lại nhẫn tâm, đối xử phân biệt bởi những tâm hồn nhầy nhụa dục vọng vô minh tanh tửi, đành đoạn không dám tiếp xúc – nhẫn tâm xua đuổi ra khỏi chùa những đứa con thuần thành – những hậu duệ trung kiên của đạo pháp.

Cứ ngỡ rằng trước áp lực của ma vương, đang cố tình vùi dập sức sống đạo đức tâm linh, đẩy thế giới này đến gần với hầm lửa tự hủy diệt, chỉ biết có tranh giành danh lợi – quyền lực hơn thua hư vinh, thỏa mãn thú tính hèn kém, nỡ đành chà đạp đồng loại, ân nghĩa sơn môn. Để rồi “Nhân quả đáo đầu chung hữu báo” – nhận lấy một hậu quả nhục nhã thảm hại ê chề, để lại bia đời lưu danh xú uế.

Dù bị đoanh vây giữa cơn sóng thần dữ dội, bất chấp trận cuồng phong bão dữ, với í chí kiên cường, không bao giờ chịu khom lưng khuất phục trước những giả tâm đen tối, dấu mặt – giựt dây – thọc gậy sau lưng khoáy rối. Dù bị từ chối – đẫy đuổi – thay đổi – di dời địa điểm, nhưng với quyết tậm vô úy vốn có của Ban Hướng Dẫn GĐPT Bình Thuận, Lễ Hiệp Kỵ Bình Thuận vẫn được diễn ra như một ngày hội lớn, tất cả Lam viên Bình Thuận từ mọi ngã hướng, dù trong bộn bề cuộc sống đời thường, kinh tế lạm phát, rình rập hù dọa – chụp mũ lương dân. Toàn thể Lam viên Bình Thuận vẫn quyết tâm khắc phục gian nan, với một tấm lòng trung kiên như nhất, nô nức đổ dồn về, làm cho một miền quê yên ắng bổng rộn ràng – sinh động hẳn lên.

Lễ Hiệp kỵ GĐPT Bình Thuận được diễn ra trong không khí trang trọng, ấm áp tình nghĩa sơn môn, thầy trò thân ái. Thầy trực tiếp hướng dẫn – chỉ bảo tận tình, tạo rất nhiều thuận duyên, những khóa lễ được thực hiện chỉnh chu – kính cẩn – nghiêm thiêng, giúp cho pháp hội hiệp kỵ thù ân thập phần viên mãn. Sau mỗi khóa lễ, y hậu thầy ướt đẩm mồ hôi, thầy rất mệt, chúng con kính yêu thầy vô vàn !

Đại Lễ Hiệp Kỵ tri ân và báo ân, thành kính tưởng niệm Chư lịch đại Tổ sư truyền giáo – lưu truyền – bảo vệ – duy trì – phát triển mạng mạch Phật giáo Việt Nam. Tưởng niệm anh linh chư Thánh tử đạo vị pháp thiêu thân – vị pháp vong thân. Tưởng niệm chư vị Tiền Bối hữu công sáng lập GĐPTVN. Tưởng niệm giác linh chư vị Ân Sư cố vấn giáo lý – giáo giới – giáo hạnh. Tưởng niệm ân nhân Bảo trợ – Gia trưởng – Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPTVN quá cố. Lễ khai đàn thỉnh linh tọa vị và khai kinh Địa Tạng đươc Thầy Trụ trì tổ chức từ tối mười bốn. Sáng ngày Rằm tháng Mười – Tân Mão, Mặc dù Phật sự đa đoan, nhận được í chỉ ủy nhiệm của Hòa thượng Thích Trừng Khiết, Thượng tọa Thích Thông Hương chủ sám và 12 vị Tăng – Ni trong Ban Kinh sư chứng minh đại lễ. Lễ Kỳ siêu được chính thức diễn ra trong không khí chí thành – trang nghiêm của hơn năm trăm Lam viên và khách mời về dự. Sau lễ kỳ siêu là nghi thức hành chánh và Lễ Tiến Linh. Ban Hướng Dẫn – Ban Tổ Chức Đại Lễ Hiệp Kỵ GĐPT Bình Thuận, thành kính tri ân công đức chư vị ân sự, nhất là Thầy Trụ trì cũng như quí đạo hữu cư sĩ Phật tử các Ban Hộ Tự, các vị thân nhân H.Tr – ĐS quá cố, đã dành tình cảm ưu ái – chấn tích đăng lâm chứng minh – tham dự, góp phần làm cho buổi lễ thập phần trọng thể.

Đặc biệt, được sự vận động tài giỏi của H.Tr Cấp Tấn Thiện Tâm Huỳnh Thái Dũng – UV Doanh Tế Ban Hướng Dẫn, H.Tr A Dục, chị Đồng Thắng Võ Thị Chiến – đơn vị GĐPT Khánh Ngọc – thị xã Lagi, các vị cư sĩ Phật tử ân nhân bảo trợ, đã tài trợ ủng hộ cúng dường Lễ Trai Tăng và tiệc chay phục vụ buổi lễ, và có cả một ban ủng hộ phục vụ Café – nước ngọt – giải khát từ chiều hôm trước cho đến ngày hôm sau. GĐPT Bình Thuận chân thành tri ơn công đức quí liệt vị, nguyện cầu hông ân chư Phật thùy từ gia hộ quí vị và quí quyến vô vàn phước lạc – thành đạt như ý.

Buổi lễ hoàn mãn, được kết thúc sau lễ cúng thí thực. Toàn thể Lam viên Bình Thuận lưu luyến siết chặt tay nhau, thầm nhủ với bồ đề tâm kiên cố – vô úy, phát đại nguyện lớn – sẵn sàng gánh vát gian nan, làm sáng danh GĐPTVN – thành toàn sứ mệnh giáo dục tiếp hiện thiêng liêng cao cả mà tổ chức tin tưởng trao phó !

Trở về nơi đây dưới mái chùa thân yêu. Thời tiết đang từng bước vào Đông, đêm về se se lạnh. Nhưng mỗi lòng người Huynh trưởng Phật tử, ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhàng ấm cúng, như gã cùng tử tha phương – khốn khó gian nan lưu lạc, nay được trở về lại quê hương xưa, được ấp ủ trong vòng tay từ ái của người cha muôn thuở. Nơi đây, hình ảnh người Thầy, thể hiện chân dung nghiêm nghị nhưng từ hòa, cứng rắn nhưng ru êm, toát lên một đức sáng rạng rỡ, làm cho ai nấy đều kính yêu, ngỡ như xa nhưng mà đậm đà gần gũi thân thương.

Trước giờ phút chia tay, rời Pháp hội về mỗi trú xứ, chúng con, ai nấy đều xúc động. Mỗi lời thầy nhắn nhũ sâu sắc, như những hạt châu long lanh đã được cọ xát dòng đời, được soi sáng bằng tuệ giác, làm cho chúng con cảm nhận được bản thể như thật cuộc đời, sách tấn cho chúng con vững vàng thêm trên hành trình thực tập. Chúng con là những đóa hoa lan bé nhỏ, nhờ thấm đẫm những hạt sương mai mà tươi thắm cuộc đời, nhờ có những dòng cam lồ pháp lạc tưới tẩm, mà cuộc đời nhiều não loạn, kỳ vọng mai này, có được nhiều đóa ưu đàm xuất hiện…

Lam Nhã Thảo Am, 20/04/2011




GIA ĐÌNH PHẬT TỬ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

GIA ĐÌNH PHẬT TỬ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

Gia Đình Phật Tử là khát vọng của dân tộc, là sự lựa chọn đúng đắn của tuổi trẻ Việt Nam, phù hợp với định hướng phát triển của đất nước. Mục đích của GĐPT đã làm toát lên hướng đến xây dựng hoàn thiện nhân cách và phát triển xã hội đến toàn thiện.

Mục tiêu cao cả của GĐPT là xây dựng con người có ý thức hướng thiện, góp phần tích cực xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo.

Trên tiến trình lịch sử, gần một thế kỷ gian nan, GĐPT đối mặt trước biết bao thế lực chính trị – cường quyền áp bức, làm cho diện mạo GĐPT khủng hoảng – biến tướng, đặt GĐPT trước thách thức độc lập – tự do – bình đẳng.

Dưới thể chế chính trị khủng hoảng, đẩy xã hội đến bất an, con giết mẹ – giết cha, vợ chồng chém giết nhau, anh em – bạn bè phản bội — đánh đập chém giết nhau, chia rẽ nội bộ, phân chia giai cấp, tham ô của công, bòn rút ngân sách, bốc lột tài sản nhân dân, chà đạp lên phẩm giá con người, cá lớn nuốc cá bé, áp bức bất công, chiếm đoạt lợi ích riêng, làm trái với quy luật phát triển xã hội, làm chậm bước xây dựng nền kinh tế hiện đại, giá trị văn minh tụt dốc, không còn ích quốc lợi dân, làm cho nhân dân ngờ vực, thấp cổ bé miệng, ta thán nãn lòng, đánh mất lòng tin trầm trọng.

Các thế lực chính trị ngoại lai vong bản mù quáng, đây là điều mà GĐPT không mong đợi, và đây cũng không phải là tương lai của đất nước.

Gần một thế kỷ trôi qua, những thành tựu mà GĐPT đã đạt được nhiều hiệu quả hiện thực, nền giáo dục khai phóng xả kỹ vị tha hoàn chỉnh, được nhiều tầng lớp trí thức hưởng ứng, nhiều thế hệ trẻ tích cức tham gia, được cộng động – xã hội ủng hộ bảo bộc chở che.

Đây là thành quả bởi Bồ Đề Tâm kiên cố, của mối quan hệ chủ thể thống nhất, vì mục tiêu lý tưởng, vì lợi ích quần sinh mà vô úy vững vàng, vượt qua biết bao sóng gió gian nan của hàng hàng lớp lớp Huynh trưởng đi trước ./-




DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

Đời là một dòng chảy, có không – còn mất – sinh diệt đến vô cùng.

Bàu Thiêu (thuộc quận Hòa Đa – Tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ), đây là địa danh của một mật khu thời kháng chiến chống Pháp, nằm sâu trong rừng thẳm, tựa mình bên dãy Trường Sơn. Vào lúc nửa đêm, không giờ, ngày 25 tháng 5 năm 1950, giữa những tiếng gầm hống của chúa sơn lâm, tôi cất tiếng tu oa báo tin vào đời.

“Thảo nào khi mới chôn nhau
“Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”
– Ôn Như Hầu –

Tiếng khóc báo hiệu bước đi đầu tiên của một sinh linh bé nhỏ vào dòng sống khổ.

“Vừa sinh ra thì đà khóc chóe
“Trần có vui sao chẳng cười khì ?
– Cao Bá Quát –

Sự ra đời của một sinh linh mơn mởn nhỏ bé làm chan chứa biết bao niềm hạnh phúc vỡ òa ngọt ngào của cha mẹ. Ngoài những giờ quy định sì sụp bên vú mẹ, tôi được các chú bộ đội chuyền tay nhau từ trại này qua trại khác. Tôi bụ bẫm – trắng hồng mơn mởn – xinh xắn – đễ thương được các chú gọi cưng bằng biệt danh “bé cục bột”.

“Nghĩ thân phù thế mà đau
“Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”
– Ôn Như Hầu –

Dòng đời tôi lớn lên ngụp lặn trãi dài trong biển khổ, hết chiến tranh Pháp – Nhật rồi nối tiếp nội chiến ý thức hệ – nồi da xáo thịt đau đớn đến tột cùng. Và cứ mãi miết như thế, kiếp nhân sinh ngụp lăn triền miên trong biển trần ai, thay đổi liên tục từ hiện tượng bên ngoài đến trải nghiệm suy tư Tứ thánh đế tìm ra ý nghĩa phong cách sống bên trong, nó liên kết tác động lên nhau cấu thành một hành trình đi tìm hướng sống vươn lên, tạo nên động lực lý giải bốn chơn lý giải thoát ra khỏi bản chất “khổ” nghiệp quả luân hồi.

“Bể khổ mênh mông sóng ngập trời
“Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi !
“Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
“Ngoảnh lại cùng trong biển khổ thôi !”
– Đoàn Như Khuê –

“Tạc nhật xoa tâm,
“Kim triêu Bồ tát diện.
“Bồ tát dữ Dạ xoa,
“Bất cách nhất điểu tuyển.”

‘Hôm qua lòng Dạ xoa,
‘Sáng nay mặt Bồ tát.
‘Bồ tát và Dạ xoa,
‘Chẳng cách một kẻ tóc.’
– Tục Truyền Đăng, quyển 31 –

Dạ xoa hay Bồ tát, hung ác hay từ bi cũng từ tâm mà hiển hiện. Không vọng tưởng tìm kiếm lang thang, thức tỉnh “hồi đầu bỉ ngạn”, quay trở về với bản tâm thanh tịnh chính mình, là bến bờ nương tựa, không phải hổ thẹn mai sau.

“Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
“Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
“Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
“Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thinh.
“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
“Nhật viễn gia hương vạn lý trình.”

‘Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
‘Liền trái không sanh nhận có sanh.
‘Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
‘Mắt mờ chúng sắc, tai đuổi thinh,
¬‘Lang thang làm khách phong trần mãi,
‘Ngày cách quê hương muôn dặm trình.’
– Trần Thái Tông –

Đang sống trong vô niệm, vọng tâm khởi niệm vô minh, liền rơi vào hữu niệm, rơi vào sanh tử, mê mãi buông mất bản tâm, lang thang trong sáu trần, xa rời “thể vô sanh” đáng thương cho chính mình.

“Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh,
“Thú hướng chân như tổng thị tà.
“Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
“Niết bàn sanh tử đẳng không hoa.

Phá trừ phiền não càng thêm bệnh,
‘Tìm đến chân như cũng là tà.
‘Tùy thuận các duyên không quái ngại,
‘Niết bàn sanh tử thảy không hoa.”
– Tú tài Trương Chuyết –

Còn thấy có phiền não – có đến chân như, tức là là còn nhị nguyên – là tâm chưa bất nhị “không hai”, là chưa thấy được đạo “chân tâm” “thấy tánh”.

“Các ông phải chân thật trong mọi việc, không có gì chân thật trong đời mà không chân thật trong Phật pháp, và không có gì không chân thật trong Phật pháp, lại chân thật trong đời.”
– Thiền sư Thiên Quế –




DÂN TỘC – ĐẠO PHÁP – GIA ĐÌNH PHẬT TỬ NỖI ĐAU TRI THỨC

NỖI ĐAU TRI THỨC
– Phan Văn Huy Tâm –

Qua pháp thoại: Huynh Trưởng GĐPTVN Với Đạo Pháp Và Dân Tộc của Hòa Thượng Thích Nguyên Hạnh.
(http://www.gdptthegioi.org/modules.php…….)
Tác giả kính mượn lời và ý pháp thoại, viết nên cảm xúc:

1. Thời kì nguyên sử ( 2879 – 111 CN
• Năm 2819 trc CN : người Việt cổ hình thành (lấy tên Bách Việt). Chiến tranh Tần Sở nổ ra, người Hoa Hạ xâm lược nước ta) Người Bách Việt bị mất lãnh thổ và bị đồng hóa với người Hoa Hạ. Số ít bộ phận người Bách Việt tách thành nước Văn Lang.
• Từ năm 257 – 208 TCN, Thục Phán, thủ lĩnh người Âu Việt hợp nhất với nước Văn Lang của Lạc Việt, đặt quốc hiệu nước là Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương. Thời kỳ này lịch sử được tái hiện thông qua lăng kính truyền thuyết với việc An Dương xây thành Cổ Loa.
• Năm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôi lập ra nhà nước Nam Việt.
•Năm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôi
•Năm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôiNăm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôi lập ra nhà nước Nam Việt.
•Năm 208 Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương xụp đổ, Triệu Đà lên ngôilập ra nhà nước Nam Việt

2. Thời kì Bắc thuộc lần 1, 2,3
• Năm 113, nội tình nhà Triệu rối ren, nhà Hán thừa cơ đưa quân sang đánh Nam Việt, đổi tên Nam Việt thành Giao Chỉ.
• Từ năm 207 TCN – 39 SCN, Việt Nam sống dưới ách đô hộ của nhà Hán.
• Từ 40 – 43, khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Sau thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh.
• Năm 41, Mã Viện mang 20 vạn quân sang xâm lược nước ta. Năm 43, Hai Bà Trưng thất bại, phải nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết.
• Từ năm 43 – 543, Việt Nam sống dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Thời gian này có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu chống quân Đông Ngô. Bà Triệu tự xưng là Đại Hải Bà Vương, đánh nhau với tướng Đông Ngô là Lục Dân nhưng thất bại.
• Từ năm 544 – 548, khởi nghĩa của Lý Bí 544, Lý Nam Đế xưng vương, đặt tên nước là Vạn Xuân.
• Từ năm 548 – 571, Triệu Quang Phục tiếp tục kháng chiến chống quân Lương và lên ngôi vua là Triệu Việt Vương.
• Từ 571 – 602, Lý Phật Tử, họ hàng với Lý Nam Đế tiêu diệt Triệu Việt vương và lên ngôi. Thời kỳ này phong kiến phương Bắc là nhà Tùy sang xâm lược. Lý Phật Tử đầu hàng, Việt Nam bị nhà Tùy đô hộ.
• Năm 722, khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Sau này, cuộc khởi nghĩa thất bại, nước ta chịu sự đô hộ của nhà Đường.
• Từ 791 – 802. Khởi nghĩa Phùng Hưng thắng lợi. Năm 802, nhà Đường tấn công, Việt Nam lại chịu sự đô hộ của nhà Đường.

3. Thời kì quân chủ tự chủ (905 – 938)
• Từ 905 – 938, thời kỳ xây nền tự chủ bắt đầu với chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ. Sau đó tiếp nối là Khúc Thừa Hạo, Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ.
• Từ 939 – 944, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, lên ngôi vua và đóng đô ở Cổ Loa.
• Từ 944 – 950, Dương Tam Kha cướp ngôi và xưng vương.
• Từ 950 – 965, thời kỳ Hậu Ngô vương. Con của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, giành lại ngôi vua cho nhà Ngô.
• Từ 966 – 968, loạn 12 sứ quân.
• Từ 968 – 980, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân lên ngôi, hiệu Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lấy Hoa Lư làm kinh đô. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết, con là Đinh Toàn mới sáu tuổi được triều thần đưa lên ngôi.
• Từ 980 – 1005. Nhà Tống xâm lược Việt Nam, thái hậu Dương Vân Nga, mẹ của Đinh Toàn mời Lê Hoàn lên ngôi để chỉ huy nhân dân chống Tống. Lê Đại Hành lên ngôi, đóng đô ở Hoa Lư năm 1005, Lê Đại Hành mất.
• Từ 1005 – 1009, thời đại của Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều.
• Từ 1010 – 1028. Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên ngôi hoàng đế sau khi Lê Ngọa Triều mất. Năm 1010, Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) cho dời đô về Thăng Long (Hà Nội ngày nay), mở đầu cho thời kỳ phát triển văn hóa Thăng Long.
• Từ 1028 – 1054, triều đại của Lý Thái Tông.
• Từ 1054 – 1072, triều đại của Lý Thánh Tông.
• Từ 1072 – 1128, triều đại của Lý Nhân Tông. Thời kỳ này gắn với các chiến công của Lý Thường Kiệt đánh quân Tống và các thắng lợi trên mặt trận ngoại giao của Thái sư Lê Văn Thịnh.
• Từ 1128 – 1138, triều đại của Lý Thần Tông.
• Từ 1138 – 1175, triều đại của Lý Anh Tông. Thời kỳ này, triều chính rối loạn nhưng nhờ có các trung thần nên cơ đồ nhá Lý vẫn được giữ vững
• Từ 1176 – 1210, triều đại của Lý Cao Tông. Thời kỳ này chính sự đổ nát, giặc giã, đói kém liên miên. Nhà Lý bắt đầu suy thoái.
• Từ 1211 – 1225, triều đại của Lý Huệ Tông và Chiêu Hoàng. Thời kỳ này triều chính rối ren, lòng người ly tán, nhà Lý không còn đảm đương được vai trò lịch sử nữa. Trần Thủ Độ cùng những người thân tín trong họ nhà Trần làm một cuộc đảo chính cung đình hợp pháp, thông qua các cuộc hôn nhân giữa công chúa Chiêu Thánh và Trần Cảnh, bắt ép công chúa nhường ngôi cho chồng.

Từ 1225 bắt đầu triều đại nhà Trần.
• Từ 1225 – 1258, triều đại của Trần Thái Tông. Năm 1258, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Dân ta đã dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch, sau đó tổ chức phản công ở Đông Bộ Đầu. Quân Nguyên thua, phải rút chạy về nước.
• Từ 1258 – 1278, triều đại của Trần Thánh Tông. Thời kỳ này triều Trần khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang các điền trang thái ấp, mở các khoa thi để lựa chọn nhân tài, thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo với triều đình phong kiến phương Bắc.
• Từ 1279 – 1293, triều đại của Trần Nhân Tông. Năm 1285, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai. Các vua Trần tổ chức hội nghị quân sự ở Bình Than, tập trận ở Đông Bộ Đầu đồng thời tổ chức hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến các bô lão xem nên “hòa” hay nên “đánh”. Sau các chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp, tháng 6-1285, giải phóng kinh đô Thăng Long. Năm
• 1288, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba. Sau trận chiến trên sông Bạch Đằng, đất nước được giải phóng. Chiến thắng lịch sử gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
• Từ 1293 – 1314, triều đại của Trần Anh Tông. Đây là một thời kỳ thái bình thịnh trị của vương triều Trần.
• Từ 1314 – 1329, triều đại của Trần Minh Tông.
• Từ 1329 – 1341, triều đại của Trần Hiến Tông.
• Từ 1341 – 1369, triều đại của Trần Dụ Tông. Chính sự bắt đầu đổ nát, gian thần
• rất nhiều.
• Từ 1370 – 1372, triều đại của Trần Nghệ Tông. Quân Chiêm Thành đánh vào kinh đô, nhà vua phải lánh nạn. Sau đó nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông.
• Từ 1372 – 1377, triều đại của Trần Duệ Tông. Vua đem quân đi đánh Chiêm Thành và chết trong chiến trận.
• Từ 1377 – 1388, triều đại của Trần Phế Đế. Hồ Quý Ly bắt đầu thao túng triều đình.
• Từ 1388 – 1398, triều đại của Trần Thuận Tông. Thời kỳ này quyền hành thực chất nằm trong tay Hồ Quý Ly.
• Từ 1398 – 1400, triều đại của Trần Thiếu Đế. Năm 1400, Hồ Quý Ly ép Thiếu Đế nhường ngôi. Triều đại nhà Trần chấm dứt.
• Từ 1400 – 1401, triều đại Hồ Quý Ly. Nhiều cải cách táo bạo được thực thi như mở mang thi cử, phát hành tiền giấy tăng cường quân đội thường trực, định ra hình luật. Tuy nhiên các cải cách này không được sự ủng hộ của toàn dân.

4. Thời kì Bắc Thuộc lần 4
• Từ 1401 – 1407, triều đại Hồ Hán Thương nhưng thực chất Hồ Quý Ly vẫn cầm quyền. Quân Minh sang xâm lược.
• Từ 1407 – 1414, thời kỳ hậu Trần gồm các triều đại của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế chống quân Minh nhưng không thành công.

5. Thời kì quân chủ trung hưng
• Từ 1428 – 1433, thời kỳ mở đầu triều đại Lê Sơ bắt đầu từ triều đại của Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Năm 1418, Lê Lợi khởi binh. 1427 quân Minh thua phải rút quân. 1428 Nguyễn Trãi thay mặt vua viết “Bình Ngô đại cáo”, một bản tuyên ngôn độc lập của nước ta, khẳng định chủ quyền, cương vực, đánh dấu một sự phát triển mới trong lịch sử dựng và giữ nước.
• Từ 1433 – 1442, triều đại của Lê Thái Tông. Thời kỳ này có một vụ án lịch sử lớn: “Tru di Tam tộc” Nguyễn Trãi.
• Từ 1442 – 1459, triều đại của Lê Nhân Tông. Thời kỳ có loạn Lê Nghi Dân, nhà vua bị giết năm 19 tuổi.
• Từ 1460 – 1497, triều đại của Lê Thánh Tông. Đây là thời kỳ thịnh trị của triều Lê với sự ra đời của bộ luật Hồng Đức – một bộ luật hoàn chỉnh, có nhiều điểm tiến bộ.
• Từ 1498 – 1504, triều đại của Lê Hiến Tông.
• Từ 1504 – 1509, triều đại của Lê Túc Tông, sau đó là Lê Uy Mục.
• Từ 1509 – 1516, triều đại của Lê Tương Dực. Nhà Lê suy thoái.
• Từ 1516 – 1522, triều đại của Lê Chiêu Tông. Đại thần Mạc Đăng Dung phế Lê Chiêu Tông, dựng Lê Cung Hoàng lên ngôi.
• Từ 1522 – 1527, triều đại Lê Cung Hoàng nhưng quyền hành thực chất nằm trong tay họ Mạc.

6. Thời kì chia cắt
• Từ 1527 – 1529, Mạc Đăng Dung lập nên triều Mạc.
• Từ 1530 – 1592, các triều đại Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp.
• Từ 1533 – 1578, thời kỳ nhà Lê Trung Hưng bắt đầu từ Lê Trung Tông, Lê Anh Tông, Lê Kính Tông, Lê Thần Tông, Lê Chân Tông, Lê Huyền Tông, Lê Gia Tông, Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông, Lê Du Phường, Lê Thuần Tông, Lê Yý Tông, Lê Hiển Tông, Lê Chiêu Thống. Sau 50 nội chiến Lê – Mạc, nhờ Trịnh Tùng Mạc Mậu Hợp bị bắt. Nhà Mạc chấm dứt. Vai trò của nhà Trịnh nổi lên và bắt đầu thời kỳ vua Lê, Chúa Trịnh. Thời kỳ cuối cùng của nhà Lê Trung Hưng, triều chính nát bét. Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dẹp Trịnh, đưa Lê Duy Cận lên làm giám quốc. Lê Chiêu Thống vì quyền lợi cá nhân sang cầu viện nhà Mãn Thanh. Quân Thanh kéo quân vào xâm lược Việt Nam.
• Năm 1789, trận Đống Đa. Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ đã chiến thắng quân Thanh, giành độc lập cho Tổ quốc.

Từ 1545 – 1788, triều đại của nhà Trịnh nắm thực quyền bên cạnh sự tồn tại của vua Lê và Chúa Nguyễn Đàng trong (bắt đầu từ chúa Nguyễn Hoàng – 1558).

• Năm 1548 Trịnh Kiểm bắt đầu nắm quyền binh. Triều đại của Trịnh Kiểm bắt đầu từ 1545 – 1570. Tiếp đó là các chúa Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Can, Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Trịnh Cán, Trịnh Khải và Trịnh Bồng.
• Từ 1672 có sự phân chia Đàng trong (chúa Nguyễn) và Đàng ngoài (chúa Trịnh + Vua Lê) lấy sông Gianh làm giới tuyến.
• 1782 loạn kiêu binh. Sự kiện này được miêu tả rất rõ trong tiểu thuyết lịch sử – “Hoàng Lê nhất thống chí”.
• 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, Quảng Nam. Bắt đầu từ đây, nhà Nguyễn khởi nghiệp với 9 đời chúa là Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Thụ, Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Phúc Thuần. Tới năm 1174, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân đặt quan cai trị Thuận Hóa. Nguyễn Phúc Thuần chết, kết thúc giai đoạn lịch sử 9 chúa Nguyễn Đàng trong.

Từ 1778 – 1802, triều đại Tây Sơn.
• Năm 1771, anh em Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ) phất cờ khởi nghĩa. Nhà Tây Sơn hòa hoãn với chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn.
• 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, lập nên triều đại Tây Sơn.
• 1784 Nguyễn Ánh sang cầu viện Xiêm. Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm ở trận Rạch Giầm – Xoài Mút.
• 1786, Nguyễn Huệ ra Thăng Long diệt Trịnh phù Lê.
• 1788, Lê Chiêu Thống dẫn đường quân Thanh vào xâm lược nước ta.
• 1789, Nguyễn Huệ chỉ huy quân đại quân đánh tan quân Thanh ở Ngọc Hồi, Đống Đa.
• 1792 vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) từ trần. Từ đây triều đại Tây Sơn bắt đầu suy thoái.
• Từ 1793 – 1802, triều đại của Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung). Chính sự rối loạn do nhà vua tin lời gian thần.
• 1800 Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn.
• 1801 Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân.
• 1802 Nguyễn Ánh đánh kinh thành Thăng Long. Triều Tây Sơn chấm dứt.

7. Thời kì quân chủ thống nhất

• Từ 1802 – 1945, triều đại của nhà Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Ánh (Gia Long). Nếu tính cả các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Hoàng (1558) nhà Nguyễn tồn tại ở miền Nam 367 năm.
• 1802, sau khi diệt xong nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân (Huế).
• 1815 bộ “Quốc triều hình luật” được ban hành.
• Từ 1820 – 1840, triều đại của Minh Mạng.
• Năm 1821, dựng lại Quốc Tử Giám, mở thi hội và thi đình. Thực thi các chính sách khuyến nông, tìm hiểu kỹ thuật đóng tàu của châu Âu. Về ngoại giao: thần phục nhà Thanh, nhưng nghi kỵ Pháp nên có hàng loạt chính sách cấm đạo.
• Từ 1841 – 1847, triều đại của Thiệu Trị.
• Từ 1847 – 1883, triều đại của Tự Đức.

8. Thời kì thuộc địa

• 1858 Pháp nổ súng xâm lược Nam Kỳ.
• 1858, tiếng súng thực dân Pháp bắn thẳng vào cửa biển Đà Nẳng, mở đầu trang sử thực dân.
• 1862, người Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông – Nam Phần.
• Năm1867 người Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây – Nam phần.
• Năm1883 – 1884 những hoà ước Kỷ Mùi, hòa ước Patrenode hợp thức hóa sự đặt ách thống trị của người Pháp lên đất nước VN.
• 1885 hòa ước Patơnốt, Việt Nam bị chia làm ba miền: Bắc, Trung, Nam, chịu sự bảo hộ của Pháp.
• 1883, triều Dục Đức, chỉ tồn tại trong ba ngày.
• 1883 (tháng 6 – tháng 11) triều đại Hiệp Hòa, tồn tại trong sáu tháng.
• 1883 – 1884, Triều Kiến Phúc, tồn tại trong tám tháng.
• 1884 – 1885, triều đại của Hàm Nghi nhà vua ra chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân chống Pháp.
• 1885 – 1888 triều đại Đồng Khánh.
• 1889 – 1907 triều đại của Thành Thái. Nhà vua có ý thức tự cường nên không được thực dân Pháp chấp nhận.
• 1907, nhà vua bị ép phải thoái vị.
• 1907 – 1916, triều Duy Tân, nhà vua chống Pháp quyết liệt, định tổ chức khởi nghĩa thì bị lộ. Nhà vua bị Pháp đầy sang đảo Rênyông.
• 1916 – 1925, triều Khải Định, một triều vua bù nhìn mạt hạng nhất.

Guồng máy cai trị của thực dân kéo dài đến đầu thế kỷ Trong giai đoạn lịch sử tối tăm, 80 năm lệ thuộc, chính quyền thực dân ủng hộ Thiên Chúa Giáo, phá hủy Phật Giáo, bắn giết Tăng – Ni – đồng bào Phật tử, tàn phá chùa chiền, biến chùa chiền thành cơ sở Thiên Chúa Giáo, ví dụ: Nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn, nhà thờ La Vang tại Quảng Trị.

• 1926 – 1945 triều Bảo Đại. Năm 1945, Bảo Đại thoái vị, chấm dứt chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam.
• 1859 – 1864, khởi nghĩa Trương Định.
• 1861 – 1868 khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực.
• 1886 – 1887, khởi nghĩa Ba Đình.
• 1885 – 1887, khởi nghĩa Bãi Sậy.
• 1886 – 1892, khởi nghĩa Hùng Lĩnh.
• 1885 – 1896, khởi nghĩa Hương Khê.
• 1887 – 1913, khởi nghĩa Yên Thế.
• 1917 – 1918, khởi nghĩa Thái Nguyên.
• 1921, bạo động ở Lạng Sơn.
• 1930, bạo động ở Yên Bái.
• 3.2.1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời.

Năm 1930, dân tộc Việt Nam không chỉ chịu đựng dưới một thế lực thống trị thực dân, mà còn phải chịu áp lực của cộng sản.

Năm 1945. Người Nhật tiến vào Đông Dương.

Rồi cuộc chiến 1946 – 1954, hậu quả của nó là VN bị chia đôi đất nước. Một nửa ở miền Bắc, đi theo con đường cộng sản, một nửa ở miền Nam đi theo con đường tự bản.

Dưới thế lực của cộng sản – của người Pháp – tiếp theo là người Mỹ, dân tộc VN chìm vào đêm tối triền miên.

Cộng sản là những người vô thần duy vật, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo, vì Marx cho tôn giáo là thuốc phiện của loài người mà ‘bọn’ tư bản dùng làm công cụ ru ngủ nhân dân lao động bằng cách khuyên họ cố gắng chịu những khổ cực ở đời này rồi sẽ được đền bù một thiên đường ở kiếp sau để dễ bề bóc lột họ, trong khi chủ nghĩa cộng sản chủ trương xây dựng thiên đường cộng sản ngay trên mặt đất này. Bởi vậy, cộng sản cho tôn giáo là một trở lực cần phải tiêu diệt.

Học thuyết của Karl Marx về tôn giáo: “Tôn giáo là thế giới quan lộn ngược”

“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.

Trích dẫn từ nguồn: https://www.facebook.com/Ch%E1%BB%A7-Ngh%C4%A9a-M%C3%…/notes.

Sau năm 1954, chùa chiền miền Bắc biến thành lớp học, nhà kho hoặc san bằng để thủ tiêu mê tín dị đoan, Tăng – Ni tứ tán. Một số chùa thoi thóp, nhờ vào tín tâm hiếm hoi của một số ít Phật tử trong làng. Sau năm 1986, thời kỳ đổi mới, chùa chiền được tu sửa – vá víu – làm mới, nhưng chỉ dừng lại ở hình thức.

Năm 1954, dưới sự ảnh hưởng của Mỹ, ông Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ Tướng, rồi trở thành Tổng thống nền Đệ nhất Cộng hòa. Trong giai kỳ lịch sử này, dân tộc VN chìm ngập điêu linh thống khổ. Cả hai miền Nam – Bắc, một Phật Giáo trong Nam bị kỳ thị đàn áp, một Phật Giáo ngoài Bắc bị bức tử, không nơi đâu – là nơi chốn bình yên cho Phật Giáo !

Năm 1963, Phật Giáo VN trỗi dậy. Trong biến cố lịch sử, Phật Giáo VN đã nói lên tiếng nói của mình trước áp bức bất công. Phật tử miền Nam rầm rộ xuống đường phản đối chế độ độc tài, đỉnh điểm là sự kiện Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu.

Nguồn: http://vedepphatphap.vn/chelsea-con- gai-cuu-tong-thong-my-b…
http://giacngo.vn/nguyetsan/2013/05/24/32C000/.

Đồng thời, trong biến cố này, cuộc chiến VN bùng nổ giữa bên này và bên kia. Cuộc đấu tranh ý thức hệ càng lúc càng gay gắt, đẩy Phật Giáo VN vào chỗ tối tăm nghiệt ngã hơn. Đứng giữa hai lằn đạn tranh chấp, bên nào cũng sẵn sàng đâm vào sau lưng Phật Giáo.

Trang sử kéo dài đến năm 1975. Cộng sản chiếm toàn bộ miền Nam, được xem như kẻ chiến thắng, đưa đất nước này nằm hoàn toàn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Phật giáo sau 1975, các hoạt động tôn giáo bị hạn chế, nhiều chùa chiền biến thành công sở – trường học – hợp tác xã hoặc nhà kho, các phong trào Phật giáo miền Nam bị tan rã, nhiều danh tăng bị bức tử – quản thúc – đi tị nạn. Trại trường GĐPTVN tại Đà Lạt bị chiếm dụng.

Năm 1881, Phật giáo VN biến tướng, trở thành thành viên Mặt Trận Tổ Quốc VN, hàng ngũ giáo phẩm thiên tả. Nội bộ Phật giáo bị thế quyền thao túng – làm rạn nức – phân hóa – chia rẽ trầm trọng, bằng mặt không bằng lòng. Tự viện tranh giành ảnh hưởng – cát cứ riêng tư, biến thái hình thức tín ngưỡng, nhiều khóa tu học lôi kéo rầm rộ về mặt hình thức, năm ì ở mức độ cầu an – cầu siêu – dọn đường về cực lạc, đánh mất tinh thần nhân bản – giác ngộ – giải thoát. Giới tăng sĩ, có trình độ học vị cao, nhưng ý thức lịch sử Phật Giáo VN – bảo tồn truyền thống Đạo Phật khan hiếm. Giảng sư thì được đào tạo nhiều, nhưng không lý giải – thẩm thấu tuệ giác Phật Đà, chỉ là diễn giả, chọc cười – chọc khóc thính giả.

Gia Đình Phật Tử Việt Nam bị hù dọa – bức tử, bị phá phách – khoáy rối – sách nhiễu có hệ thống. Bị kỳ thị – áp bức bất công, không bình đẳng. Bị thế quyền thao túng giựt dây, nhiều tự viện chối từ GĐPTVN, tạo khoảng cách trầm trọng giữa nhà nước – Tăng Ni và GDPTVN.

GĐPTVN là một tổ chức giáo dục khai phóng, đào luyện hướng dẫn Thanh – Thiếu – Đồng niên toàn thiện nhân cách, trở thành người Phật tử chân chánh, người công dân hiền tài – gương mẫu, góp phần phụng sự xã hội theo tinh thần Phật Giáo.

GĐPTVN đang bị áp bức bất công, không tôn trọng tự do tín ngưỡng (theo hoặc không theo…). Bị áp đặt – bắt buộc phải đăng ký vào một tổ chức khác ngoài GĐPTVN, một tổ chức hình đồng đã sửa đổi, không thực hiện đúng Nội Quy – Quy Chế GĐPTVN, phi GĐPT.

GĐPTVN phải được bình đẳng trước pháp luật – có đầy đủ quyền hạn công dân – quyền tự do dân chủ – quyền tự do tín ngưỡng – tự do tôn giáo.

GĐPTVN phải được công bằng – bình đẳng, tự do sinh hoạt như các tổ chức xã hội khác, “Mọi người đều có dòng máu cùng đỏ, gọt nước mắt cùng mặn như nhau”. Nhìn chung, chính sách của các thể chế cầm quyền: Thời Pháp thuộc, thời đệ nhất cộng hòa, và hiện nay, Đạo Phật luôn luôn bị áp bức – bất công. Các chế độ chính trị, khoáy rối nội bộ Phật Giáo, không có dấu hiệu chuyển biến tích cực về mặt tự do tín ngưỡng – tự do tôn giáo.

Kể từ năm 1858, đến nay (2016), 164 năm trôi qua. Gần 2 thế kỷ, Phật Giáo vẫn tiếp tục bị khốn đốn ! tiếp tục đi giữa những lằn đạn khủng bố của các thế lực chính trị, thủ đoạn chính trị, chính trị hóa tôn giáo, thọc tay sâu vào tôn giáo, làm chia rẽ – phân hóa tồi tệ ! Đây là những hệ lụy lịch sử, mà Phật Giáo và dân tộc VN tiếp tục hứng chịu đọa đày – ngụp lặn giữa cuộc thương đau.

Đức Phật đã dạy:
“Người thực hành theo Đạo, như khúc gỗ trôi theo dòng nước. Nếu không bị người ta vớt, không bị quỷ thần ngăn trở, không bị nước xoáy làm cho dừng lại và không bị hư nát. Ta đảm bảo rằng, khúc cây ấy sẽ ra biển cả. Người học Đạo, nếu không bị tình dục mê hoặc, không bị tà kiến làm rối loạn, tinh tấn tu tập đạo giải thoát, ta bảo đảm người này sẽ đắc Đạo”.

Trích dẫn từ: Lược giải Kinh 42 Chương – Chương 27 – Thích Viên Giác.http://www.buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/03742chuong6.htm

Dòng đời là một chiến trường đối kháng khốc liệt, không dính mắc vào bờ bên này hay bờ bên kia. Phật giáo bị dính mắc, bị trói buộc vào vòng xoáy quyền lực chế độ, Phật giáo rơi vào sợi dây thòng lọng, bị buộc chặt vào khuynh hướng thế tục, bế tắc không tìm thấy lối ra.

Đâu là con đường phải đi ?
Bờ bên này, hay bờ bên kia !
Khúc gỗ đang trôi theo dòng nước, như một hành giả trên hành trình thực tập chí nguyện đại thừa. Không bị tấp vào bờ bên này, hay vào bờ bên kia.

Bờ bên này là kẻ thống trị, bờ bên kia là kẻ bị trị. Có kẻ chủ trương như thế này, có kẻ chủ trương như thế kia. Đấu trường lúc nào cũng có chủ nghĩa này hay chủ nghĩa khác, đối kháng lẫn nhau khốc liệt, luôn luôn đấu tranh để tìm vị thế sinh tồn cao hơn.

Lịch sử dân tộc, luôn luôn đối kháng – biến chuyển – thay đổi. Biết bao giai kỳ – biết bao thể chế, thành – trụ – dị – diệt liên tục.

Theo Ph.Ăngghen, về bản chất:

“Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”.

Trích dẫn từ nguồn: https://voer.edu.vn/m/nha-nuoc- va-cach-mang-xa-hoi/8c0ebc56.

Như vậy nhà nước chỉ là một phạm trù lịch sử, ra đời – tồn tại và phát triển trong một giai đoạn nhất định của xã hội đó và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó sói mòn theo thời gian, dẫn đến suy vong, không còn vững vàng được nữa.

Đức Phật đã dạy: “Khúc gỗ bị tấp vào bờ bên này hoặc vào bờ bên kia, thì khúc gỗ khó trôi được ra biển cả trọn vẹn”.

Từ bài học giá trị thích đáng, Phật Giáo suy ngẫm về con đường mà mình đang đi. Đừng để Phật Giáo bị cột trói vào bên này, hay bị dính mắc vào phía bên kia. Nếu để Phật Giáo bị cột trói vào một bên, thì Phật Giáo không còn là Phật Giáo nữa !

Sống, là để khẳng định chính mình. Muốn Phật Giáo được tồn tại, thì hãy khẳng định con đường Phật Giáo đang đi, và phải đi chính con đường mà Đức Phật đã khai thị.

Phật Giáo đã có một vốn sống nhân bản kỳ vĩ, không dễ dàng bị cám dỗ ru ngủ – nhắm mắt – quán tính buông xuôi. Không cần thiết phải dựa dẫm – phải nghe theo – làm theo ai cả, để dễ dàng bị chế ngự, biến thành thừa sai nô dịch. Mà bằng nghị lực vô úy, đủ ý chí vô ngã tự do, vượt thoát cả hai đầu, để khúc gỗ được thong dong trôi vào biển cả mệnh mông.

Đừng để khúc gỗ vướng vào vũng xoáy tối tăm, mắc vào cồn cạn dục vọng. Với cái tâm ngã mạn, cứ ngỡ rằng mình là ghê gớm lắm, là trung tâm vũ trụ. Kiêu ngạo – tăng thượng mạn – xem thường, đẩy cả dân tộc vào cơn lốc điên đảo, phó mặc cho khúc gỗ mắc cạn, không trôi được ra biển cả tự do.

Trong kinh Kalama, Đức Phật đã dạy:
Có một lần, đức Phật đi ngang qua bộ lạc của người Kalama. Nghe danh tiếng của Phật, người dân tìm đến đảnh lễ và hỏi Phật:

“Có một số đạo sư khác đi ngang qua đây. Người nào cũng muốn làm sáng tỏ, và ca tụng quan điểm của chính mình, nhưng lại bài xích, khinh miệt, chê bai, và xuyên tạc quan điểm người khác. Đối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: “Trong những vị đạo sư này, ai nói sự thật, ai nói dối ?”

Trong những trường hợp như thế, đương nhiên là các Ông có những nghi ngờ và có những phân vân:

Này các ông, các ông đừng tin một điều gì vì phong văn. Đừng tin một điều gì vì nó là tập quán lưu truyền. Đừng tin một điều gì vì được nhiều người nhắc đi nhắc lại. Đừng tin một điều gì vì đó là bút tích của thánh nhân. Đừng tin một điều gì vì đó là thói quen đã có từ lâu. Đừng tin một điều gì do ta tưởng tượng và lại nghĩ rằng do một thần linh nào đó khai thị cho ta. Đừng tin một điều gì vì đó là do các thầy có uy tín dạy. Nhưng này các Ông, khi nào tự mình chứng nghiệm và biết rõ như sau: “Các việc này là bất thiện; các việc này là đáng chê; các việc này bị các người có tuệ giác chỉ trích; các việc này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này các ông, hãy từ bỏ chúng! Và ngược lại, khi nào tự mình chứng nghiệm và biết rõ như sau: “Các pháp này là thiện; Các pháp này là không có tội; Các pháp này được người có trí tán thán; Các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc”, thời này các ông, hãy cố gắng thực hành để tự đạt đến và an trú trong hạnh phúc !

Trích từ nguồn: http://thuvienhoasen.org/…/niem-tin-va-kinh-kalama-nguyen-d…

Lật lại tự điển về tôn giáo thế giới, định nghĩa “chủ nghĩa vô thần, là phủ nhận sự hiện hữu của Trời. Trời được hiểu như một chủ vật, như: Phạm thiên – Chúa – Thượng đế… Tùy theo mỗi hệ thống tín ngưỡng, mà Trời có những danh xưng và vai trò khác nhau. Trong các tôn giáo độc thần, thì Trời là vị chủ tể khai sáng tạo dựng thế giới, trong các tôn giáo đa thần thì Trời là những vị thần có quyền năng siêu việt.”

Phật giáo là hữu thần hay vô thần ?
Đức Phật là bậc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, không phải là một linh thánh – là vị chúa tể khai sáng vũ trụ, bởi vì vũ trụ được hình thành do cộng nghiệp, trong đó có các vị trời. Đức Phật là một vị đạo sư của trời và người, vượt lên trên giới hữu hạn mà trời và người cần phải vượt qua, đó là sinh tử và luân hồi. Trời là cõi đang hưởng cuộc sống an nhàn. Đức Phật ra đời nhằm mục khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật trị kiến, thẩm thấu được bản chất khổ đau mà tự vượt thoát, không dừng lại ở mức độ hưởng phước an nhàn.

Đạo Phật là đạo NHÂN BẢN:
NHÂN: Là người, con người.
BẢN: Là gốc, là nền tảng.
Nhân bản là cái gốc của con người, là trung tâm quan trọng, đặt con người lên vị trí tối cao, là đức tính chủ yếu tự nhiên, giúp người có giáo dục – rèn luyện đạt được – trưởng thành nhân bản toàn thiện.

Giáo lý Phật Đà “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” – ý thức nhân bản, chọn con người làm cứu cánh giác ngộ. Phải có con người giác ngộ (tự giác), phát nguyện thực hiện chí nguyện Bồ tát, dấn thân nhập thế giác tha, trọn vẹn giác hạnh viên mãn.

Phật giáo đánh giá cao tinh thần nhân bản: Tự do – dân chủ – bình đẳng và công bằng. Tự do cá nhân, tự do tư tưởng và tự do bày tỏ ý kiến một cách dân chủ.

Như vậy, Đạo Phật có vốn quý tinh thần nhân chủ – nhân quyền. Những nghị định tôn giáo về mặt nhà nước mang tính áp đặt, đánh mất tư đo – dân chủ, là vi phạm nhân quyền – không tự do tín ngưỡng – không tự do tôn giáo.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot – Paris – Pháp. Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ. Trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân được hưởng, không phân biệt chủng tộc – màu da – phái tính – ngôn ngữ – tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác. Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế – thỏa ước nhân quyền khu vực – hiến pháp và luật pháp quốc gia. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi quốc gia và mọi dân tộc. Tinh thần của bản Tuyên ngôn là truyền đạt và giáo dục để nỗ lực thúc đẩy các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc tôn trọng các quyền con người. “Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này”.

Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc:
Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của mọi người trên toàn thế giới và các quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ chính là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.

Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.

Xét rằng: Nhân quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.

Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.

Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.

Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.

Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.

Do đó, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên ngôn một cách có hiệu lực, trong các dân tộc của các nước thành viên, và ngay cả trong những người dân sống trên các phần đất thuộc quyền cai quản của các nước đó.

Xem toàn văn bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền:
https://vi.wikipedia.org/…/Tuy%C3%AAn_ng%C3%B
4n_Qu%E1%BB%91…

Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo:
Kể từ năm 1920, Phật Giáo VN duy trì nhiều đạo tràng lón.

Tại miền Nam:
Thiền sư Thích Từ Phong giảng dạy tại chùa Giác Hải
Thiền sư Khánh Hòa tại chùa Tiên Linh
Thiền sư Chí Thành tại chùa Phi Lai, chùa Giác Hoa
Thiền sư Huệ Quang tại chùa Long Hòa
Thiền sư Khánh Anh tại chùa Long An

Tại miền Trung:
Thiền sư Tuệ Pháp giảng dạy tại chùa Thiên Hưng
Thiền sư Thanh Thái chùa Từ Hiếu
Thiền sư Đắc Ân chùa Quốc Ân
Thiền sư Tâm Tịnh chùa Tây Thiên
Thiền sư Phước Huệ chùa Thập Tháp
Thiền sư Phổ Tuệ chùa Tĩnh Lâm. Tại miền Bắc:
Thiền sư Thanh Hanh giảng dạy tại chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Bà Đá cũng là một đạo tràng lớn
Thiền sư Đỗ Văn Hỷ in ấn kinh sách rất nhiều

Phong trào chấn hưng Phật Giáo, được khởi xướng từ:
Thiền sư Khánh Hòa tại miền Nam
Thiền sư Phước Huệ tại miền Trung
Thiền sư Thanh Hanh tại miền Bắc
Ba vị được tôn là Tổ của phong trào chấn hưng Phật Giáo.

Tiếp theo sau đó xuất hiện thêm nhiều hội như:

Năm 1930, Thiền sư Từ Phong, thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, đặt tại trụ sở tại chùa Linh Sơn – Sài Gòn. Hội xuất bản tạp chí Từ Bi Âm. Thiền sư Khánh Hòa làm chủ nhiệm.

Năm 1932, Thiện sĩ Lê Đình Thám, thành lập Hội An Nam Phật học, trụ sở đặt tại chùa Trúc Lâm – Huế. Hội xuất bản tạp chí Viên Âm. Thiền sư Giác Tiên làm Chứng minh Đạo sư.

Năm 1932, ông Đoàn Trung Còn thành lập nhà xuất bản Phật học Tùng thư.

Năm 1934, Thiện sĩ Nguyễn Năng Quốc, thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ, tại Hà Nội. Hội xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Thiền sư Thích Thanh Hanh (Tổ Vĩnh Nghiêm) làm Thiền gia Pháp chủ.

Năm 1934, Thiền sư Huệ Đăng, sáng lập Hội Thiên Thai Thiền Giáo tông Liên hữu, tại Bà Rịa.

Năm 1935 Lễ Phật đản tại Huế đã mời được vua Bảo Đại và Thái hậu làm Hội chủ danh dự.

Trụ trì chùa Thiên Phước là Lê Phước Chi, thành lập Hội Phật giáo Tương tế, ở Sóc Trăng.

Hội Lưỡng Xuyên Phật học tại Trà Vinh.
Hội Phật học Kiêm Tế tại Rạch Giá, ra tạp chí Tiến hóa.
Hội Tịnh độ Cư sĩ tại Chợ Lớn của giới cư sĩ, ra tạp chí Pháp Âm.

Tại miền Bắc có hội Bắc Kỳ Phật giáo Cổ Sơn môn.

Các tổ chức đầu tiên đã quy tụ được rất nhiều bậc cao tăng – nhân sĩ như: Trần Trọng Kim, Thiều Chửu, Bùi Ky. Một số tạp chí khác cũng xuất bản như: Pháp Âm, Quan Âm, Tam Bảo, Tiếng chuông sớm, Duy tâm, Tiến hóa. Giai đoạn 1945 – 1954.

Tại miền Bắc:
Năm 1949, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đổi thành Hội Tăng Ni Chỉnh lý Bắc Việt do thiền sư Tố Liên làm Hội trưởng; đến năm 1950 đổi thành Hội Phật giáo Tăng già Bắc Việt, tôn thiền sư Thích Mật Ứng làm Thiền gia Pháp chủ, ra tờ báo Phương tiện Thiện sĩ Bùi Thiện Cơ, thành lập Hội Việt Nam Phật giáo tại chùa Quán Sú.

Tại miền Trung:
Sơn Môn Tăng già Trung Việt được thành lập tại chùa Thừa Thiên, do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Tùng lâm Pháp chủ.

Hội An Nam Phật học đổi thành Hội Việt Nam Phật học, do cư sĩ Lê Văn Định làm hội trưởng.

Tại miền Nam:
Năm 1951, Giáo hội Tăng già Nam Việt được thành lập, trụ sở tại chùa Ấn Quang, do Hòa thượng Đạt Thanh làm Pháp chủ và Hòa thượng Đạt Từ làm Trị sự truong.

Năm 1951, Hội Phật học Nam Việt được thành lập, Hội trưởng là cư sĩ Nguyễn Văn Khỏe, trụ sở đầu tiên tại chùa Khánh Hưng, sau xây chùa Xá Lợi làm trụ sở Tháng 5 năm 1951, Đại hội Phật giáo toàn quốc họp tại chùa Từ Đàm – Huế, để thảo luận về tương lai Đạo pháp. Đại hội gồm trên 50 đại biểu Tăng già và Cư sĩ của 6 tập đoàn Phật giáo:

Giáo hội Tăng Già Bắc Việt.
Giáo hội Tăng Già Trung Việt. Giáo hội Tăng Già Nam Việt. Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt. Hội Phật giáo Trung Việt.
Hội Phật học Nam Việt.

Của ba miền đã quyết nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam với danh hiệu Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, tôn thỉnh Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đảm vị ngôi hội chủ.

Ngoài ra còn một số tổ chức như: Phật học đường Báo Quốc do Hòa thượng Thích Trí Thủ đứng đầu; Phật học đường Nam Việt quy tụ của 4 Phật học đường lớn nhất khi đó.

Năm 1951, 6 tổ chức ba miền họp tại Huế thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức thống nhất, do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội trưởng, chức Thượng Thủ và Giám luật luân chuyển giữa các miền. Đức Đệ nhất Thượng thủ là Hòa thượng Thích Tuệ Tạng ở miền Bắc.

Bên ngoài Tổng hội Phật giáo Việt Nam, còn có những tổ chức Phật giáo khác hoạt động.

Giai đoạn 1954 – 1975
Năm 1958, các tổ chức của Tổng hội tại miền Bắc thống nhất lại thành Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, tôn Hòa thượng Thích Trí Độ làm Hội trưởng, Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm Phó hội trưởng.

Sau biến cố 1963, năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập tại miền Nam, nòng cốt chính là từ các tổ chức thuộc Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Trích dẫn từ nguồn: https://vi.wikipedia.org/…/Ch%E1%BA%A5n_h%C6%B0ng_Ph%E1%BA%…

Gia Đình Phật Tử Việt Nam:
Năm 1938, tại Huế, Ban Quản trị Hội An Nam Phật học, gồm có: Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Toàn, Bửu Bác, Lê Thanh Cảnh, Trợ Dư, Tôn Thất Tùng, nhận thấy hội đủ điều kiện thuận lợi hình thành tổ chức Ban Đồng Ấu Phật giáo, tại chùa Từ Đàm, do HTr Bửu Bác trực tiếp phụ trách.

Hướng dẫn – phát triển tại các địa phương gồm có: Các Nữ HTr: Công Huyền Tôn Nữ Hà và Hân (con ông Ngũ đợi Nguyễn Phúc Vĩnh Trân).

Các Nữ HTr: Mẫn chị, Mẫn em và ông Lê Đình Luân (con của Bác sĩ Lê Đình Thám).

Các Nam HTr Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Hữu Huỳnh, Bửu Cang, Bửu Phê, Tôn Thất Ngoạn, Tôn Thất Túy, Tôn Thất Phú, Tráng Thông (con Kỳ Ngoại Hầu Cường Để), Lê Lừng, Lê Bối, Nguyễn Hữu Viện V.v…

Năm 1940, Bác sĩ Tâm Minh LÊ ĐÌNH THÁM, thành lập Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục Ban quản trị gồm có: Đinh Văn Nam (là Hòa thượng Thích Minh Châu), Võ Đình Cường, Phạm Quy, Lê Bối, Ngô Điền, Đinh Văn Vinh, Nguyễn Hữu Quán, Lê Đình Luân, Lê Lừng v.v…

Năm 1944, tại Huế, các đơn vị Thanh niên Phật học, Hướng đạo Phật giáo và Đồng ấu Phật học họp tại đồi Quảng Tế nhân Lễ Phật đản, và cùng nhau thành lập Gia đình Phật Hóa Phổ

Năm 1951, tại chùa Từ Đàm, Huế, nhân cuộc đại hội Gia đình Phật Hóa Phổ với sự hiện diện của các đại biểu từ Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Lâm Viên, Bình Thuận và Đồng Nai, ban tổ chức đồng tình đổi danh xưng Gia đình Phật Hóa Phổ thành Gia đình Phật tử Việt Nam, với sự canh tân về cơ cấu tổ chức điều hành và các hình thức sinh hoạt.

Trích dẫn từ nguồn: https://vi.wikipedia.org/…/Gia %C4%91%C3%ACn h Ph%E1%BA%ADt

Giai đoạn 1975 – 1995:
– Anh Võ Đình Cường từ nhiệm.
– Một số áo lam phát triển ra hải ngoại
– Hội đồng huynh trưởng cao niên thành lập (đây là sự quyền biến: tùy duyên sinh hoạt trước chướng duyên)

Thành tựu các Phật sự quan trọng:
Năm 1980: đại trai đàn chẩn tế GĐPT Gia Định, tổ chức tại Quảng Hương Già Lam, đây là dịp để các nơi phục hoạt.
Năm 1987: liên trại Lộc Uyển – A Dục – Huyền Trang – Vạn Hạnh 2 được tổ chức tại Quảng Hương Già Lam với 400 trại sinh.
Năm 1990: trại Vạn Hạnh 3, 4 được tổ chức tại miền Liễu Quán và Vạn Hạnh.
Xây dựng GĐPT tại các khu kinh tế mới.

Giai đoạn 1995 – đến nay:
Ngày 19/2/1995: tại trại trường Đà Lạt, hội nghị huynh trưởng cấp Dũng, cấp Tấn toàn quốc để kiện toàn nhân sự BHD TW GĐPT Việt Nam và đã công cử anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu làm Quyền Trưởng Ban.

Tổ chức phong trào về nguồn, khôi phục hình thức GĐPT, chọn ngày giổ bác Tâm Minh làm ngày hiệp kỵ (07/03 AL).

Năm 1998, tại Quảng Hương Già Lam, hội nghị huynh trưởng cấp Dũng, cấp Tấn toàn quốc được mở ra. Đã quyết định các chức danh không còn chữ “quyền”, chuẩn bị tổ chức đại hội huynh trưởng toàn quốc.

Năm 2000, 2002 tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam Hội nghị HTr Cấp Dũng – Cấp Tấn toàn quốc được tiến hành nhằm tổng kết hoạt động Phật sự và vạch chương trình sinh hoạt, san định tài liệu tu học, thiết lập dự án tổ chức ĐH HT toàn quốc, kiện toàn nhân sự, Anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu được tín nhiệm trong vai trò Trưởng Ban.

Năm 2004, tại Chùa Viên Thông, đại hội huynh trưởng GĐPT toàn quốc thu hẹp được tổ chức với thành quả:

Công cử anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu làm Trưởng ban.
Ban hành các văn bản dưới Nội Quy.
Tu chỉnh chương trình tu học và huấn luyện.
Trong giai đoạn này, GĐPT vẫn tổ chức trại Vạn Hạnh 5, 6 và các hội thảo chuyên đề.

Năm 2006, tại Như Thị Thất Hội nghị HT Cấp Dũng – Cấp Tấn toàn quốc được tiến hành nhằm xác định lập trường lý tưởng của tổ chức GĐPT. Việt Nam.

Năm 2008, tại Chùa Pháp Vân Hội thảo Trần Nhân Tông lần 1 được tiến hành, và đã thống nhất lưu nhiệm thành phần BHD. Trung Ương do Anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu làm Trưởng Ban.

Trong giai đoạn này, các trại huấn luyện được tổ chức với quy mô lớn cả về chất lượng và số lượng như: các trại Vạn Hạnh 5, 6, trại Huyền Trang 4 Trung Ương, trại Phú Lâu Na 1, 2, 3 các hội thảo chuyên ngành được tổ chức như: Ngành Đồng – Ngành Thiếu – Ngành Thanh – Ngành Nữ – Nghiên Huấn – Nội Vụ – Tổng Thư Ký và tổ chức chúng ta phát triển rộng về các tỉnh miền Tây Nam phần.

Năm 2004, đánh dấu sự phát triển của tổ chức thông qua Đại hội gia đình Phật tử VN trên toàn thế giới tại Ấn Độ.

Năm 2008, Đại hội Huynh Trưởng GĐPT. Việt Nam trên toàn Thế giới kỳ 2 được tổ chức tại Thái Lan, Đại hội Quy tụ 54 Đại biểu trên toàn Thế giới đại diện cho GĐPT các Quốc gia, Châu Lục. Đại hội đã: Tổng kết công tác Phật sự trong NK 1 và vạch kế hoạch Phật sự nhiệm kỳ 2. Xây dựng cương yếu tổ chức và điều hành. Bầu BHD. GĐPT. VN trên Thế giới do Anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu làm Trưởng ban.

Năm 2010, chúng ta đã tổ chức thành tựu Hội thảo Huynh trưởng cấp Tín toàn quốc để xây dựng lực lượng kế thừa.

Dù trong hoàn cảnh nhiều chông gai và thử thách, nhiều chướng duyên, nhưng tổ chức áo lam GĐPT. Việt Nam vẫn luôn nỗ lực tu học và thực hiện Phật sự, trong những năm 2000 – 2009, chúng ta đã thực hiện các Phật sự như:

  • Xây dựng và tu chỉnh tài liệu tu học Huấn luyện.
  • Các trại trường Huấn luyện Huynh trưởng – Đoàn sinh các cấp được tổ chức trên khắp các Tỉnh/Thị.
  • Tu học trường kỳ của Huynh trưởng – Đoàn sinh được thực hiện nề nếp, ổn định, thống nhất chung.
  • Tổ chức các sinh hoạt truyền thống Dũng – Hiếu – Hạnh – Hiệp Kỵ. . . với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
  • Thực hiện các Hội thảo chuyên ngành. Hội thảo cho Đoàn sinh như: Oanh – Thanh – Thiếu thông qua các mô hình hội thảo – hội thi.
  • Đặc biệt các tờ báo lam được đầu tư công phu tại các Tỉnh, các Đơn vị Gia đình với 02 hình thức là báo tập và trang báo điện tử.
  • Thực hiện bản tin sen trắng.
  • Xây dựng trang nhà www.gdptthegioi.org

70 năm là chiều dài lịch sử, thế hệ chúng ta hôm nay phải tiếp nối dấn thân để duy trì mạng mạch nhà lam Tâm thành tri ân Chư vị tiền nhân, chư vị Ân sư, chư Thánh tử đạo đã tài bồi cho tổ chức hôm nay.

Hãy tâm nguyện tri ân bằng tinh thần: “Dù bao nhiêu gian khổ, dù gặp nhiều nguy khó lý tưởng chúng con vẫn tôn thờ”.

Trích dẫn từ nguồn: http://gdptductam.org/luoc-su-hinh-thanh-va-phat-trien-gdp…/

Năm 2012
Cung thỉnh BẢN THỆ TĂNG GIÀ.

BẢN QUY NGUYỆN CỦA HỘI ĐỒNG CỐ VẤN GIÁO HẠNH GĐPT VIỆT NAM.
PHÁP NGỮ

Bản Thệ Tăng Già, lập nguyện của các đệ tử xuất gia của Phật, cùng hòa hiệp trongbản thể thanh tịnh của Ba- la-đề-mộc-xoa, tuyên dương Chánh pháp, lợi lạc quần sanh; hy cầu Phật pháp trường tồn, làm y chỉ cho nhân thiên tu tập, hướng đến cứu cánh giải thoát và giác ngộ.

Tăng già Việt Nam trong trường thiên lịch sử dựng nước đã không tách rời sự tu tập bản thân với sự tồn vong của dân tộc, tự nhận trách nhiệm giáo dục, bồi dưỡng các thế hệ Phật tử bằng tinh thần Bỉ – Trí – Dũng, vượt qua những chướng duyên thể hiện các giá trị nhân sinh từ Chánh Pháp trong lòng xã hội.

Gia Đình Phật Tử Việt Nam, môi trường sinh hoạt cộng đồng của các thế hệ Phật tử Việt nam, với gần 70 năm tồn tại và phát triển, qua những thời kỳ an nguy của lịch sử, đã cống hiến xứng đáng thân và tâm trong dòng suy thịnh của đất nước. Tuy nhiên, thuận và nghịch, hòa hợp và phân ly, là qui luật tất nhiên của phát triển xã hội. Quy luật ấy không ngừng tác động vào sinh hoạt của các thế hệ GĐPTVN mỗi thời kỳ bằng những sắc thái cá biệt. Người Phật tử do thiếu tu tâm lập nguyện, dưới tác động của tham cầu và khiếp nhược, bị lôi cuốn bởi danh vị và lợi dưỡng, dễ dàng tự biến chất, trở thành người mất hướng, tự đánh mất phẩm giá cao quý của tín tâm thanh tịnh.

Vậy, Tăng già cần phải phát dương bản thể thành tịnh và hòa hiệp để làm sở y và định hướng sinh hoạt, tu tập, cho mỗi Huynh trưởng, Đoàn sinh, tích cực thực hành Bồ tát đạo, hóa thân vào trong các cộng đồng tuổi trẻ, vận dụng mọi phương tiện thiện xảo để thắp sáng ngọn đèn trí tuệ, cùng các thế hệ thanh niên Việt Nam kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng xã hội hưng thịnh và an lạc.

Bằng nhận thức như vậy, các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni trong Tăng già truyền thống Việt nam, y chỉ giới thân và huệ mạng của các bậc Tôn Trưởng trong Hội Đồng Chứng Minh, đồng lập nguyện hòa hiệp thành một Hội Đồng Cố Vấn BHDTW GĐPT, để tán trợ và chỉ đạo GDPTVN tu học y Chánh Pháp, kế thừa và phát huy phẩm chất cao đẹp của các thế hệ Phật tử Việt Nam.

Để сụ thể hóa các ý tưởng trên thành các nguyên tắc sinh hoạt cập nhật, Bản Quy Nguyện của Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh này gồm có: Pháp ngữ, bảy chương, mười chín điều, bốn mươi mốt khoản.

CHƯƠNG I: Pháp Hiệu – Danh Xưng – Mục Đích. Điều 1: Pháp hiệu – Bản Thệ Tăng Già là Chúng hòa hiệp những vị đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn, cùng hòa hiệp trong bản thể thanh tịnh, lập nguyện tuyên dương Chánh pháp, lợi lạc muôn loài, không bị giới hạn bởi thời – không. Bản Thệ Tăng Già là pháp hiệu của Bản Quy Nguyện này.

Điều 2: Danh xưng – Hội đồng Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Việt Nam là những vị Tỷ kheo, Tỷ kheo ni có hạnh nguyện tuyên dương Chánh pháp, giảng dạy giáo lý và hướng dẫn tutập cho GĐPT, đã được Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT cung thỉnh làm cố vấn giáo hạnh. Viết tắt HĐCVGHGĐPTVN.

Điều 3: Mục đích.
Cố vấn BHDTW Gia Đình Phật Tử Việt Nam tu học đúng Chánh Pháp, đúng với Mục Đích của Tổ chức Gia đình phật tử.

  • Phát triển tổ chức GĐPT không những ở quốc nội mà trên cả thế giới, đáp ứng được những nhu cầu đạo đức, tín ngưỡng tâm linh và học Phật cho thế hệ trẻ trong thời đại văn minh tin học hiện nay.
  • Chỉ đạo Ban cố vấn giáo lý tu chỉnh và biên soạn chương trình giáo lý có thể đáp ứng được nhu cầu tu học và phát triển GĐPT hiện nay tại quốc nội và toàn cầu.
  • Cố vấn BHDTWGĐPT tổ chức các cuộc hội thảo liên hệ đến GĐPT với cấp quốc gia và quốc tế.

Hướng dẫn, phê duyệt và chứng minh các đề tài luận văn Cấp Dũng do BHDTWGĐPT đệ trình. Chương II: Thành Viên.

Điều 4: Tất cả quý vị Tăng Ni đã và đang giảng dạy, bảo trợ cho GĐPT Việt Nam các Cấp đều là thành viên chính thức của HĐCVGHGĐPTVN.

Điều 5: Thành viên HĐCVGH do BHDTWGĐPT cung thỉnh hay giới thiệu và được Ban Thường Trực HĐCVGH thông qua.

Điều 6: Thành viên HĐCVGH Ban Hướng Dẫn Trung Ương tối thiểu là mười lăm vị Tăng sĩ.

Chương III: Tổ Chức.
Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Việt nam gồm có:

HĐCVGHTW – Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành.

Điều 7: Ban Thường Trực HĐCVGHTW gồm: Trưởng ban.
Hai phó ban: Một vị đặc trách nội vụ và một vị đặc trách ngoại vụ.
Tổng thư ký.
Hai vị phó Tổng thư ký;
Tiểu ban giám kiểm;
Tiểu ban đặc trách hướng dẫn tu học và các phụ tá;
Tiểu ban đặc trách biên khảo giáo lý và các phụ tá; Tiểu ban nghiên cứu, phát triển và các phụ tá; Tiểu ban an sinh và các phụ tá;
Tiểu ban đặc trách các Miền, Tỉnh và Thành.

Điều 8: Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành gồm:
Trưởng Ban.
Một phó ban.
Một thư ký.
Ủy viên kiểm soát.

Điều 9: Ban Thường Trực Hội Đồng Cố Vấn do Hội Đồng cố vấn giáo hạnh Trung Ương GDPTVN thỉnh cử qua yết ma và được Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh (HĐTGCM) phê duyệt.

Điều 10: Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành do Ban Hướng Dẫn tỉnh hay TW giới thiệu, Ban Thường Trực Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh nghiên cứu và thay mặt HĐCVGH thỉnh cử.

Chương IV: Chức năng – Nhiệm vụ.
Điều 11: Chức năng và nhiệm vụ của Ban Thường Trực HĐCVGH.

Chịu trách nhiệm tinh thần trực tiếp trước HDTGCM.

Thay mặt Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh và Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh thường xuyên Cố Vấn cho BHDTW để:

Chứng minh giảng dạy giáo lý, thọ cấp, hướng dẫn đời sống đạo đức tâm linh và chứng minh lễ phát nguyện trong các trại huấn luyện cho GĐPTĐôn đốc theo dõi các sinh hoạt của GĐPT.

Nhận lời thỉnh cầu giảng dạy và hướng dẫn các khóa tu học cho GĐPT.

Tổ chức Lễ thọ giới Bồ tát, Thập thiện và Tác pháp sám hối cho các Huynh trưởng phạm giới.

Trong những hoàn cảnh khó khăn cần phải định hướng và làm nơi nương tựa cho GĐPTVN đi đúng chánh pháp.

Cố vấn cho HĐTGCM phê duyệt danh sách cấp Dũng do BHDTW đệ trình.

• Hỗ trợ và hướng dẫn BHDTW thực hiện đúng Nội Quy, Quy Chế GĐPTVN và những phật sự bất thường quan trọng khác.

HĐCVGH và Ban Thường Trực hoạt động trong phạm vi có liên quan đến sự tu học của GĐPT tại quốc nội và có phối hợp với HĐCVGHGĐPT Hải Ngoại, khi có những phật sự liên quan và cần thiết.

Điều 12: Chức năng và nhiệm vụ của Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành.

  • Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành do Ban Hướng Dẫn tỉnh hay Trung Ương giới thiệu và Ban Thường Trực HĐCVGH nghiên cứu và cung thỉnh trực tiếp hoặc bằng văn thư.
  • Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành chịu trách nhiệm trực tiếp với Ban Thường Trực HĐCVGH và chịu trách nhiệm gián tiếp với HĐTGCM về các vấn đề phật sự liên hệ đến tổ chức GĐPT Miền, Tỉnh, Thành.
  • Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành cùng với BHD Miền, Tỉnh, Thành chịu trách nhiệmthịnh suy của GĐPT ở trong Miền, Tỉnh, Thành trước Tam Bảo, trước HĐTGCM và trước Ban Thường Trực HĐCVGH.
  • Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành có trách nhiệm giảng dạy giáo lý, chứng minh và hỗ trợ cho Ban Hướng Dẫn Miền, Tỉnh, Thành thực hiện các trại huấn luyện đúng Nội quy, Quy chế của GĐPT và các khóa tu học, bồi dưỡng do Ban Hướng Dẫn Miền, Tỉnh, Thành thỉnh cầu.

Chương V: Nhiệm Kỳ Và Tâp Hội.
Điều 13: Ban Thường Trực HĐCVGHGĐPT. Nhiệm kỳ của Ban Thường Trực là bốn năm. Trong nhiệm kỳ, nếu vị Trưởng ban có chướng duyên, vị phó ban sẽ thay thế để điều hành phật sự cho đến hết nhiệm kỳ.

• Trong nhiệm kỳ, nếu các thành viên của Ban thường trực có những chướng duyên, vị Trưởng ban trình lên HĐTGCM để ủy cử bổ sung.

Điều 14: Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành Nhiệm kỳ của Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành là bốn năm.

• Các thành viên Ban Cố Vấn, nếu có chướng duyên, thì Ban Thường Trực HĐCVGH sẽ cứu xét tình hình thực tế, để thỉnh cử những thành viên khác bổ sung.

Điều 15: Trú xứ và Tập hội
Bất cứ Tăng già lam nào thuận lợi cho các Tăng sự đều có thể trở thành trú xứ tập hội của

BTTHĐCVGH và HĐCVGHGĐPTVN.

  • Cứ ba tháng một lần, BHDTWGĐPT báo cáo với Ban Thường Trực HĐCVGHGĐPT về sinh hoạt của GĐPT và đồng thời xin những chỉ đạo.
  • Cứ sáu tháng một lần, Ban Thường Trực cung thỉnh các thành viễn trong HĐCVGH tập hội để báo cáo tình hình phật sự trong sáu tháng qua và góp ý điều hành những phật sự trong sáu tháng tới.
  • Cứ một năm một lần, Ban Thường Trực HĐCVGH cung thỉnh các thành viên trong HĐTGCM tập hội một lần, để trình bày các phật sự, chứng minh những phật sự năm qua, thỉnh cầu chỉ đạo và chứng minh cho những dự kiến phật sự năm tới.

Chương VI: Pháp Thể.

Điều 16: Pháp thể của Ban Thường Trực Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh là do HĐCVGH tác pháp yết- ma ủy cử và được HĐTGCM phê duyệt.
Điều 17: Pháp thể của Ban Cố Vấn Giáo Hạnh Miền, Tỉnh, Thành là do Ban Thường Trực HĐCVGH thỉnh cử đúng với Quy nguyện.

Chương VII: Tu Chỉnh.

Điều 18: Những chương và các điều khoản trong Bản Quy Nguyện nầy đã được Hòa Thượng Thượng Thủ thay mặt HĐTGCM và Ban Thường Trực HĐCVGHGĐPT thông qua trong buổi Tập hội tại chùa An Linh, TP Hồ Chí Minh vào ngày 24 tháng 5 năm 2012.
Điều 19: Trong Bản Quy Nguyện nầy sau một thời gian ban hành, nếu có những điều khoản nào chưa thể khả thi, thì có thể tu chỉnh trong thời gian Tập hội của HĐCVGH hay HĐTGCM, do Ban Thường Trực HĐCVGH nghiên cứu và thỉnh nghị.

Bản Quy Nguyện nầy có mở đầu là Pháp ngữ, bảy chương, 19 điều, 41 khoản đã được thông qua trong kỳ Tập hội do Hòa Thượng Thích Đức Chơn, Thượng Thủ thay mặt HĐTGCM chủ tọa và Ban Thường Trực HĐCVGH Gia Đình Phật Tử Việt Nam thông qua, ngày 24 tháng 5 năm 2012, tại chùa An Linh, TP Hồ Chí Minh.

Bản Quy Nguyện nầy được áp dụng kể từ ngày ký. PL 2556 – ngày 28 tháng 6 năm 2012

TM HỘI ĐÔNG TĂNG GIÀ CHỨNG MINH (Đã ấn – ký)
HT THÍCH ĐỨC CHƠN

Cung thỉnh Hội đồng Chứng minh GĐPTVN:

1. Hòa thượng THÍCH ĐỨC CHƠN Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
2. Hòa thượng THÍCH MINH CHIẾU Chùa Phật Ân – Long thành, Tỉnh Đồng Nai.
3. Hòa thượng THÍCH TUỆ SỸ Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
4. Hòa thượng THÍCH MINH KIẾN Chùa Phật Ân – Long thành, Tỉnh Đồng Nai.
5. Hòa thượng THÍCH LƯƠNG PHƯƠNG Chùa Phước Duyên – TP Huế.
6. Hòa thượng THÍCH ĐỒNG TU Chùa Vạn Đức tỉnh Khánh Hòa.
7. Hòa thượng THÍCH LƯU THANH Chùa Trúc Lâm – TP Huế.
8. Hòa thượng THÍCH KIẾN TÁNH Chùa Bửu Lâm – Long thành, Tỉnh Đồng Nai.
9. Hòa thượng THÍCH HẠNH HẢI Chùa Viên Thông – TP HCM.
10. Hòa thượng THÍCH PHƯỚC AN Chùa Hải Đức – TP Nha Trang.
11. Hòa thượng THÍCH PHƯỚC TRÍ Chùa Vạn Phước – TP Sài Gòn.
12. Hòa thượng THÍCH GIẢI QUẢNG Chùa Quảng Hiệp – Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Tổng cộng có 12 vị Hòa thượng trong HĐTGCM

BAN CHẤP SỰ HỘI ĐỒNG TĂNG GIÀ CHỨNG MINH
Thượng thủ : HT THÍCH ĐỨC CHƠN
Đệ nhất Phó Thượng thủ : HT THÍCH MINH CHIẾU
Đệ nhị Phó Thượng thủ : HT THÍCH TUỆ SỸ
Chánh thư ký : HT THÍCH TUỆ SỸ (kiêm)
Giám luật : HT THÍCH KIẾN TÁNH

Phật lịch: 1556 – TP Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 08 năm 2012
Thượng Thủ (Đã ấn – ký)
Hòa Thượng THÍCH ĐỨC CHƠN

Cung thỉnh Hội đồng Hội đồng Cố vấn Giáo hạnh GDPTVN:

Căn cứ tinh thần và nội dung buổi lễ Cung thỉnh Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh và Công bố Danh sách Ban Thường Trực HĐCVGH được long trọng tổ chức tại Tu viện Quảng Đức, quận Thủ Đức, TP Sài Gòn lúc 14g30 ngày 22/3/2012, và phiên họp của HĐCVGHGĐPTVN tại chùa An Linh, quận 12 TP Sài Gòn lúc 08g30 ngày 24/5/2012 dưới sự chứng minh của HT Thích Đức Chơn – Thượng thủ HĐTGCM (Buổi họp có sự tham dự của BHDTW- GĐPTVN và ĐH Bạch Hoa Mai đại diện

BHDGDDPTVN TTG). Mục đích soạn thảo Bản Quy Nguyện và Cung cử thành phần nhân sự Ban Thường Trực HĐCVGH

Quyết định cung cử thành phần nhân sự Ban Thường Trực HĐCVGHTW như sau :

1. Trưởng Ban : Hòa Thượng Thích Thanh Huyền
2. Phó Ban Nội Vụ : Hòa Thượng Thích Đức Thắng
3. Phó Ban Ngoại vụ : Hòa Thượng Thích Minh Tâm
4. Tổng Thư Ký : TT Thích Thái Hòa
5. Phó tổng Thư Ký : TT Thích Hải Tạng
6. Phó tổng Thư Ký : TT Thích Nhuận Châu

Tiểu ban giám kiểm:
1. HT Thích Chơn Trí
2. HT Thích Minh Nghĩa
3. HT Thích Thiện Dương

Tiểu ban đặc trách biên khảo giáo lý, tài liệu Tu học GĐPT Việt Nam:

1. HT Thích Đức Thắng
2. TT Thích Thái Hòa
3. TT Thích Nhuận Châu

Tiểu ban đặc trách hướng dẫn tu học:

1. HT Thích Minh Tâm 2. TT Thích Hải Tạng
2. TT Thích Huệ Thành

Tiểu Ban Nghiên cứu và Phát triển GĐPT:

1. TT Thích Thông Phổ

Tiểu ban đặc trách các Miền, Tỉnh và Thành:

1. TT Thích Nguyên Hiền
2. TT Thích Khế Đạo

Tiểu Ban An sinh:

1. TT Thích Chơn Thức
2. NS Thích Nữ Như Tường
3. NS Thích nữ Như Thiện

Tổng cộng có 14 tỷ kheo tăng và 02 tỷ kheo ni trong Ban Thường Trực HĐCVGH.

Phật lịch: 1556 – TP Sài Gòn, ngày 13 tháng 06 năm 2012
Thượng Thủ (Đã ấn – ký)
Hòa Thượng THÍCH ĐỨC CHƠN

Năm 2016, cung thỉnh Chư Tôn Đức Lưỡng Viện:
BẢN THỆ TĂNG GIÀ
HỘI ĐỒNG TĂNG GIÀ CHỨNG MINH

1. Hòa thượng THÍCH ĐỨC CHƠN Tu viện Quảng Hương Già lam – TP Sài Gòn.
2. Hòa thượng THÍCH MINH CHIẾU Chùa Phật Ân – Long Thành – Đồng Nai.
3. Hòa thượng THÍCH TUỆ SĨ Chùa Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
4. Hòa Thượng THÍCH LƯƠNG PHƯƠNG Chùa Phước Duyên – TP.Huế
5. Hòa thượng THÍCH ĐỒNG TU Chùa Vạn Đức – Tỉnh Khánh Hòa
6. Hòa thượng THÍCH ĐỒNG TÂM Chùa Linh Sơn – Phan Rang – Ninh Thuận
7. Hòa Thượng TỊNH NGHIÊM Chùa Vạn Hạnh P.Cam Thuận – TP.Cam Ranh
8. Hòa thượng THÍCH PHƯỚC TRÍ Chùa Vạn Phước – Chùa Pháp Vân – TP Sài Gòn
9. Hòa thượng THÍCH PHƯỚC AN Chùa Hải Đức — TP.Nha Trang
10. Hòa thượng THÍCH LƯU THANH Chùa Trúc Lâm – TP.Huế
11. Hòa thượng THÍCH KIẾN TÁNH Chùa Bửu Lâm -Long Thành – Đồng Nai
12. Hòa thượng THÍCH GIẢI QUẢNG Chùa Quảng Hiệp – Long Thành – Đồng Nai
13. Hòa thượng THÍCH HUỆ TÂM Chùa Bảo Sơn – Đồng Nai

BAN CHẤP SỰ HỘI ĐỒNG TĂNG GIÀ CHỨNG MINH

1. Thượng thủ: HT THÍCH ĐỨC CHƠN
2. Đệ nhất Phó Thượng thủ: HT THÍCH MINH CHIẾU
3. Đệ nhị Phó Thượng thủ: HT THÍCH TUỆ SĨ
4. Chánh thư ký: HT THÍCH TUỆ SĨ (kiêm)
5. Giám luật: HT THÍCH KIẾN TÁNH

Phật lịch: 2560 – TP Sài Gòn, ngày 16 tháng 07 năm 2016
Thượng Thủ (Đã ấn – ký)
Hòa Thượng THÍCH ĐỨC CHƠN

DANH SÁCH THÀNH VIÊN
BAN THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG CỐ VẤN GIÁO HẠNH. GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM

(Quốc nội Nhiệm kỳ 2016 – 2020).

1. Hòa thượng THÍCH THANH HUYỀN Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
2. Hòa thượng THÍCH ĐỨC THẮNG Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
3. Hòa thượng THÍCH MINH TÂM Chùa Phật Ân – Long thành, Tỉnh Đồng Nai.
4. Hòa thượng THÍCH CHƠN TRÍ Chùa Thiền Lâm TP Huế.
5. Hòa thượng THÍCH THIỆN DƯƠNG Chùa Linh Sơn – Vạn ninh, Khánh hòa
6. Hòa Thượng THÍCH MINH NGHĨA Tu viện Toàn Giác – Tỉnh Đồng nai.
7. Hòa thượng THÍCH MINH BẢO Bà rịa Vũng Tàu.
8. Hòa thượng THÍCH THÁI HÒA Chùa Phước Duyên – TP Huế.
9. Thượng tọa THÍCH HẢI TẠNG Chùa Long An – Tỉnh Quảng trị.
10. Thượng tọa THÍCH HUỆ THÀNH Chùa An Linh – Quận 12, TP Sài Gòn.
11. Thượng tọa THÍCH NHUẬN CHÂU Tịnh thất Từ Nghiêm – Tỉnh Bà rịa Vũng Tàu.
12. 12.Thượng tọa THÍCH THÔNG PHỔ Chùa Tuệ Quang – TP Sài Gòn.
13. Thượng tọa THÍCH CHƠN THỨC Tu viện Quảng Đức – quận Thủ đức, TP Sài Gòn.
14. Thượng tọa THÍCH NHUẬN QUANG Chùa Nguyên Ngộ – Quận 12, TP Sài Gòn.
15. Thượng tọa THÍCH NGUYÊN HIỀN Tu viện Vĩnh Minh – Tỉnh Lâm Đồng.
16. Thượng tọa THÍCH KHẾ ĐẠO Tu viện Quảng Hương Già Lam – TP Sài Gòn.
17. Thượng tọa THÍCH HẠNH NGUYỆN Chùa Tân Chánh, Tỉnh Khánh Hòa.
18. Ni sư Thích nữ NHƯ THIỆN Chùa Viên Quang – Long thành, Đồng Nai.Tiểu ban An sinh.

Quảng Hương Già Lam, ngày 16 tháng 7 năm 2016
Trưởng BTT HĐCVGH (Đã ấn ký)
Sa môn THÍCH THANH HUYỀN

Hiện nay 2 Hội Đồng được tôn danh:
1. Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh GĐPTVN: Hội Đông Tăng Già Bản Thệ.
2. Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh GĐPTVN: Hội Đồng Giáo Giới GĐPTVN.

Thời kỳ khó khăn trong nước và phát triển ở nước ngoài:
a) Ở trong nước:

Tháng 4 năm 1975, Cộng sản chiếm miền Nam, không có tổ chức ngoại vi nào của Ðảng được phép hoạt động. Phật giáo bị kềm chế, Gia Ðình Phật Tử không được chính thức hoạt động, nhiều Huynh Trưởng bị tù đày, trong những năm đầu Gia Ðình Phật Tử sinh hoạt không được 5% so với trước 1975, tuy nhiên nhiều Gia Ðình Phật Tử vẫn kiên trì sinh hoạt, Ban Hướng Dẫn Trung Ương ngưng hoạt động, một Hội Ðồng Huynh Trưởng Cao Niên được hình thành để lãnh đạo tổ chức.

Vào dịp vía Ðức Quán Thế Âm ngày 19-6 Âm Lịch năm 1990, Hội Ðồng Huynh Trưởng Cao Niên (BHDTƯ) dự định mở một kỳ Họp mặt toàn quốc tại chùa Linh Sơn Ðàlạt, nhiều đại biểu đã về dự nhưng vào phút chót không thể họp được, chỉ cử hành lễ Hiệp kỵ mà thôi. Ðến năm 1995, mới có một kỳ họp khác tại Trại Trường GÐPT Việt Nam ở Hồ Than Thở ÐàLạt, đã bầu lại Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Ðình Phật Tử Việt Nam.

Tưởng cũng nên nhắc lại, ngày 22-01-1977: Ðại Hội 7 của GHPGVNTN họp tại chùa Ấn Quang. Ðã bầu:

– Tăng Thống HT. Thích Giác Nhiên. (đương nhiệm)
– Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống: HT. Thích Ðôn Hậu
– Cố Vấn: TT. Thích Thiện Minh
– Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo: HT. Thích Trí Thủ
– Phó Viện Trưởng: TT. Thích Trí Tịnh
– Phó Viện Trưởng: TT. Thích Pháp Tri
– Phó Viện Trưởng: TT. Thích Huyền Quang
– Tổng Thư Ký: TT. Thích Quảng Ðộ…

Ngày 9-02-1977, Viện Hóa Ðạo có văn thư số 031-VHD/VP gửi cho Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng khiếu nại 19 Tăng bị bắt giữ yêu cầu đưa ra xét xử hoặc trả tự do.

Ngày 3-03-1977, Ủy ban Nhân Dân Quận 10 tiếp quản Cơ sở Quách Thị Trang (Cô Nhi Viện Quách Thị Trang nằm sau Viện Hóa Ðạo)

Ngày 6-04-1977, Nhà cầm quyền bao vây chùa Ấn Quang bắt 6 vị lãnh đạo của GHPGVNTN:

1. TT. Huyền Quang, Phó Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo.
2. TT. Quảng Ðộ, Tổng Thư Ký Viện Hóa Ðạo.
3. TT. Thuyền Ấn Tổng vụ trưởng, Tổng vụ Hoằng pháp.
4. ÐÐ. Thích Thông Bửu, Quyền Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ.
5. ÐÐ. Thích Thông Huệ Chánh Ðại Diện GHPGVNTN, Quận Gò Vấp, Trưởng Ban Kinh Tế tự túc Tăng Ni.
6. ÐÐ. Thích Thanh Thế, Trưởng Ban Thanh Tra Ủy Ban Kinh Tế Tự túc Tăng Ni.

Ngày 6- 04-1978, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Cố Vấn Viện Hóa Ðạo bị bắt.

Ngày 17-10-1978, Thượng Tọa Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết trong Nha Công An Thành Phố Hồ Chí Minh, sau đó đưa ra Hàm Tân cho nhìn xác, nhưng không cho nhận xác.

Ngày 26-10-1978, HT. Thích Ðôn Hậu Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống Trụ trì chùa Linh Mụ Huế, gửi thư từ chức Ðại Biểu Quốc Hội và Ủy Viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

Đầu năm 1979, Hòa Thượng Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo, trong cuộc họp Hội Ðồng Viện hàng tuần, Hòa Thượng có đưa ra việc Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố có đến mời Hòa Thượng ra làm việc vận động thống nhất Phật Giáo toàn quốc. Lúc đó có vị trong Hội Ðồng hỏi Hòa Thượng Viện Trưởng rằng:

– Mặt trận mời với tư cách gì ? Hòa thượng nói: 

– Với tư cách gì tôi chưa rõ.” Qua cuộc họp tuần sau, Hòa thượng đưa việc đó ra Hội Ðồng và cho biết là 

– Mặt trận mời tôi với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN. Hòa Thượng Thiện Minh nghe thế liền xin phát biểu: 

– Xin Hòa thượng Viện Trưởng đừng đưa việc đó ra đây làm khó chúng tôi !

Hòa thượng Trí Thủ hỏi lại:

Làm khó cái gì ?. Hòa thượng Thiện Minh thưa:

Nếu Hội Ðồng nầy đồng ý để Hòa thượng làm việc đó với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, tức là đồng ý dẹp bỏ Giáo Hội này sau khi Giáo Hội mới thành lập. Còn nếu không đồng ý, thì có sự khó khăn đến với các vị trong Hội Ðồng và cả Giáo Hội ta nữa. Vậy Hòa thượng nên tự ý lựa chọn và làm với tư cách cá nhân của Hòa thượng mà thôi. Chúng tôi không thể nói nên hay không nên trong việc nầy.” Lúc bấy giờ trong cuộc họp không ai có ý kiến gì khác, coi như mặc nhiên đồng ý với Hòa thượng Thiện Minh đã nói.

Năm 1980, Ban vận động thống nhất Phật giáo ra đời, do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm trưởng ban, TT. Thích Minh Châu làm Tổng Thư Ký.

Từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 11 năm 1981, Đại hội các tổ chức Phật giáo được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Với 165 đại biểu trên toàn quốc, đã thành lập một tổ chức mới, lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là hợp nhất của 9 tổ chức:

– Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam
– Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất
– Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam
– Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam
– Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh
– Giáo hội Thiên thai giáo Quán Tông
– Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam
– Hội đoàn kết Sư sãi Yêu nước Tây Nam Bộ
– Hội Phật học Nam Việt.

Đại hội đã suy tôn Hòa Thượng Thích Đức Nhuận lên ngôi vị Pháp Chủ, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm Chủ tịch Hội Đồng Trị Sự.

Như thế, đương nhiên có 2 Giáo Hội Phật Giáo, một Giáo hội nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam do đảng Cộng sản lãnh đạo và một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, giáo hội nầy không được nhà cầm quyền Cộng sản thừa nhận, nên các vị lãnh đạo như TT. Thích Huyền Quang và TT. Thích Quảng Độ bị đưa đi an trí vị ở Quảng Ngãi, vị ở Thái Bình. Còn những vị khác như TT. Thích Đức Nhuận, ĐĐ Trí Siêu Lê Mạnh Thát, ĐĐ Tuệ Sỹ, ĐĐ Nguyên Giác, Sư Cô Trí Hải và 17 người khác, bị bắt đưa ra tòa kết án chống nhà cầm quyền Cộng sản, họ bị kết án tử hình, chung thân hoặc từ 4 đến 15 năm tù.

Mặc dù vậy, một số đơn vị Gia Đình Phật Tử vẫn sinh hoạt trong những điều kiện rất khó khăn, bởi vì nhà cầm quyền Cộng sản có tổ chức đoàn ngũ hóa thanh thiếu niên Việt Nam dưới tổ chức Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh tuổi từ 16 cho đến 30. Dưới tuổi đó có Đội Thiếu Niên Tiền Phong Hồ Chí Minh, tổ chức từ cấp xã, huyện, tỉnh cho đến trung ương.

Vì các anh Võ Đình Cường cũng như Tống Hồ Cầm không hoạt động GĐPT, mà bước sang lãnh vực văn hóa, báo Giác Ngộ đã có quyết định thành lập, do HT.Thích Minh Nguyệt làm Chủ nhiệm và anh Võ Đình Cường làm Tổng Biên tập, phụ tá có Tống Hồ Cầm. Ngày 1-1-1976 ra mắt Bán Nguyệt San dần dần tiến thành Tuần báo.

Như đã nêu trên, không có Trưởng Ban như rắn mất đầu, Ban Hướng Dẫn Trung Ương không thể hoạt động được, các anh chị có nhiệt tâm mới lập thành Hội Đồng Huynh Trưởng Cao Niên, tạm thay nhiệm vụ cho Ban Hướng Dẫn Trung Ương thời bấy giờ.

Năm 1990, vào dịp Vía đức Quán Thế Âm ngày 19 tháng 6 năm Canh Ngọ nhằm ngày 9-8-1990, do Hội Đồng Huynh Trưởng Cao Niên thông báo, nhiều phái đoàn Huynh Trưởng trên toàn quốc đã tụ họp về chùa Linh Sơn Đà Lạt, để tổ chức Đại Hội Huynh Trưởng Toàn Quốc, bầu lại Ban Hướng Dẫn Trung Ương, nhưng nhà cầm quyền biết, nên không cho tổ chức Đại Hội, nên chỉ làm lễ Hiệp Kỵ Huynh Trưởng GĐPT toàn quốc mà thôi.

Ngày 03, 04-11-1992, đại hội Giáo Hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc lần thứ III diễn ra tại Hà Nội, Hiến chương của 2 kỳ đại hội trước đều không đề cập đến GĐPT, nên trong thời gian ấy, GĐPT Việt Nam không được Giáo hội thừa nhận. Đến đại hội kỳ III, Giáo hội mới nhắc đến trong Hiến chương:

“Về vấn đề GĐPT, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội PGVN có một số nhận định về vấn đề này:

Nguyện vọng giáo dục giáo lý đạo Phật và đạo đức Phật giáo cho nam nữ Phật tử, trong đó kể cà thanh thiếu niên Phật tử là nguyện vọng chính đáng. Cần phải tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện nguyện vọng đó.

Vì thế, Ban Thường trực HĐTS-GHPGVN xác định rõ ràng các cấp lãnh đạo Giáo hội từ Trung ương, Tình Thành hội đến các cơ sở, tự viện đối với Phật sự quan trọng này.”

GĐPT lúc bấy giờ tuy không được chính thức đưa vào Hiến chương nhưng cũng được sinh hoạt theo Ban Hướng dẫn Nam Nữ Cư sĩ Phật tử (HDNNCSPT). Do sinh hoạt trong các chùa theo GHPGVN nên những GĐPT nầy đương nhiên thuộc GHPGVN

Có nhiều nơi sinh hoạt như thường lệ, nhưng theo tính cách nội bộ của những đơn vị cá nhân, sinh hoạt ấy chỉ trong giới hạn của một tỉnh, thành như: mở trại huấn luyện huynh trưởng và trại họp bạn ở các Gia đình trong khu vực dưới sự chứng minh của Ban Trị sự và các vị trong tiểu ban HDNNCSPT có GĐPT sinh hoạt.

Dù hình thức nào đi nữa, tất cả không ra ngoài nguyên lý tùy duyên bất biến, khế lý, khế cơ và khế thời của Phật giáo. Cho nên, mọi sinh hoạt của GĐPT cũng không đi ra ngoài mục đích là “tu tập trở thành Phật tử chân chánh, góp phần phụng sự Đạo pháp và xây dựng xã hội”.

Thượng tọa Thích Đạt Đạo, Chánh Thư ký Ban HDNNCSPT Trung ương GHPGVN phát biểu trong năm 1997 như sau:

Với 500.000 đoàn sinh Phật tử trong toàn quốc, nhiệm vụ trọng tâm của Ban HDNNCSPT là hướng dẫn sinh hoạt tu học cho các giới Nam Nữ Cư sĩ Phật tử, trong đó có GĐPT bao gồm các Thanh Thiếu Nhi. Khi được Hội đồng Trị sự ra quyết định bổ nhiệm thành phần nhân sự Ban HDNNCSPT nhiệm kỳ III, chúng tôi đã phân công phân nhiệm, vạch phương hướng hoạt động ngắn hạn,, dài hạn, dựa trên nhận thức tình hình cụ thể (…) Tuy nhiên, chỉ thời gian đầu, còn thời gian về sau, vì lý do cơ bản, các vị ủy viên đều cư trú rải rác khắp các tỉnh, thành, cho nên hoạt động thiếu đồng bộ, chỉ thu gọn có Thường trực Ban Hướng Dẫn, do vậy chỉ có tính cách điều hành chung, chứ chưa thực hiện công tác gì đáng nêu.

Thành quả của Ban HDNNCSPT nhiệm kỳ I, II và III tóm tắc theo báo Giác Ngộ đăng vào các ngày 29-3-1997 và 27-9-1997 như sau:

Đây là phương hướng của Ban HDNNCSPT Thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng có thể áp dụng phương hướng này cho toàn quốc về GĐPT nhiệm kỳ tới:

1. Từng bước thống kê một cách chính xác số lượng GĐPT và các đoàn sinh toàn thành phố và ra quyết định công nhận
2. Từng bước triển khai chương trình hoạt động của Ban HDNNCSPT
3. Tạo điều kiện mở các lớp NNCSPT sinh hoạt và tu học theo từng giới
4. Tổ chức hội thảo chuyên đề cho các ngành
5. Tổ chức các khóa bồi dưỡng và đào tạo huynh trưởng GĐPT thuộc ngành HDNNCSPT.

…Thiết nghĩ, đối với chư vị tôn túc lớn tuổi đã từng đóng góp nhiều thành tích tốt đẹp cho Đạo pháp và Dân tộc, chúng ta vẫn cần trân trọng, đặt vào vị trí hàng cố vấn chứng minh. Tuy nhiên, nên mạnh dạn và gấp rút trẻ trung hóa hàng ngũ lãnh đạo hay ít nhất là bộ phận thường trực tương đối còn trẻ, có năng lực, có đạo đức. Nêu không, giới Phật giáo chúng ta khó đứng vững, không thể sánh vai cùng xã hội trong thế kỷ tới (…), từ đó, chẳng mấy chốc dẫn đến sinh hoạt Phật giáo không còn thích hợp với con người thời đại mới. Điều đó hoàn toàn đi ngược lại tinh ba Phật dạy: đạo Phật là sự sống luôn vận hành, hiện hữu trên cuộc đời vì hạnh phúc, vì an lạc cho mọi loài.

Có thể nhận định đó là cái nguyên cớ để hợp thức hóa sinh hoạt của tổ chức GĐPT đối với nhà cầm quyền Cộng sản.

Một số đơn vị GĐPT sinh hoạt tại các chùa không theo GHPGVN, vẫn sinh hoạt trong chờ đợi tổ chức phục hoạt, nhưng phải đợi đến năm 1995, tại Trại Trường Hồ Than Thở Đà Lạt, có tổ chức một cuộc họp và Gia Đình Phật Tử đã bầu lại Ban Hướng Dẫn Trung Ương, Huynh Trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu được tín nhiệm bầu vào chức vụ Trưởng Ban. Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam tái sinh hoạt lại từ đó. Nhưng tổ chức nầy không nằm trong hệ thống GHPGVNTN cũng không nằm trong GHPGVN, từ trước cho đến sau nầy vẫn sinh hoạt tại Quảng Hương Già Lam từ thời ĐĐ Thích Tuệ Sỹ làm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, cho đến thời Tăng Đoàn GHPGVNTN ra đời cho đến nay do Huynh Trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu lãnh đạo.

Về phần GHPGVNTN không thừa nhận GĐPT do anh Nguyễn Châu lãnh đạo vì Thỉnh Nguyện Thư của anh Nguyễn Châu gửi cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngày 25-5-1997, trong đó có nội dung chính yếu như sau:

Đệ trình Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỳ IV.

Không một ai trong chúng con lại có ý nghĩ đặt tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam ra ngoài Giáo hội.

Chúng con kính đạo đạt một thỉnh nguyện lên Đại hội Giáo hội là cho phép chúng con được triệu tập một Đại hội Gia Đình Phật tử toàn quốc, đặt dưới sự chứng minh của Giáo hội để tập họp rộng rãi nguyện vọng trung thực của huynh trưởng Gia Đình Phật tử Việt Nam trong việc tu chỉnh sửa đổi Nội Quy. Đó là điều thỉnh cầu duy nhất mà chúng con thấy cần phải đệ đạt lên Đại hội Giáo hội để tránh những ngộ nhận cho rằng chúng con có ý đồ tách rời Giáo hội, chống báng Giáo hội.

Do bức thư trên, nên Ban Tôn giáo Chính phủ chỉ đạo Hòa thượng Thích Minh Châu triệu tập một buổi họp nhằm đưa tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam của GHPGVNTN vào trong Giáo hội nhà nước.

Ngày 24/10/1997, HT đã triệu tập cuộc họp cùng bốn anh Huynh Trưởng cấp Dũng là: anh Võ Đình Cường, anh Tống Hồ Cầm, anh Nguyễn Xuân Quyền và anh Nguyễn Châu để “Tìm cách cho Gia đình Phật tử được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả, phù hợp với tình hình mới của đất nước và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam”.

NỘI DUNG THƯ MỜI CỦA HT THÍCH MINH CHÂU GỞI ĐẾN 4 ANH HUYNH TRƯỞNG CẤP DŨNG:

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 10 năm 1997
Kính gởi:
– Cư sĩ Võ Đình Cường (T/p Hồ Chí Minh)
– Cư sĩ Tống Hồ Cầm (T/p Hồ Chí Minh)
– Cư sĩ Nguyễn Xuân Quyền (T/p Huế)
– Cư sĩ Nguyễn Châu (T/p Đà Lạt)

Thưa quý Anh.
Lâu nay tôi vẫn lưu tâm đến tình hình sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử và được biết những khó khăn trở ngại đã và đang tồn tại trong việc thực hiện các Phật sự quan trọng và bồi dưỡng kiến thức Phật học, rèn luyện kỹ năng sinh hoạt, tác phong đạo đức cho các Thanh Thiếu Niên Phật tử. Tôi cũng được biết ngoài những trở ngại khách quan, trong nội bộ các Huynh trưởng Gia đình Phật tử cũng có nhiều ý kiến chưa được dung hòa.

Tôi nghĩ quý Anh là những người kỳ cựu, nhiều kinh nghiệm, đã có tham gia sáng lập hoặc tham gia tổ chức thực hiện sinh hoạt Gia đình Phật tử, vẫn hằng lo toan tìm cách cho Gia Đình Phật Tử được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả, phù hợp với tình hình mới của đất nước và của Giáo hội. Tự bản thân tôi, tôi cũng luôn ấp ủ ước nguyện đó.

Tôi viết thư này gởi đến quý Anh, mong quý Anh sắp xếp công việc để chúng ta cùng họp mặt thân mật, đóng góp ý kiến xây dựng và thảo bàn để tìm một phương cách, một phương hướng khả dĩ để thực hiện ước nguyện đã nêu.

Tôi hy vọng buổi họp mặt sẽ được diễn ra vào lúc 15 giờ ngày chủ nhật 02/11/1997 tại phòng khách của Thiền viện Vạn Hạnh, 716 Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận, T/p Hồ Chí Minh.

Thân chúc quý Anh thân tâm thường lạc.

Nay thư (đã ký)
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU

Buổi họp này tổ chức vào ngày 29.10.1997 tại Thiền viện Vạn Hạnh, Saigon, gồm có Hòa thượng Thích Minh Châu chủ tọa và bốn anh Huynh Trưởng cấp Dũng, là những Huynh Trưởng cao cấp nhất GĐPTVN lúc đó, gồm có các anh: Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Nguyễn Xuân Quyền, Nguyễn Châu. Mục đích cuộc họp nêu ra là nhằm “tìm cách cho GĐPT được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả phù hợp với tình hình mới của đất nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam”

Thành quả cuộc họp là khẳng định lập trường GĐPTVN là ly khai GHPGVNTN thông qua một Biên bản ký tên 5 người nhất trí về 5 nhận định như sau:

  1. Sinh hoạt GĐPT nhằm đào luyện Thanh, Thiếu, Đồng niên thành những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội. Sinh hoạt này trước đây đã đạt được những thành quả tốt đẹp, nay cần phải được phát huy.
  2. Từ ngày được thành lập, GĐPT luôn luôn sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của một tổ chức Phật giáo được Nhà nước chấp nhận, như Hội An Nam Phật Học, Hội Phật Học Nam Việt, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Nay sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử cần được thức hiện trong khuôn khổ pháp lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
  3. Một số ít điều trong Nội quy và Quy chế Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử cần được tu chính cho phù hợp với Hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
  4. Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPT cần chung sức chung lòng, cùng nhau đẩy mạnh sinh hoạt GĐPT để đóng góp vào sự nghiệp chung của Phật giáo và Đất nước.
  5. Gia Đình Phật Tử cần tranh thủ để được sự quan tâm giúp đỡ cụ thể của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong các sinh hoạt.

NỘI DUNG BIÊN BẢN HỌP MẶT 4 HUYNH TRƯỞNG CẤP DŨNG DƯỚI SỰ CHỨNG MINH CỦA HT THÍCH MINH CHÂU:
BIÊN BẢN
(Về buổi họp mặt của 4 Huynh trưởng cấp Dũng Gia đình Phật tử, dưới sự Chứng minh của Hòa thượng Thích Minh Châu)

Thể theo thư mời của Hòa thượng Thích Minh Châu, một trong những vị sáng lập Gia Đình Phật Tử, bốn Huynh Trưởng cấp Dũng là: VÕ ĐÌNH CƯỜNG, TỐNG HỒ CẦM, NGUYỄN XUÂN QUYỀN, NGUYỄN CHÂU, đã có buổi họp mặt thân mật trong tình gia đình áo Lam, vào lúc 15giờ ngày 29/10/1997 tại Thiền viện Vạn Hạnh, 716 Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận, T/p Hồ Chí Minh, dưới sự Chứng minh của Hòa thượng Thích Minh Châu. Buổi họp có mục đích như trong thư mời của Hòa thượng Thích Minh Châu là: “Tìm cách cho Gia đình Phật tử được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả, phù hợp với tình hình mới của đất nước và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam”!

Sau 2giờ bàn thảo trong tinh thần cởi mở và xây dựng,Hòa thượng và bốn Huynh Trưởng cấp Dũng đã nhất trí về các nhận định sau đây:

  1. Sinh hoạt Gia đình Phật tử nhằm đào luyện Thanh Thiếu Đồng niên thành những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội. Sinh hoạt này, trước đây đã đạt được những thành quả tốt đẹp nay cần phải được tiếp tục phát huy.
  2. Từ ngày được thành lập, Gia đình Phật tử luôn luôn sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của một tổ chức Phật giáo được Nhà nước chấp thuận, như Hội An Nam Phật học, Hội Phật học Nam Việt, Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Nay sinh hoạt của Gia đình Phật tử cần được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
  3. Một số ít điều trong Nội quy và Quy chế Huynh Trưởng của Gia đình Phật tử cần được tu chỉnh cho phù hợp với Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
  4. Huynh Trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử cần chung sức chung lòng cùng nhau đẩy mạnh sinh hoạt Gia đình Phật tử để đóng góp vào sự nghiệp chung của Phật giáo và đấ tnước.
  5. Gia đình Phật tử cần tranh thủ để được sự quan tâm giúp đỡ cụ thể của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong các sinh hoạt.

Làm tại Thiền viện Vạn Hạnh Ngày 29 tháng 10 năm 1997
Đồng ký tên
CHỨNG MINH
Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU (đã ký)

VÕ ĐÌNH CƯỜNG (đã ký)
TỐNG HỒ CẦM (đã ký)
NGUYỄN XUÂN QUYỀN (đã ký)
NGUYỄN CHÂU (đã ký)

Tại đại hội kỳ V Tỉnh Hội Phật Giáo Lâm Đồng, có Tham luận của Thượng tọa Thích Toàn Đức, đại biểu Phật giáo huyện Di Linh như sau:

Vấn đề giáo dục con em Phật tử ươm mầm hạt giống, đào tạo tầng lớp kế thừa, lúc nào cũng được quan tâm đúng mức. Trong xã hội hiện nay, những tệ nạn đang lan tràn trong tầng lớp Thanh Thiếu niên, càng khiến chúng ta gia tâm lo lắng hơn bao giờ hết. Là một tổ chức thường xuyên gắn bó với Giáo hội trong nhiều công tác Phật sự, thì việc duy trì và phát triển GĐPT phải được xem là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Giáo hội chúng ta.

Thượng tọa Thích Đạt Đạo, Chánh Thư ký Ban HDNNCSPT nhận định:

Nam nữ Phật tử là lực lượng hộ pháp quan trọng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (…) Nhiệm kỳ của Ban Hướng dẫn 1992- 1997 hoạch định cho nhiệm kỳ tới như sau:

Thứ nhất, kế hoạch thực chương trình tu học cho các đạo tràng và GĐPT.

Thứ hai, đúc kết các ý kiến đóng góp bổ sung cho Nội quy GĐPT đề Ban HDNNCSPT nhiệm kỳ mới tiếp tục làm việc bằng cách thành lập một bộ phận gồm các huynh trưởng có cấp thâm niên, có kinh nghiệm, để hoàn chỉnh và thông qua các thủ tục cần thiết trước khi trình Hội Đồng Trị Sự phê chuẩn.

Trong một bài đăng trên báo Giác Ngộ ra ngày 20-9-1997, Luật sư Đăng Huy góp ý với Giáo hội:

Bất kỳ tổ chức, đoàn thể nào, cơ sở vững mạnh thì tổ chức mới tồn tại và phát triển. Cơ sở Giáo hội không thể mạnh nếu bỏ quên một thành phần quan trọng là Cư sĩ, và cũng không thể mạnh nếu họ không được tổ chức để được thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức. Giáo hội không thể bỏ quên một thành phần tế bào của mình là Cư sĩ. Giáo hội không thể chỉ có Tăng Ni.

Ngày 22, 23-11-1997, đại hội Giáo Hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc lần thứ IV tổ chức tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt- Xô tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội quy tụ gần 500 đại biểu của 49 đơn vị Tỉnh, Thành Hội Phật Giáo trong cả nước. Theo báo cáo tổng kết của Hội Đồng Trị Sự thì những hoạt động của Ban HDNNCSPT có những bước tiến như sau:

Thực hiện tinh thần tứ chúng đồng tu của người con Phật trong ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, những năm qua, Ban HDNNCSPT Trung ương, Tiểu ban HDNNCSPT các Tỉnh, Thành hội đã triển khai Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ II, đặc biệt là nhiệm kỳ III, với Hiến chương Giáo hội đã được tu chính cũng như chương trình hoạt động và Nội quy của Ban HDNNCSPT Trung ương, các Nghị quyết, Thông bạch 455, 570, 577 của Trung ương Giáo hội về việc củng cố và ổn định sinh hoạt GĐPT dưới sự lãnh đạo chung của Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo.

Được sự chỉ đạo của ngành HDNNCSPT và các Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo, với sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng tại địa phương theo Thông tư 01 của Ban Tôn Giáo Chánh Phủ, tổng kết sơ khởi đã có khoảng 650 đơn vị GĐPT đăng ký với Tỉnh, Thành hội Phật giáo, với 44.407 đoàn sinh và 5.409 huynh trưởng sinh hoạt trong Giáo hội. Đồng thời, chương trình sinh hoạt GĐPT được triển khai có hệ thống như ra quyết định tạm thời công nhận GĐPT, mở các khóa huấn luyện Huynh trưởng, Đội-Chúng trưởng, Đầu-Thứ đàn, trại sinh hoạt hè, trại truyền thống v.v…tại các Tỉnh, Thành hội như: Tp. Hồ Chí Minh, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Đăk-Lăk , Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Bà Rịa-Vũng Tàu, Kiên Giang, Bình Dương, Cà Mau v.v…với hàng chục ngàn đoàn sinh tham dự.

Cũng trong Đại hội nầy, đại biểu Phật Giáo Tp. Đà Nẵng có bài tham luận nói về GĐPT như sau:

GĐPT đã được hình thành tại đất Đà Thành từ trước năm 1950 đến nay đã gần nửa thế kỷ. Trong suốt 50 năm qua, GĐPT đã gắn bó với Giáo hội trong mọi sinh hoạt như: tu học, hoằng dương Phật pháp, công tác xã hội từ thiện, xây dựng các Phật sự văn hóa, lễ lược v.v…

Nói chung, GĐPT đã cung cấp nhiều đoàn viên ưu tú nay trở thành Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni cho Giáo hội trên toàn quốc và đã đào tạo được nhiều cư sĩ tham gia và lãnh đạo các cơ sở Giáo hội phường, xã, Ban Đại diện Quận, Huyện và Ban Trị sự Tỉnh, Thành.

Nhưng, đáng kể nhất là tổ chức GĐPT đã giúp đào tạo bao thế hệ trẻ trở thành người con ngoan trong gia đình, người công dân tốt cho Tổ quốc, người cư sĩ hộ đạo cho Giáo hội hiện nay. Do đó, Ban Trị sự chúng tôi nhận thấy:

Để xây dựng nền thống nhất lãnh đạo của Giáo hội một cách toàn vẹn, Ban Trị sự Phật giáo Thành phố Đà Nẵng trân trọng đề đạt lên Chư Tôn Đức và Đại hội:

  • Về pháp lý: đưa tổ chức GĐPT Việt Nam vào Hiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
  • Về pháp nhân: xác định vị trí của GĐPT trong cơ cấu tổ chức các cấp Giáo hội từ Trung ương xuống các tỉnh như là một ngành hoạt động trong điều 19 và có một Trưởng Ban Hướng dẫn GĐPT như điều 20 của Hiến chương GHPGVN. Vì hiện nay trên toàn quốc có nửa triệu đoàn viên với nề nếp sinh hoạt khá hoàn chỉnh, chương trình tu học giáo dục đặc thù phù hợp với văn minh thời đại Tổ chức Gia Đình Phật Tử đã có mầm mống từ những năm 30 của thế kỷ XX; từ thời kỳ đầu của phong trào Chấn hưng Phật giáo, đã phát sinh, phát triển và tồn tại qua nhiều chế độ chính trị khác nhau. Qua nhiều danh xưng của Giáo hội như An Nam Phật Học Hội (1932-Huế), Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam (1951), Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc (1952), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1964) và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (1981). Trong quá trình đó, GĐPT vẫn nguyên vẹn danh xưng của nó, càng khẳng định được tác dụng giáo dục tầng lớp Phật tử trẻ và thế đứng trong lòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

(…) Từ hai nhiệm kỳ trước, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chưa quan tâm đúng mức đối với sinh hoạt GĐPT, chưa đặt vấn đề về quản lý và tổ chức GĐPT. Cũng có thể chính vì thế mà xảy ra việc một số cựu huynh trưởng GĐPT phục hồi hoặc tự thành lập tổ chức hoạt động GĐPT ngoài phạm vi của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Tháng 8-1984, Ban HDNNPT Trung ương mới đề ra phương án hoạt động. Tuy phương án này còn quá đơn giản lại không được triển khai một cách chu đáo, nhưng bước đầu cũng đã tạo tiền đề cho một số Ban trị sự có cơ sở nghiên cứu để ứng dụng vào sinh hoạt GĐPT tại địa phương mình.

Nhưng thật sự làm chỗ tựa về mặt pháp lý để GĐPT sinh hoạt đi vào nề nếp và phát triển là nhờ Thông bạch 455 ngày 21-7- 1995 của HĐTS-GHPGVN với nội dung hướng dẫn thực hiện quản lý sinh hoạt GĐPT. Trung ương Giáo hội đã khẳng định: “Đây là một trong những Phật sự quan trọng mà Giáo hội có trách nhiệm hướng dẫn và quản lý”.

(…) Vậy, đã là một Phật sự quan trọng mà chưa tổ chức thực hiện chu đáo, thì nhân Đại hội Đại biểu Toàn quốc GHPGVN kỳ IV lần này,phải đầu tư trí tuệ và vật lực để thực hiện cho kỳ được.

Đoàn đại biểu Tỉnh Quảng Ngãi phát biểu với các nội dung như sau:

  1. Đưa danh hiệu GĐPT vào Hiến chương GHPGVN, bổ sung vào điều 19, có thể với tên gọi Ban Hướng Dẫn GĐPT.
  2. Tiếp tục quán triệt Thông bạch 455 đối với Ban trị sự các tỉnh ,thành hội chưa triển khai thực hiện.
  3. Bổ sung hoàn thiện dự thảo Nội quy GĐPT và Điều lệ Huynh trưởng GĐPT mà Thông bạch 547 ngày 19-12-1995 của Ban Thường trực HĐTS-GHPGVN đã hướng dẫn góp ý, tu chính.

Bài tham luận kết luận:
Có như vậy, GĐPT mới trở thành một ngành hoạt động chuyên môn hóa thực hiện được mục đích “Đào luyện thanh, thiếu, đồng niên thành Phật tử chân chính theo giáo lý, đạo đức Phật giáo mang tính đặc thù, thực hiện khẩu hiệu “Phong trào nào thì cán bộ ấy”.

Sau 3 ngày làm việc, Đại hội đã đem lại nhiều kết quả, trong đó có:

  • Danh xưng chính thức Ban Hướng dẫn Phật tử (bỏ 2 từ Nam, Nữ). Ban HDPT có hai phân ban là: Phân ban Cư sĩ và Phân ban GĐPT.

Bằng cách thiết lập Phân ban GĐPT trực thuộc Ban HDPT Trung ương GHPGVN, từ nay lịch sử GĐPT bước vào một chương mới trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Bản Nội quy GĐPT được ban hành ngày 29-01-2002 là văn kiện căn bản cho tổ chức GĐPT thuộc GHPGVN.

  • Ngày 15-9-1998, Nội quy Ban Hướng dẫn Phật tử GHPGVN được Ban Thường trực Hội đồng Trị sự thông qua và duyệt y.
  • Ngày 01-10-1998 Hội đồng trị sự ra Quyết định số 187/QĐ- HĐTS v/v chuẩn y thành phần nhân sự Ban hướng dẫn Phật tử Trung ương GHPGVN:

– Hòa thượng Thích Thiện Duyên làm Trưởng ban
– Hòa thượng Thích Minh Thành, Trưởng PB Cư sĩ PT
– Thượng tọa Thích Khế Chơn, Phó Phân ban CSPT
– Cư sĩ Nguyễn Thắng Nhu, Trưởng Phân ban GĐPT

Theo thống kê của Phân ban GĐPT trong năm 1998 như sau:

  • Thừa Thiên-Huế có 117 Gia đình sinh hoạt với 1081 huynh trưởng
  • Dak Lak có 60 Gia đình sinh hoạt
  • Bà Rịa-Vũng Tàu tổ chức hội thảo chuyên đề, có 153 huynh trưởng tham dự. Mở trại Hạnh ngành Nữ, có 200 trại sinh tham dự.
  • Kiên Giang mở liên trại huấn luyện Lộc Uyển – A Dục. Có 60 trại sinh tham dự
  • Lâm Đồng có 26 đơn vị GĐPT sinh hoạt
  • Gia Lai có 19 Gia đình đang sinh hoạt
  • Đà Nẵng mở trại huấn luyện Anoma – Ni Liên, có 320 trại sinh tham dự
  • Đồng Nai có 12 đơn vị GĐPT sinh hoạt
  • TP.Hồ Chí Minh tổ chức trại Dũng có 250 trại sinh; trại Hạnh có 164 trại sinh; trại Lục Hòa có 424 trại sinh tham dự.
  • Quảng Trị có 170 đơn vị GĐPT sinh hoạt với hàng chục ngàn huynh trưởng và đoàn sinh.

Ngày 27, 28 và 29 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm, Huế đã diễn ra các sự kiện trọng đại của Gia Đình Phật Tử Việt Nam như sau:

  • Lễ kỷ niệm 50 năm ra đời danh xưng Gia Đình Phật Tử rất quy mô và hoành tráng dưới sự chứng minh, chủ trì và tham dự của Chư Tôn Giáo phẩm Tăng, Ni, chính quyền các cấp, Chư Tôn Giáo phẩm thuộc các Ban, Ngành, Viện Trung ương, Ban trị sự Phật giáo các Tỉnh hội từ Quảng Trị đến Cà Mau, các tỉnh nơi có GĐPT sinh hoạt; Chư Tôn đức Tăng, Ni xuất thân từ GĐPT, Chư Tôn đức Ta9ng, Ni các tự viện, tịnh xá, tịnh thất và hơn 10.000 huynh trưởng, cựu huynh trưởng, Ban bảo trợ cùng đông đảo Phật tử, khách mời và hơn 5.000 trại sinh trại họp bạn Lục Hòa 3 của GĐPT tỉnh nhà tham dự.
  • Hội nghị Huynh trưởng cấp Dũng và cấp Tấn GĐPT Việt Nam cùng nhau xác định vị trí, quan điểm, lập trường cố hữu của GĐPT là luôn sinh hoạt trong khuôn khổ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, nhằm đưa sinh hoạt GĐPT thống nhất và ngày càng phát triển.
  • Khai mạc trại huấn luyện huynh trưởng cấp 3 Vạn Hạnh II, cấp toàn quốc do huynh trưởng cấp Dũng Nguyên Hùng Võ Đình Cường làm trại trưởng (trại cấp 3 Vạn Hạnh I tháng 12/1973 tại Đà Lạt do huynh trưởng Nguyên Hùng Võ Đình Cường làm trại trưởng). Có 306 trại sinh và 14 huynh trưởng cấp Tấn dự thính của 14 tỉnh thành tham dự.
  • Trại họp bạn Lục Hòa 3 tổ chúc tại đồi chùa Trúc Lâm-Huế, có 5.157 trại sinh thuộc 157 đơn vị GĐPT trực thuộc Thừ Thiên-Huế.
  • Gặp gỡ Tình Lam giao lưu nhiều thế hệ từ ngày thành lập cho đến nay cùng các vị xuất thân từ GĐPT nay đã là chức sắc trong Giáo hội, cùng nhau hội ngộ thân thiết trong cuộc gặp gỡ này.
  • Ngày 29/01/2002, HĐTS-GHPGVN ra Quyết định số 045/QĐ-HĐTS về việc ban hành Nội Quy GĐPT thuộc Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương GHPGVN.

Năm 2003 theo đề nghị của hai Huynh Trưởng cấp Dũng Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, sáng lập viên GĐPTVN, cố vấn Phân ban Hướng dẫn GĐPT Trung ương, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN thành lập Hội đồng xét xếp cấp Dũng cho 5 Huynh Trưởng: Thiện Điều Nguyễn Thắng Nhu, Tâm Duệ Nguyễn Đức Châu, Tâm Hướng Lê Bá Chí, Nguyên Tú Trần Hạp và Nguyên Trừng Nguyễn Văn Quýnh. Lễ trao cấp hiệu được thực hiện tại Hội nghị kỳ 2 khóa V của Trung ương Giáo hội dưới sự chứng minh của Đại Tăng 2 Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và 46 tỉnh thành trong cả nước, đánh dấu một bước trưởng thành của GĐPT trong lòng GHPGVN.

b) Ở nước ngoài:
Các Huynh Trưởng di tản ra nước ngoài, lần lược thành lập Gia Ðình Phật Tử, từ các trại tị nạn cho đến những nước đã định cư như Mỹ, Gia Nã Ðại, Úc, Pháp, Ðức…

Năm 1976, tại Mỹ, có lẽ Gia Đình Phật Tử đầu tiên được thành lập là GĐPT Cựu Kim Sơn do Huynh Trưởng Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà thành lập tại Chùa Từ Quang San Francisco vào mùa Hè năm 1976, kế đó là GĐPT Long Hoa được Huynh Trưởng Tâm Khởi Hoàng Phấn và Hằng Nga thành lập tại chùa Việt Nam ở Los Angeles, lễ ra mắt ngày 12-12-1976, tiếp theo là GĐPT Hoa Thịnh Đốn tại Washington DC, kết hợp và quy tụ từ năm 1976, nhưng lễ ra mắt chính thức ngày 21-8-1977, GĐPT Vạn Hạnh tại San Diego…

Năm 1978, do sự vận động của các Huynh Trưởng Đặng Đình Khiết (nguyên TTK BHD Miền Vĩnh Nghiêm), Quảng Khoái Trần Ngọc Lạc (cựu Ủy viên BHD Miền Vĩnh Nghiêm), Nguyên Sơn Văn Hưng (Đoàn Trưởng Ngành Thiếu) và Minh Lượng Trần Văn Thọ (Cựu LĐT GĐPT Cổ Thành, Quảng Trị) đã mở Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Sơ Cấp Lộc Uyển và Cấp I A Dục được tổ chức tại Oklahoma vào dịp Lễ Độc Lập 4-7-1978.
Ban Tổ chức:

Cố vấn: TT. Thích Mãn Giác nguyên TVT Tổng Vụ VHGD/GHPGVNTN
Cố vấn: TT. Thích Giác Đức nguyên Quyền TVT Tổng vụ TN/GHPGVNTN

Trưởng Ban: Htr. Thiện Thanh Đặng Đình Khiết
Phó Nội vụ: Htr. Minh Lương Trần Văn Thọ
Phó Ngoại vụ: Htr. Nguyên Sơn Văn Hưng
Thư Ký: Ht. Nguyên Kim Nguyễn Đóa
Thủ Quỹ: Htr. Nguyễn Thị Bích Quyên

Ban Quản Trại:
Trại Trưởng: Htr. Quảng Khoái Trần Ngọc Lạc
Trại Phó Nam: Htr. Nguyên Kim Nguyễn Đóa
Trại Phó Nữ: Htr. Diệu Quỳnh Nguyễn Thị Hồng Loan
Đời sống Trại: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành

Ban Giảng Huấn:
TT. Thích Mãn Giác
TT. Thích Giác Đức
Gs Vũ Khắc Khoan
Nhà văn Mai Thảo
Cụ Nguyễn Đình Thư

Đặc biệt trong đêm lửa trại liên hoan bế mạc đã hình thành một tổ chức “Ủy Ban Liên Lạc Trung Ương” có nhiệm vụ:

  1. Tổ chức Đại Hội Huynh Trưởng lần thứ nhất để bầu Ban Hướng Dẫn Trung Ương cho tổ chức GĐPTVN tại Hoa Kỳ.
  2. Đệ nạp, Dự thảo Quy chế Huynh Trưởng và Chương trình tu học các cấp.

Thành phần Ủy Ban Liên Lạc Trung Ương:
Trưởng Ban: Htr. Quảng Khoái Trần Ngọc Lạc
Phó TB Miền Tây: Htr. Quảng Thành Đoàn Thanh Nam
Phó TB Miền Đông: Htr. Nguyên Kim Nguyễn Đóa
Phó TB Miền Trung: Htr. Phúc Hòa Lư Văn Hiếu
Tổng Thư Ký: Htr. Thiện Thanh Đặng Đình Khiết
Phó Tổng Thư Ký: Htr. Nguyên Sơn Văn Hưng
Thủ Quỹ: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
UV Liên Lạc Cựu Htr.: Htr. Nguyên Mãn Nguyễn Đức Côn

Năm 1982, Đại Hội Huynh Trưởng Miền Trung nước Mỹ tổ chức tại chùa Phật Quang, Houston, Texas, từ 3 đến 5-9-1982, dưới sự chứng minh của TT. Trí Hiền, TT Giác Tâm và ĐĐ Thích Từ Lực Đặc Ủy Thanh Niên THPGVN tại HK, Ủy Ban Liên Lạc Trung Ương Chủ Tọa, Đại Hội đã thành công viên mãn với một Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Trung Mỹ gồm có:

Trưởng Ban: Htr. Như Thông Phan Duy Thanh
Phó TB Ngành Nam: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
Phó TB Ngành Nữ: Htr. Diệu Xuân Trần Thị Yến
Tổng Thư Ký: Htr. Cát Tường Nguyễn Văn Thụy
Thủ Quỹ: Htr. Viên Giác Quách Văn Hạnh

Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Bắc California được hình thành trong một buổi họp ngày 24-10-1982 tại chùa Từ Quang, San Francisco, gồm các Gia Đình Phật Tử Cựu Kim Sơn, Kim Quang, Lam Sơn, Đức Viên, Vạn Hạnh, Giác Minh.

Trưởng Ban: Htr. Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà

Năm 1983, Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Nam California được hình thành trong Đại Hội Huynh Trưởng các GĐPT miền Nam Cali vào các ngày 1, 2-1-1983.

Trưởng Ban: Huynh Trưởng Tâm Chánh Trần Kim Đạt
Sau khi đã có các Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Trung Mỹ (nay là Miền Tịnh Khiết), Miền Bắc Cali (nay là Miền Thiện Minh), Miền Nam Cali (nay là Miền Quảng Đức), trong phiên họp của ba Miền này vào ngày 16-4-1983, tại chùa Kim Quang Sacramento dưới sự chủ trì của TT. Thích Thiện Trì và Từ Lực, đã quyết nghị tổ chức một Trại Họp Bạn Ngành Thiếu trên toàn nước Mỹ vào các ngày 5,6,7-8-1903 tại Regional O’Neil Park, Nam Cali và khóa Hội Thảo Huynh Trưởng toàn quốc Hoa kỳ.

Dự định khóa Hội thảo trên đây về sau thành Đại Hội Huynh Trưởng toàn quốc Hoa kỳ lần đầu tiên, tổ chức vào các ngày 3, 4, 5-9-1983 tại Trung Tâm Phật Giáo Khuông Việt, Grand Prairie, Texas. Đại Hội này đã hình thành Ban Điều Hợp Trung Ương GĐPT Việt Nam tại Hoà Kỳ.

Thành phần gồm có:
Trưởng Ban: Htr. Lệ Từ Nguyễn Thị Thu Nhi
Phó TB Ngành Nam: Htr.Tâm Chánh Trần Kim Đạt
Phó TB Ngành Nữ: Htr. Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà
Tổng Thư Ký: Htr. Như Thông Phan Duy Thanh
Thủ quỹ: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
UV Nội Vụ Điều Hành: Htr. Nguyên Tịnh Trần Tư Tín
Ủy viên Ngoại Vụ: Htr. Diệu Thọ
Ủy viên Doanh Tế: Htr. Minh Hòa Nguyễn Văn Bình
Ủy viên Nghiên Huấn: Htr.Minh Dũng Phú Toàn Cương
Ủy viên Tu Thư: Htr. Tâm Quang Phan Huy Thanh
UV Tổ Chức Kiểm Soát: Htr. Nguyên Hạnh Cao Văn Hậu
UV Thanh Thiếu Nam: Htr. Tâm Nghĩa Ngô Văn Quy
Ủy viên Oanh Vũ Nam: Htr. Nguyên Tú Nguyễn Quốc Hưng
và một số Ủy viên khác cũng đã được đề nghị bổ sung

Năm 1986, Đại Hội Huynh Trưởng GĐPT toàn quốc Hoa Kỳ kỳ II tổ chức vào các ngày 4, 5, 6, 7-7-1986 tại chùa Linh Sơn, Houston, Texas của ĐĐ Thích Trí Huệ. Quy tụ 25 phái đoàn, 120 Đại Biểu. Đã chính thức công cử Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam Tại Hoa Kỳ đầu tiên, để đánh dấu cho sự liên tục nên gọi là nhiệm kỳ II (1986-1989)

Thành phần Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam Tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ II (1986-1989):

Trưởng Ban: Htr. Lệ Từ Nguyễn Thị Thu Nhi Phó
TB Ngành Nam: Htr. Minh Hòa Nguyễn Văn Bình
Phó TB Ngành Nữ: Htr. Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà
Tổng Thư Ký: Htr. Tâm Nguyên Nguyễn Văn Ngại
Phó Tổng Thư ký: Htr. Nguyên Hạnh Cao Văn Hậu
Thủ quỹ: Htr. Tâm Chánh Phạm Thị Hoài Chân
UV Nội Vụ Điều Hành: Htr. Nguyên Tịnh Trần Tư Tín
UV Tổ Chức K. Soát: Htr. Nguyên Siêu Trương Phán
Ủy viên Nghiên Huấn: Htr. Minh Dũng Phú Toàn Cương
Phụ tá UV Nghiên Huấn: Htr. Giác Tánh Lê Quang Định
Ủy viên HĐTNXH: Ht. Nguyên Kim Nguyễn Đóa
Ủy viên Doanh Tế: Htr. Nguyên Thuận Trương Văn Vinh
Phụ tá Ủy viên Doanh Tế: Htr. Minh Trực Mã Việt Hùng
Ủy viên Tu Thư: Htr. Tâm Quang Phan Huy Thanh
UV Giáo Dục và VMN: Htr. Viên Giác Quách Văn Hạnh
PT UV Giáo Dục và VMN: Htr. Tâm Luợng Trần Tử Lương
Ủy viên Nam Phật Tử: Htr. Như Thông Phan Duy Thanh
Ủy viên Nữ Phật Tử: Htr. Diệu Lan Đặng Thị Xuân Hương
Ủy viên Thiếu Nam: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
Ủy viên Thiếu Nữ: Htr. Tâm Phùng Đoàn Thị Bướm
Ủy viên Oanh Vũ Nam: Htr. Trí Quang Đỗ Vương Tân
Ủy viên Oanh Vũ Nữ: Htr. Nguyên Nhơn Ngô Thị Thu
Năm 1993, Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVNTHK tổ chức lễ Kỷ niệm 50 năm thành lập Gia Đình Phật Tử Việt Nam (tổ chức tại San Jose, California, Hoa Kỳ ngày 27,28,29 và 30/8/1993). Nhằm đáp ứng nguyện vọng của các thành viên GĐPTVN tại Hải ngoại, thống nhất Cơ cấu Tố chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở các châu lục và quốc gia, cung ứng hiệu năng yểm trợ và phục hoạt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quê nhà, Ban Điều Hợp Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hải ngoại đã chính thức được thành lập.

Trưởng Ban: Htr. Tâm Huệ Cao Chánh Hựu

Năm 1994, vào tháng 10 năm 1994 Ban Điều Hợp GĐPT Miền Đông được hình thành, nhân sự gồm có
Cố vấn: Htr. Tâm Huệ Đoàn Thị Kim Cúc
Trưởng Ban: Htr. Đồng Thân Huỳnh Văn An
Tổng Thư Ký: Htr. Chúc Mỹ Lâm Tú Phương

Năm 1997. nhằm kiểm điểm quá trình hoạt động trong nhiệm kỳ qua và hoạch định đường hướng cho nhiệm kỳ tới Ban Điều Hợp Trung Ương GĐPTVN tại Hải Ngoại đã tổ chức Hội nghị GĐPTVN Hải Ngoại kỳ I, được tổ chức tại Chùa Vạn Hạnh, Thành phố San Diego, Tiều Bang California, Hoa Kỳ trong những ngày 3-4-5 tháng 7 năm 1997.

Tổng cộng có: 30 Đại biểu Chính thức 02 Dự khuyết và 02 Dự thính

Hội nghị đã cải danh BAN ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG GĐPT VN HẢI NGOẠI

Thành ra BAN HƯỚNG DẪN LÂM THỜI GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM HẢI NGOẠI.

Thành phần nhân sự BHD Lâm Thời GĐPTVN Hải Ngoại
Trưởng Ban: Htr TÂM HUỆ Cao Chánh Hựu
Phó Trưởng Ban: Htr LỆ TỪ Nguyễn Thị Thu Nhi
Tổng Thư Ký: Htr TÂM KIỂM Bạch Hoa Mai
Phó Tổng Thư Ký: Htr TÂM ĐĂNG Nguyễn Văn Pháp
Thủ Quỹ: Htr TÂM CHÁNH Phạm T. Hoài Chân
Ủy Viên Giáo Dục: Htr HUỆ KHA Khu Thêm Đóng
Ủy Viên Xã Hội: Htr TÂM TRÍ Tư Đồ Minh
Ủy Viên NC – KH: Htr NGUYÊN MẪN Lê Viết Lâm

– Đại Diện BHD GĐPT VN tại Hoa Kỳ: Htr NGUYÊN TỊNH Trần Tư Tín
– Đại Diện BHD GĐPTVN tại Âu Châu: Htr THỊ LỘC Võ Văn Mai
– Đại Diện BHD GĐPTVN tại Úc Đại Lợi: Htr NGUYÊN MẪN Lê Viết Lâm
– Đại Diện BHD GĐPTVN tại Canada: Htr TÂM TRÍ Tư Đồ Minh

Phụ Tá Trưởng Ban: Htr ĐỒNG TRÚC Thái Văn Bá

Trưởng Nhóm Cải Tiến Tu Học: Htr HỐNG LIÊN Phan Cảnh Tuân, Htr TÂM VINH Đoàn văn Lộc

Trưởng Nhóm Tương Trợ: Htr TÂM DUY Phan Duy Chiêm, Htr TÂM NHUẦN Trần Văn Nhuận

Năm 1998, trong Đại Hội Huynh Trưởng Miền Thiện Minh vào các ngày 3, 4-4-1998 tại chùa Cổ Lâm, Seattle, Washington State dưới sự chứng minh và chủ tọa của chư Tăng giáo phẩm GHPGVNTNTHK là:

Hòa Thượng Thích Giác Lượng, TT. Thích Huyền Việt, Thích Chơn Thành và Thích Nguyên An

Đại Hội đã bầu Ban Hướng Dẫn Miền Thiện Minh nhiệm kỳ VIII đã biến thành Đại Hội bầu Ban Hướng Dẫn Liên Miền Liễu Quán – Khuông Việt trực thuộc GHPGVNTNTHK. Đó là chủ trương của Giáo Hội, Nhưng BHDTW/GĐPTVNTHK không thể tuân hành vì BHD điều hành nhiều GĐPT thuộc các Giáo Hội khác nhau. Do vậy, GĐPTVN Tại Hoa Kỳ bước vào thời kỳ phân hóa.

Năm 1999, Ban Điều Hợp GĐPT Miền Đông đã có từ năm 1994 nhưng phải đến 24-8-1999 mới tổ chức được Đại Hội Huynh Trưởng vào các ngày 26 đ ến 28-11-1999 tại chùa Từ Hiếu, Buffalo, New York. Dưới sự chứng minh của Sư Ông Thích Trí Hiền và có sự hiện diện của Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương Trần Tư Tín. Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Đông được hình thành và cải danh thành Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Thiện Hoa, đã bầu cho nhiệm kỳ I (1999-2003):

Trưởng Ban: Htr. Tâm Tựu Sử Thành

Năm 2003, Ban Hướng Dẫn TW/GĐPTVN và Ban Hướng Dẫn GĐPT Hải Ngoại đã hình thành Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử VIỆT NAM Lâm Thời Trên Thế Giới.

Trưởng Ban: Htr. Nguyên Tín Nguyễn Châu

Thấy được sự phân hóa GĐPTVNTHK bắt nguồn từ năm 1998 tại Đại Hội Huynh Trưởng Miền Thiện Minh, Hòa Thượng Thích Hộ Giác Phó Viện Trưởng GHPGVNTN đã tổ chức một Bữa cơm thân mật vào chiều ngày 24-9-2003 tại chùa Diệu Pháp, Nam Cali.

Trong bữa cơm thân mật này, HT Thích Hộ Giác đã phát biểu “Giáo Hội không đặt vấn đề trực thuộc, chỉ mong cầu anh em một khối cố kết, để cùng nhau đóng góp hữu hiệu cho đại Phật sự Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn tại quê nhà.”

Năm 2004. Khởi nguồn từ bữa cơm thân mật trên, Ban Tổ chức đã tiến hành Đại Hội Hợp Nhất GĐPTVN Tại HK tổ chức vào hai ngày 10 và 11-4-2004 tại chùa Diệu Pháp, 311 East Mission Dr. San Gabriel, CA 91776.

Nhưng thay vì bàn việc Hợp Nhất, thì một số Huynh Trưởng đề nghị, được chư Tăng hỗ trợ đặt thành vấn đề tiên quyết là BHD Hợp Nhất phải trực thuộc GHPGVNTN Tại HK, cho nên Ban Hướng Dẫn TW GĐPTVNTHK tuyên bố không tham gia, không phát biểu, đã rời khỏi Hội Trường trước khi bỏ phiếu.

Sau đó, Đại Hội tiến hành bỏ phiếu cho 4 giải pháp, giải pháp được tán đồng 101/167 là: Thành lập Ban Hướng Dẫn chung cho các Đơn vị đã sẵn sàng trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và ai chưa muốn thì đợi sau.

Do đó Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVNTHK thuộc GHPGVNTNTHK ra đời ngay trong Đại Hội này, các Đại biểu đã bầu cho nhiệm kỳ 2004-2008 gồm có:

Ban Thường Vụ:
Trưởng Ban Hướng dẫn: Htr Tâm Kiểm Bạch Hoa Mai
Phó TB Q. Trị Điều Hành: Htr Tâm Tựu Sử Thành
Phó TB Truyền Thống XH: Htr Nguyên Siêu Trương Phán
Phó TB N. Cứu H. Luyện: Htr Tâm Minh Vương Thúy Nga
Tổng Thư Ký: Htr Tâm Đăng Nguyễn Văn Pháp
Phó Tổng Thư Ký: Htr Nguyên Từ Ng~ Quốc Hưng
Tổng Thủ Quỹ: Htr Diệu Liên Nguyễn Thị Huế
Phó Tổng Thủ Quỹ: Htr Diệu Ngọc Cao Ngọc Điệp
Ủy Viên Quản Trị Htr.: Htr Tâm Hòa Lê Quang Dật
Ủy Viên Tổ Kiểm: Htr Nguyên Thanh Ng~ Văn Hà

Các Ủy Viên:
Ủy Viên Lịch Sử: Htr Minh Quang Lê Văn Thẩm
Ủy Viên Tương Tế: Htr Nguyên Lợi Ng~ Thị Huế
UV Nghi Lễ & Giao Tế: Htr Tâm Thông Trần Chí Trung
Ủy Viên Cựu Đoàn Viên: Htr Tâm Quang Võ Cân
Ủy Viên Xã Hội & Ái Hửu: Htr Nguyên Chánh Võ Văn Bằng
Ủy Viên HĐTN: Htr Giác Chơn Đỗ Quang Hưng
Ủy Viên Văn Mỹ Nghệ: Htr Tâm Nghĩa Lê Viết Đắc
Ủy Viên Doanh Tế: Htr Nguyên Thuyết Lê Minh Thi
Ủy Viên Ngành Nam: Htr Tâm Nghĩa Lê Hửu Đàng
Ủy Viên Ngành Nữ: Htr Trí Hải Ngô Quỳnh Lâm
Ủy Viên NC&KH: Htr Tâm Duy Phan Duy Chiêm
Ủy Viên Giáo Dục: Htr Quảng Nghiêm Ng~ Kim Ngân
Ủy Viên Huấn Luyện: Htr Trí Minh Lê Văn Chiếu
Ủy Viên Tu Thư: Htr Quảng Pháp Trần Minh Triết
Ủy Viên Chuyên Năng: Htr Nhật Liên Dũng Lê Minh Dũng

Các Phụ Tá:
Phụ Tá UV Quản Trị Htr.: Htr Quảng Hoàng Lê Hữu Minh Huy
Phụ Tá UV Huấn Luyện: Htr Quảng Dũng Hồ Chí Cường
Phụ Tá UV Chuyên năng 1: Htr Huệ Cảnh Hồ Đăng Dũng
Phụ Tá UV Chuyên năng 2: Htr Nguyên Túc Nguyễn Sung
Phụ Tá UV Tu Thư: Htr Diệu Tánh Trần Kim Khánh
Phụ Tá Ủy Viên Doanh Tế: Htr Quảng Hải Phan Trung Kiên

Do đó, kể từ ngày 11-4-2004 GĐPTVNTHK có hai Ban Hướng Dẫn Trung Ương, một do Trần Tư Tín làm Trưởng Ban, điều hành các GĐPT của nhiều Giáo Hội Phật Giáo và một trực thuộc GHPGVNTNTHK thuộc VPII/VHĐ do Bạch Hoa Mai làm Trưởng Ban.

Lễ Hội Huynh Trưởng GĐPT Việt Nam tại Trung Tâm Viên Giác ở Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ, vào các ngày 7, 8, 9 -11-2004 dưới sự chứng minh của:

1. Thích Viên Lý Phó Tổng Thư Ký VHĐ kiêm TTK/HĐĐH/GHPGVNHNTHK VP II VHĐ
2. Thích Như Điển TTK/GHPGVNTNAU
3. TT. Thích Nguyên Siêu Tổng Vụ Trưởng TVVH/GHPGVNTNTHK

Các Phái đoàn tham dự gồm có:
– Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Hải Ngoại
– Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Hoa Kỳ
– Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Âu Châu
– Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Úc Đại Lợi
– Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Canada
– Phái đoàn cựu Huynh Trưởng GĐPTVN tại Hải Ngoại
– Phái đoàn Ban Bảo Trợ GĐPTVN tại Hải Ngoại.

Trong Lễ Hội cơ chế Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN Trên Thế Giới được Đại Hội thông qua và một Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Trên Thế Giới được công cử.

THÀNH PHẦN NHÂN SỰ BHD GĐPT VN TRÊN TG. Nhiệm Kỳ I: ( 2004-2008 )

Cố Vấn: Htr cấp DŨNG NGUYÊN NGỘ Nguyễn Sỹ Thiều, Htr TÂM LẠC Nguyễn Văn Thục

Trưởng Ban: Htr Cấp DŨNG NGUYÊN TÍN Nguyễn Châu

Phó Trưởng Ban Quốc Nội: Htr Cấp DŨNG NHƯ THẬT Nguyễn Công Minh

Phó Trưởng Ban Hải Ngoại: Htr Cấp DŨNG TÂM HUỆ Cao Chánh Hựu

Tổng Thư Ký: Htr Cấp TẤN TÂM KIỂM Bạch Hoa Mai

Phó Tổng Thư Ký: Htr Cấp TẤN NGUYÊN HOÀNH Lê Văn San

Tổng Thủ Quỹ: Htr Cấp TẤN TÂM VINH Đoàn Văn Lộc

Phụ Tá: Htr Cấp TẤN DIỆU THUẬN Phạm Thị Xuân Hòa

Ủy viên Nghiên Cứu / Kế Hoạch: Htr Cấp TẤN NĂNG QUANG Nguyễn Hữu Thạnh
Phụ Tá: Htr Cấp TẤN TÂM DUY Phan Duy Chiêm

Ủy viên Giáo Dục: Htr Cấp TẤN NGUYÊN TỪ Nguyễn Đức Thương
Phụ Tá: Htr Cấp TẤN TÂM MINH Vương Thúy Nga

Ủy viên Xã Hội: Htr Cấp TẤN TÂM TRÍ Tư Đồ Minh
Phụ Tá: Htr Cấp TẤN NGUYÊN HẠNH Phạm Phước Hùng

Đại Diện BHD tại Quốc Nội: Sẽ mời sau
Đại Diện BHD tại Hải Ngoại: Sẽ mời sau

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới, do Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu ký ban hành Giáo chỉ số 241/VP/TT ngày 28-11-2004 thành lập Hội Đồng Điều Hành Lâm Thời Gia Đình Phật Tử Việt Nam Trên Thế Giới. Thành phần gồm có:

Cố Vấn GH: Hòa Thượng Thích Trí Hiền
Cố Vấn GH: Thượng Tọa Thích Quảng Thanh

Chủ Tịch: Huynh Trưởng Nguyên Kim Nguyễn Đóa

Phó Chủ Tịch: Huynh Trưởng Minh Hòa Nguyễn Văn Bình

Tổng Thư Ký: Huynh Trưởng Tuệ Linh Nguyễn Công Sản

Tổng Thủ Quỹ: Huynh Trưởng Nguyên Kim Nguyễn Đóa (kiêm)

Năm 2008, Hoà Thượng Thích Hộ Giác Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNTHK ký Quyết định Số: 2008002/VPTT/HĐĐH/QĐ/CT ngày 10-2-2008 giải nhiệm toàn Ban Hướng Dẫn Trung Ương do Htr. Bạch Hoa Mai làm Trưởng Ban và sau đó ký Quyết định ngày 6-10-2008 bổ nhiệm thành phần Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVNTHK

Quyền TBHDTW: Hòa Thượng Thích Huyền Việt
Phó TB QTĐH: Htr Trí Hải Ngô Thị Quỳnh Lâm
Phó TB TTXH: Htr Nguyên Hòa Trần Đình Minh
Phó TB NCHL: Htr Trí Hải Ngô Thị Quỳnh Lâm (k)
Tổng Thư ký: Htr Nhật Liên Dũng Lê Minh Dũng
Phó Tổng Thư ký: Htr Tâm Phước Nguyễn Xuân Phước
Tổng Thủ quỹ: Htr Nguyên Thọ Hoàng Phước
Ủy viên Tổ kiểm: Htr Thiện Thanh Châu Ngọc Thạch
UV Tu thư, HL: Htr Nguyên Hậu Tôn Tiên
Ủy viên Truyền thông: HTr Thiện Thanh Châu Ngọc Thạch (kiêm)
Ủy viên NC, Kế hoạch: Htr Nguyên Thọ Hoàng Phước (kiêm)
UV LL miền TN H.Kỳ: Htr Tâm Tri Hoàng Văn Nuôi
UV LL miền Đông HK: HTr Nguyên Viễn Ng~ Ngọc Mục

Năm 2016
Vào thời điểm năm 2016 Gia Đình Phật Tử Việt Nam Trên Thế Giới có 2 Ban Hướng Dẫn:
1. Hội Đồng Điều Hợp Trung Ương thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trên Thế Giới do HT. Thích Tâm Châu lãnh đạo.
Chủ tịch Hội Đồng: Htr. Nguyên Kim Nguyễn Đóa

2. Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN Trên Thế Giới do Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lãnh đạo.
Trưởng Ban HDTW: Htr. Nguyên Tín Nguyễn Châu

Cấp quốc gia, tại Việt Nam có 4 Ban Hướng Dẫn Trung Ương:

  1. Trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do HT. Đệ Ngũ Tăng Tống Thích Quảng Độ lãnh đạo. Trưởng Ban BHDTW: Htr. Nguyên Chánh Lê Công Cầu
  2. Trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do HT. Đệ Tam Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ lãnh đạo. Trưởng Ban BHDPB GĐPT: Htr. Thiện Điều Ng~ Thắng Nhu
  3. Trực thuộc Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Quyền Trưởng Ban BHD: HT. Thích Tâm Trí
  4. Tuyên bố thuộc GHPGVNTN, nhưng Giáo Hội không thừa nhận. Trưởng Ban BHDTW: Htr. Nguyên Tín Nguyễn Châu

Tại Hoa Kỳ cũng có 4 Ban Hướng Dẫn Trung Ương

  1. Ban Hướng Dẫn Trung Ương lâu đời nhất, không thuộc Giáo Hội nào: Trưởng Ban BHDTW: Htr. Phúc Thiện Ngũ Duy Thành
  2. Trực thuộc Văn Phòng II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN: Quyền Trưởng Ban BHDTW: HT. Thích Huyền Việt.
  3. Thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ: Trưởng Ban BHDTW: Htr. Tâm Duy Phan Huy Chiêm
  4. Không thuộc Giáo Hội nào, Ban Hướng Dẫn GĐPTVN Tại Hải Ngoại: Trưởng Ban BHDTW: Htr. Tâm Đăng Nguyễn Văn Pháp

Gia Đình Phật Tử Việt Nam nói chung có nhiều Ban Hướng Dẫn, tức nhiên là có nhiều đơn vị GĐPT, nói khác hơn là có nhiều thành viên Huynh Trưởng cũng như Đoàn sinh, đáng mừng là số lượng càng ngày càng đông hơn, nói lên mục đích giáo dục của Gia Đình Phật Tử Việt Nam sau vài thập kỷ đã gặt hái được kết quả tốt đẹp trong nhiệm vụ giáo dục, các thành viên trở thành những Phật tử chân chánh hữu ích cho Đạo và đời, nhưng có nhiều Ban Hướng Dẫn để phục vụ khắp mọi nơi cho được hữu hiệu hơn, hay là để cho Huynh Trưởng có chức vụ cũng như cấp bậc ?!

III. Hiệu quả
Mục đích của Gia Ðình Phật Tử là đào tạo Thanh, Thiếu, Ðồng niên trở thành Phật Tử chân chính và góp phần cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo.

Nhiều thành viên Gia Đình Phật Tử có người là Đoàn sinh, có người là Huynh Trưởng đã xuất gia như Hòa Thượng Tâm Thanh ở Đại Ninh, Hòa Thượng Thích Chơn Kim ở Đơn Dương, Sư Bà Hải Triều Âm ở Đại Ninh… ở Hải ngoại có Thượng Tọa Thích Từ Lực, viện chủ chùa Phổ Từ ở Bắc Cali, Đại Đức Thích Phổ Hòa, Sư cô Huệ Tâm, Tịnh Ngọc, Khánh An…

Ngoài xã hội nhiều thành viên đã giữ những chức vụ của chánh quyền như Trần Quang Thuận Bộ Trưởng Bộ Xã Hội, Cao Chánh Hựu Chánh án toà án mặt trận, Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, Nguyễn Thanh Quang, Phó quận trưởng Quận Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, quận Đức Tôn tỉnh Sa Đéc. La Thành Tỵ Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Đà Nẵng…

Qua những lần Pháp nạn, thành viên của Gia Ðình Phật Tử từ Ðoàn sinh cho đến Huynh Trưởng, Gia Trưởng đã đem thân mạng của mình ra để góp phần tranh đấu cho Tự do, Ðộc lập, Hòa Bình cho Ðạo pháp và Dân Tộc. Họ đã để lại tên tuổi như Nguyễn Thị Ngọc Lan, Huỳnh Tôn Nữ Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Phúc, Lê Thị Kim Khanh, Trần Thị Phước, Nguyễn Thị yến, Nguyễn Văn Ðạt, Ðặng Văn Công, Quách Thị Trang, Ðào Thị yến Phi, Phan Duy Trinh, Nguyễn Ðại Thức, Phạm Gia Bình.

Năm 1960, Đoàn Huynh Trưởng GĐPT Thủ Đô được thành lập thuộc Ban Hướng Dẫn GĐPT Nam Việt do Trưởng Phan Cảnh Tuân làm Đoàn Trưởng, Nguyễn Hữu Huỳnh làm Đoàn Phó quy tụ hầu hết Huynh Trưởng các GĐPT tại Thủ đô Sàigòn tham gia sinh hoạt. Đó là hạt nhân đến Pháp nạn 1963, Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh với chức vụ Trưởng Ban Chỉ Đạo GĐPT trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, anh đã điều động các Huynh Trưởng và các Gia Đình Phật Tử tại thủ đô Sàigòn tham gia các công tác do UBLPBVPG đề ra, góp phần vào việc tranh đấu đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho Phật Giáo và xây dựng nên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất năm 1964.

Năm 1961, Ban Hướng Dẫn GĐPT thuộc Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt Tại Miền Nam thành lập Trường Đào Tạo Huynh Trưởng, khóa trình đào tạo trong 2 năm, về sau cải tiến lại còn 1 năm. Khóa đầu tiên khai giảng vào ngày 10 tháng 12 năm 1961 và khóa cuối cùng khai giảng vào ngày 12 tháng 4 năm 1964.

Qua 3 khóa, tổng số khóa sinh tham dự là 129 khóa sinh, tốt nghiệp là 46 Huynh Trưởng, được phân bổ đi sinh hoạt trong các GĐPT của Giáo Hội.

Sau Đại Hội Huynh Trưởng Toàn quốc năm 1964, Trường A Dật Đa tự giải thể cho phù hợp với Nội Quy.

Năm 1967, chánh quyền thành phố Đà Lạt – Tuyên Đức cấp cho GĐPT tỉnh Tuyên Đức một lô đất dùng để làm Trại Trường Huấn Luyện của GĐPT, đến tháng 1 năm 1961, chánh quyền cho phép xây dựng Đài Lục Hòa, ngày 19-1-1969 làm lễ đặt viên đá đầu tiên, khởi công xây dựng ngày 28-3-1970 đến ngày 25-12-1973 lễ Khánh Thành Đài Lục Hòa của Trại Trường.

Cũng tại nơi Trại Trường nầy đã khai giảng khóa Huấn Luyện Huynh Trưởng Vạn Hạnh đầu tiên vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1973, do các Huynh Trưởng Nguyễn Văn Thục và Nguyễn Khắc Từ tổ chức.

Nơi đây năm 1995 các Huynh Trưởng GĐPTVN đã bầu lại Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam.

Tại Hải Ngoại có Trung Tâm Huấn Luyện và Tu Học Thích Quảng Đức tại 1383 W. Baseline St., San Bernardino, CA 92411 thuộc Ban Hướng Dẫn GĐPTVNTHK. Là một cơ sở thuộc chủ quyền của Gia Đình Phật Tử, không thuộc Giáo Hội, Hội hay Tự, Viện nào hết.

Đó là những hoạt động là những mô hình độc đáo đáng được triển khai, nhân rộng ra chứng tỏ hiệu quả, sự lớn mạnh vững chắc của GĐPT qua các thời kỳ.

Gia Ðình Phật Tử đã, đang và sẽ luôn luôn cố gắng làm tròn sứ mệnh của mình. Mặc dù hiện nay tổ chức đang gặp nhiều khó khăn, trong nước không được chính thức hoạt động, không thể tập họp để bầu một Ban Hướng Dẫn Trung Ương cho đủ người có tài đức đảm nhận nhiệm vụ, các nơi thiếu ban Hướng Dẫn địa phương để trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và đôn đốc mọi hoạt động nhằm phục hồi và phát triển tổ chức.

Ở nước ngoài, vẫn còn thiếu người lãnh đạo, thời gian qua có những thử thách, làm cho người ta có dịp đánh giá được lãnh đạo ở mặt đạo đức và tài năng. Hơn nữa, đời sống ở nước ngoài hiện nay có những suy tư, nhận thức khác biệt giữa Huynh Trưởng thế hệ trẻ được đào tạo ở nước ngoài và thế hệ già đã không bắt kịp những tiến bộ của thời đại. Mặc cảm và tự tôn chính là trở ngại lớn cho đà tiến thủ.

Những khó khăn đó làm cho Gia Ðình Phật Tử chậm bước, dĩ nhiên rồi cũng vượt qua nhưng phải có thời gian, người ta tưởng chừng như nó đang nằm yên trong giấc ngủ mùa đông, thật ra không phải vậy, nó vẫn hoạt động, như một ngọn lửa đang âm ỉ cháy, chờ cho ngọn gió đến thổi bùng lên.

Ghi chú:
(1) Theo như anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục cho biết, anh vào Nam khoảng tháng 10 năm 1949, sau đó anh sống bằng nghề dạy kèm, có tiền anh mới mở trường tư thục Gia Ðình Bổ Túc Học Vụ Chân Tri ở Bàn Cờ Sàigòn. Từ trường nầy, một số học sinh trở thành Ðoàn sinh, thầy cô giáo trở thành Huynh Trưởng của Gia Ðình Phật Hóa Phổ Chân Tri, sinh hoạt tại chùa Sùng Ðức ở Chợ Lớn, sau dời về chùa Phật Quang của thầy Huyền Dung, thầy đổi tên là Gia Ðình Phật Tử Chánh Giác.

(2) Anh Nhật Minh Nguyễn Hữu Huỳnh nguyên là Phó Tổng Thư ký Hội Phật Học Nam Việt, anh cho biết khi Gia Ðình Chánh Tâm dời từ nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ về chùa Phước Hòa sinh hoạt, anh định lấy pháp danh của gia trưởng mới, để đặt lại tên của gia đình nầy là Gia Ðình Phật Tử Chánh Trí, nhưng bác ấy không muốn vậy, nên bác đổi ra là Gia Ðình Phật Tử Chánh Tín.

Tài liệu tham khảo:
– Kiêm Ðạt Lịch sử Gia Ðình Phật Tử Việt Nam, Phật Học Viện Quốc Tế, USA, 1981
– Nhiều tác giả Gia Ðình Phật Tử Việt Nam – 50 năm xây dựng, Hương Quê Xuất Bản, USA, 1986
– Thích Thiện Hoa 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam Phật Học Viện Quốc Tế, USA, 1987
– GÐPT Vĩnh Nghiêm Khóa tu học ANOMA, Việt Nam, 1993
– Nguyễn Văn Thục Lược sử Gia đình Phật Tử Việt Nam, Australia, 1994
– Ái Hữu Gia Ðình Phật Tử Vĩnh Nghiêm Hải Ngoại Ðặc San Vĩnh Nghiêm, USA, 1995
– Nguyễn Hữu Huỳnh Thử Tìm Hiểu Nguồn Gốc Gia Ðình Phật Tử, Việt Nam 1995
– Thích Quảng Trí Tiến trình hình thành và phát triển Gia Đình Phật Tử Việt Nam, http://gdptkiengiang.com

Nguồn: https://thuvienphatviet.com/phuc-trung-huynh-ai-tong-luoc-su-gia-dinh-phat-tu-viet-nam/

2. Gia Đình Phật Tử Việt Nam Tại Hoa Kỳ
Lời thưa: Một bài viết đã cũ lắm, của cố trưởng niên Tâm Hoà Ngô Mạnh Thu, nhưng “note’ vào đây để anh chị em áo lam tham khảo. Bài viết tất nhiên cần được cập nhật theo tiến trình thăng trầm của phong trào… và đang đợi anh-chị-em chúng ta cùng làm việc đó, trong thực tiễn hành động. Mong lắm thay!
Trong các sinh hoạt của Cộng Ðồng Người Việt hải ngoại, đặc biệt tại Hoa kỳ, người ta thường thấy có sự hiện diện của một đoàn thể trẻ đồng phục gần giống với tổ chức Hướng Ðạo. Ðó là Gia Ðình Phật Tử, một phong trào Thanh niên của Phật giáo Việt-nam. Ðể rõ hơn về một đoàn thể từ lâu đã có những đóng góp âm thầm trong việc hình thành một cộng đồng Việt-nam, thiết nghĩ cũng cần lược qua tiến trình hình thành của Gia Ðình Phật Tử từ những ngày khởi đầu.

Bối cảnh lịch sử:
Vào những thập niên đầu thế kỷ 20, cùng với các phong trào vận động canh tân đất nước, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt nam cũng sôi nổi trên cả nước từ Bắc đến Nam. Các bậc chân tu, các nhà trí thức đều lưu tâm, tham gia chấn chỉnh lại niềm tin cùng phát huy tinh thần đạo Phật như một phương cách bảo tồn truyền thống văn hóa Việt nam. Trong bối cảnh lịch sử thời đó, việc năng cao dân trí, cũng như tìm về nguồn cội, bản sắc văn hóa dân tộc là điều cấp thiết. Ðạo Phật từng gắn bó với dân tộc suốt chiều dài lịch sử từ trước khi bị Tàu cai trị, cho đến những ngày khôi phục lại quyền tự chủ. Thịnh suy của đất nước cũng là thịnh suy của Phật giáo. Chấn hưng Phật giáo không chỉ là phục hồi một sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Mà cũng là công cuộc vận động tái tạo Con Người Việt Nam có truyền thống Từ hòa Nhân ái.

Giai đoạn hình thành:
Tái tạo Con Người Việt Nam không chỉ riêng những người lớn tuổi, mà kể cả lớp con cháu cũng được lưu tâm. Ðó là tương lai, là sinh mệnh đất nước. Vì vậy, từ cuối thập niên 1930, tại Huế và Hà nội, các em bé nhi đồng cũng đã cùng cha mẹ, ông bà đến chùa. Các em được đoàn ngũ hóa một cách đơn sơ thành những ban Ðồng Ấu Phật Giáo.

Việc đoàn ngũ hóa này hoàn toàn có tính cách tự phát. Tùy sáng kiến từng địa phương mà có các cách thức sinh hoạt khác nhau. Tại Hà-nội, quý Thượng Tọa và một số cư sĩ trong ban quản trị đã lập một đoàn gồm con em của hội viên Phật tử gọi là ban Ðồng Ấu để làm lễ dâng hương hoa trong các ngày đại lễ. Các em vừa sử dụng nhạc cụ dân tộc vừa hát các bài cổ truyền bằng lời ca mới do cụ Thiều Chửu (tức là cư sĩ Nguyễn Hữu Kha) soạn. Tuy nhiên, thông thường các em được hướng dẫn lễ Phật, nghe kinh và dâng hương hoa trong những ngày lễ lớn. “Ban đồng ấu, áo dài the xanh, đeo băng vàng ghi câu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng tôi vừa theo xe hoa vừa hát bài điệu Ðăng Ðàn Cung… vui mừng gặp ngày nay mồng tám tháng tư, là khánh tiết Phật Thích Ca Ngài, hiện về Ca Tỳ La Vệ…). Ðầu thập niên 1940, một số cư sĩ ở Huế tập hợp con cháu trong dòng tộc, thân thuộc sinh hoạt tại nhà riêng mang tính cách gia đình. Do đó có tên gọi là Gia Ðình Phật Hóa Phổ. Ðây là tiền thân của Gia Ðình Phật Tử ngày nay.

Giai đoạn kiện toàn:
Năm 1946, chiến tranh toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Mọi sinh hoạt tạm ngưng. Năm 1948, mọi người hồi cư. Cùng với các tổ chức Phật giáo trong vùng quốc gia, tại Hà-nội và Huế vài Gia đình Phật hoá Phổ đầu tiên phục hoạt. Các sinh hoạt vẫn chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương. Giai đoạn này, có các huynh trưởng gốc Hướng đạo (Trần Ðiền, ở Huế, Trần Trung Du ở Hà-nội) tham gia sinh hoạt. Gia đình Phật hóa Phổ vốn chưa có nền nếp, nên mô phỏng theo tổ chức Hướng đạo khá nhiều. Từ hình thức đồng phục đến phân chia chương trình huấn luyện. Nhất là kỹ thuật sinh hoạt, dường như rập khuôn Hướng đạo.

Giai đoạn phát triển:
Năm 1951 các tập đoàn Phật giáo Nam Trung Bắc thống nhất thành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Gia dình Phật hóa Phổ, một bộ phận của Tổng Hội, có danh xưng mới: Gia đình Phật tử. Năm 1954, đất nước chia đôi. Một phần Gia đình Phật tử Miền Bắc di cư vào Nam. Tiếng súng tạm ngưng nổ, dất nước tạm yên bình. Gia đình Phật tử phát triển mạnh mẽ. Nhất là từ năm 1964, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập. Ðầu thập niên 1970, toàn miền Nam có trên nửa triệu đoàn viên Gia đình Phật tử sinh hoạt thường xuyên. Việc hướng dẫn thanh, thiếu, đồng niên thành những Phật tử chân chính, không chỉ giới hạn trong khuôn viên nhà chùa mà còn tạo cho các em ý thức liên đới xã hội. Gia đình Phật tử hướng hoạt động của mình vào những công tác xã hội. cứu trợ. Trên khắp nước, người đồng phục Áo Lam, cờ Hoa Sen Trắng lăn mình vào làm công tác xã hội. Họ ước mong xoa dịu bớt thương đau của đồng bào đang phải gánh chịu trước cuộc chiến vô cùng tàn khốc.

Nổi trôi theo vận nước:
Biến cố 1975 ảnh hưởng nặng nề trên toàn thể người dân Việt nam Cộng hòa. Phật giáo cũng như Gia đình Phật tử không là ngoại lệ. Chế độ Việt nam Cộng hòa sụp đổ. Người dân hỗn loạn di tản ra khắp nơi hải ngoại. Ngay ngày đầu tiên trong các trại tạm cư trên đất Hoa Kỳ, Gia đình Phật tử đã kết hợp công tác giúp ổn định đời sống cho đồng bào. Cùng với những đợt người vượt biển tìm tự do, tại các trại tị nạn vùng Ðông và Nam AÙ, Gia đình Phật tử có mặt để tự giúp và giúp người đồng cảnh vượt khó.

Gia đình Phật tử Việt nam tại Hoa Kỳ:
Ðến năm 2000, có thể nói khắp năm châu nơi nào cũng có người Việt nam cư ngụ. Hoa kỳ là quốc gia đông người Việt nhất. Trên hơn 30 tiểu bang Hoa kỳ có chùa hay niệm phật đường.

Mùa hè năm 1976, tại hai miền cực Ðông và Tây Hoa kỳ đã có hai đơn vị Gia đình Phật tử tiên khởi tự phát. Gia đình Giác Hoàng do các trưởng: Phúc Thiện Ngũ Duy Thành và Thiện Thanh Ðặng Ðình Khiết (nguyên Tổng Thư Ký Ban Hướng Dẫn GÐPT miền Vĩnh Nghiêm) thành lập tại chùa Giác Hoàng Washington DC. Gia đình Cựu Kim Sơn do trưởng Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà thành lập tại chùa Từ Quang San Francisco. Tính đến mùa hè năm 2000, trên toàn quốc Hoa kỳ có trên 60 đơn vị Gia đình Phật tử sinh hoạt đều đặn mỗi cuối tuần. Trong số đó, hai đơn vị tiên khởi Giác Hoàng và Cựu Kim Sơn vẫn còn sinh hoạt mạnh mẽ. Sĩ số mỗi đơn vị thường thường có trên dưới 100 đoàn sinh và huynh trưởng. Một số đơn vị, sĩ số đó đạt đến 3 hay 4 trăm.

Trên quê hương mới, Gia đình Phật tử phải thích nghi với tập quán, văn hóa mới. Ðồng thời vẫn phải gìn giữ truyền thống của mình. Duy trì và phát huy tín tâm đối với đạo pháp là điều tất nhiên. Hợp lực với đồng hương, cộng đồng bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc là trách nhiệm mới của Gia đình Phật tử hải ngoại nói chung, Gia đình Phật tử Việt-nam tại Hoa kỳ nói riêng. Hướng dẫn đoàn sinh các nghi thức tụng niệm, các sinh hoạt tu tập là công việc quen thuộc. Nhưng hợp lực với đồng hương, cộng đồng bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc nơi xứ người là trách nhiệm mới và lạ đối với một đoàn thể quen khép kín sau cánh cổng chùa. Ngoài nhận thức, còn cần tinh thần dấn thân tích cực. Qua thời gian đầu bỡ ngỡ, Gia đình Phật tử quen dần và tổ chức các sinh hoạt thích hợp hội nhập xã hội mới.

Năm 1978, trại huấn luyện Huynh trưởng toàn quốc đầu tiên được tổ chức tại Oaklahoma. Trại quy tụ trại sinh từ nhiều tiểu bang về dự. Từ trại huấn luyện này, một ban Liên Lạc được thành lập để vận động thống nhất sinh hoạt Gia đình Phật tử tại Hoa kỳ. Năm 1983 Ðại hội Huynh trưởng đầu tiên diễn ra tại chùa Pháp Quang tiểu bang Texas mở đầu cho sự kết hợp sinh hoạt chung của Gia đình Phật tử Việt nam tại Hoa Kỳ.

Ra khỏi cổng chùa:
Về tinh thần đã được kết hợp. Về hình thức và phương cách sinh hoạt đã đồng nhất. Nhưng tuỳ theo điều kiện địa phương và vị Thầy trụ trì cố vấn giáo hạnh mà các đơn vị có lịch trình sinh hoạt khác nhau. Sống trong một đất nước năng động, thời gian tính bằng giây, Gia đình Phật tử cũng phải chuyển mình, thích nghi để tồn tại và phát triển. Họ tích cực tham dự vào mọi sinh hoạt của cộng đồng. Là một tổ chức lấy giáo dục làm phương châm nên dù không ồn ào, họ có mặt trong hầu hết các sinh hoạt văn hóa, xã hội, giáo dục và cả đấu tranh nữa của cộng đồng. Trước nhất là giữ gìn tiếng nói và chữ viết. Mỗi đơn vị Gia điụnh Phật tử cũng là một Trung tâm Việt ngữ. Hai sinh hoạt này song hành và tương tác nhau. Hàng ngàn thanh thiếu niên, nhi đồng khắp nơi được các anh chị Trưởng cũng là thầy giáo, cô giáo dạy hát, dạy nói, dạy chữ Việt mỗi cuối tuần.

Các em đoạt được nhiều phần thưởng cao của giải Khuyến Học tổ chức hàng năm cũng như các cuộc thi viết văn thơ dành cho tuổi trẻ. Tại Nam California, có trên 10 Trung tâm Việt ngữ của Gia đình Phật tử và sẽ còn gia tăng cùng với sự phát triển các đơn vị mới. Hầu hết Gia đình Phật tử đều có đội múa Lân, giúp vui trong các dịp lễ lạc của Phật giáo và các lễ hội công cộng do cộng đồng tổ chức như mừng Xuân, giỗ Quốc Tổ, tết Trung Thu & góp phần bảo tồn truyền thống văn hóa Việt. Gắn Hoa Hồng, một nghi thức không thể thiếu trong dịp lễ Vu Lan hay Lễ Hiếu. Nghi thức này do Gia đình Phật tử thực hiện và quảng bá thể hiện lòng hiếu kính đối với cha mẹ. Ðến nay Lễ hội Hoa Hồng Vu lan đã trở thành của đại chúng. Châm ngôn vui hát, vui học được tích cực ứng dụng. Vì vậy, các Gia đình Phật tử đều hướng dẫn các em sinh hoạt văn nghệ. Ðặc biệt hình thái văn nghệ dân tộc rất được chú trọng. Từ mấy chục năm nay, đoàn vũ của Gia đình Phật tử Long Hoa (chùa Việt nam Los Angeles California) dẫn đầu về thể loại vũ dân tộc. Từ những năm đầu thập niên 1990, trong khi bộ môn cải lương bị bỏ quên ngay cả tại quốc nội, Gia đình Phật tử Chánh Pháp (chùa Dược sư Orange County California) đã sáng tác, dàn dựng và công diễn tuồng cải lương. Các vở Phật Thành Ðạo, Quan Âm Diệu Thiện, Lưu Bình Dương Lễ rất được đồng hương và Phật tử tán thưởng đã được thâu băng vidéo phát hành rộng rãi khắp nơi. Chỉ vài năm trở lại đây, cải lương mới được nhắc nhở trong cộng đồng qua các cuộc thi hát Vọng cổ. Sau hai chục năm, một thế hệ huynh trưởng trẻ lớn lên và trưởng thành. Sự tham gia của lớp huynh trưởng trẻ này đã phần nào thay đổi bộ mặt sinh hoạt của Gia đình Phật tử. Họ sát cánh với các đoàn thể trẻ khác thực hiện các công tác xã hội. Ði bộ cho thuyền nhân Pallawan, Cứu trợ bão lụt miền Trung Việt nam và Trung Mỹ, Rửa xe gây quỹ tặng bữa ăn cho người vô gia cư, Xuống đường quyên góp cứu trợ thiên tai trong nước &. Ðây là những sinh hoạt hoàn toàn mới lạ với Gia đình Phật tử. Nhưng lòng nhiệt thành và tính cách năng nổ, tháo vát của tuổi trẻ giúp họ tích cực tham gia không chút bỡ ngỡ. Ý thức trách nhiệm của những người mang danh tị nạn, lòng luôn hướng về quê hương còn nhiều khổ đau, Gia đình Phật tử cũng có mặt trong những lần biểu dương sức mạnh Cộng Ðồng Người Việt như Diễn Hành Mừng Xuân, Vận động Bầu cử Hoa kỳ&. Ðặc biệt, vụ Trần Trường năm 1999, họ đã góp công không nhỏ để đạt được sự thành công hoàn toàn trong việc dẹp cờ cộng sản và hình Hồ Chí Minh trong tiệm Hi-Tech trên đường Bolsa.

Gia đình Phật tử là một phong trào tuổi trẻ mới thành lập trên 50 năm và 25 năm nơi hải ngoại. Tuy thành tựu khích lệ. Song thời gian quá ngắn để họ lớn lên vững vàng. Hướng tới, đường đi tuy rõ ràng. Mà kinh nghiệm, chắc chắn không đủ đáp ứng sự phát triển quá nhanh. Ðôi khi họ cũng bị chao đảo, phân vân. Nhưng may mắn, họ luôn luôn có Thầy bên cạnh nhắc nhở: Việt nam lên đường. Họ biết sống xứng đáng là người Việt-nam và phát huy tính cách của người con Phật. Mùa xuân này, lại thêm một dịp để họ chứng tỏ tấm lòng thiết tha với văn hóa dân tộc. Năm mới sắp về thêm thời gian cho họ kiên cố tình người hăng say phục vụ.

Nguồn: https://sentrangusa.com/2021/10/21/tam-hoa-ngo-manh-thu-2000-gia-dinh-phat-tu-viet-nam-tai-hoa-ky/

Kết luận:
Gần 200 năm trôi qua, Đạo Phật VN đang bị các thế lực chính trị thủ đoạn – đoanh vậy – thao túng, chính trị hóa Phật Giáo, phá vỡ tinh thần đại đoàn kết, đẩy lùi nhân bản, tự do dân chủ – tự do tín ngưỡng – tự do tôn giáo, chìm nghĩm giữa đêm đen, đánh rơi tinh thân giác ngộ – giải thoát. Trước nỗi đau thương nghiệt ngã kéo dài triền miên, ai sẽ là người tri thức, có tâm huyết với tiền đồ Phật Giáo – dân tộc, là ánh sao rực sáng giữa muôn sao lấp lánh – là ánh đuốc giữa đêm đen. Với tinh thần vô úy – vị tha – vô ngã, mạnh dạn nhận lãnh sứ mệnh truyền đăng, thắp sáng – đánh thức lương tri, làm cho Đạo Phật vươn mình trỗi dậy, tạo nên sức sống Đạo Phật kỳ vĩ, khỏi nhục bản hoài xuất thế cao thượng ! Trong phong trào chấn hưng Phật Giáo, nhiều Danh Tăng Thạc Đức, nhiều Thiện Sĩ Tri Thức đã có công đức lớn, dốc lòng phát triển – hộ đạo đi vào lịch sử Việt Nam bất diệt.

Vì phong trào chấn hưng Phật Giáo, Nhiều Cao Tăng Thạc Đức, nhiều Thiện Sĩ Tri Thức vô úy đứng lên, nhiều tổ chức Phật Giáo, nhiều trường giảng dạy Phật học, nhiều trại huấn luyện GĐPTVN, được liên tục tổ chức ở khắp ba miền, nhằm mục đích đào tạo nhiều Tăng – Ni, nhiều Huynh Trưởng tài ba, đóng góp nhiệt huyết cho phong trào – cho dân tộc Việt Nam.

Tất cả đều tập trung vì công cuộc chấn hưng Phật Giáo Việt Nam ./-

Sưu tập và biên soạn




CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC

CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC
– Phan Văn Huy Tâm –

Chánh niệm tỉnh giác – Satisampajanna, thuật ngữ nói đến nếp sống tỉnh thức an lạc. Thực tâp chánh niệm “quán thân trên thân – kàye kàyànupassanà”, tĩnh tâm – sáng suốt nhận thức tiến trình sinh hoạt thường nhật (làm việc – ăn uống – ngủ nghỉ) an trú chánh niệm ngộ nhập tri kiến.

Tu Phật là tu lấy cái tâm của mình, làm việc Phật là làm cái việc giải quyết cái thâm sâu – cái thăm thẳm khúc mắc của nội tâm. Với cái tâm lăng xăng – vọng niệm, với việc làm lòng vòng của thế tục để làm việc Phật – tìm trâu, thì nó cứ mãi trược dài, khó mà tìm thấy được dấu trâu – thấy được chân tâm.

Gia Đình Phật Tử là một dòng tu, các sinh hoạt: Hoạt động thanh niên – văn nghệ – thủ công – nữ công – gia chánh… là những phương tiện hóa thành chuyển hóa chúng sanh tham mê ngũ dục vượt thoát nhà lửa, bước vào tỉnh thức vươn đến cứu cánh “chánh niệm tỉnh giác”.

“… có các pháp, này các Tỳ kheo, làm trú xứ cho niệm giác chi. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời đây là món ăn khiến cho niệm giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay đối với niệm giác chi đã sanh khởi kiến cho được tu tập, làm cho viên mãn…” – Siddhãrtha Gautama-

Huynh trưởng GĐPT tinh tấn thực tập Tu – Học đạt đến giác ngộ – Giải thoát.
Tam độc, ba trạng thái tinh thần vô minh: Tham – Sân – Si.

  • a. Tham: Xuất phát từ ái dục, giác quan (sáu giác quan: mắt – tai – mũi – lưỡi – thân – ý) tiếp xúc với Lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) – Lục dục:

Lục dục, sáu sự ham muốn:

  • 1. Sắc dục: Thấy những màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng… Thấy sắc đẹp của nam – nữ… đem lòng ham muốn si mê.
  • 2. Hình mạo dục: Thấy hình tướng tốt đẹp – vẽ mặt khôi ngô… đem lòng ham muốn – đắm mê.
  • 3. Oai nghi tư thái dục: Thấy hình dạng đi – đứng – ngồi – nằm, những nụ cười – duyên dáng đoan trang – xinh đẹp… đem lòng ham muốn tham đắm.
  • 4. Ngữ ngôn âm thinh dục: Nghe lời nói dịu dàng – êm ái ngọt ngào sanh lòng thích thú, nghe câu ca tiếng hát thanh tao đem lòng ham mê đắm đuối.
  • 5. Tế hoạt dục: Va chạm làn da mịn màng trơn láng – trắng trẻo, đem lòng thích thú say mê.
  • 6. Nhơn tướng dục: Thấy tướng mạo xinh đẹp đáng vẽ yêu kiều đem lòng ham muốn đắm say.
  • b. Sân: Chạm vào tự ái làm cho không vui – không bằng lòng – bất toại nguyện – bất mãn – ác ý – thù hận – chống phá.
  • c. Si: Trạng thái ảo tưởng, mê mờ lầm lạc. Tâm si mê – mù quáng.

Qua trạng thái tiếp xúc sanh ra luyến ái ưa thích bám víu dính mắc “Khổ”. Dùng trí tuệ giản trạch – phân biệt, tỉnh táo sáng suốt, tâm cởi mở hỷ xả, đó là Biết Tu.
Người Huynh trưởng Phật tử cư sĩ tại gia quy y Tam Bảo: Thọ trì Năm giới –

Thập thiện giới – Bồ tát giới tại gia chưa biết dừng lại – mãi miết vọng tâm rong chơi điên đảo – thả lòng viễn vọng – tạo nghiệp bất thiện.

Biết sửa đổi những tật xấu bất thiện trở thành tốt đẹp thiện lành gọi là tu. Muốn giải khổ được vui – an lạc hạnh phúc – hoàn thiện nhân cách, người Huynh trưởng Phật tử cư sĩ tại gia phải biết tu – tu hoài – tu cả cuộc đời.

Phật hỏi các thầy Tỳ-kheo:

  • Nếu trong tịnh thất của các ông có ba con rắn độc chui vào, các ông có ngủ yên được không ? Các thầy thưa:
  • Bạch Thế Tôn, chúng con ngủ không yên. Phật hỏi:
  • Làm sao các ông ngủ mới yên ? Các thầy thưa:
  • Muốn ngủ yên chúng con phải đuổi ba con rắn độc ra khỏi tịnh thất.

Tu là chuyển hóa tam nghiệp “Thân – Khẩu – Ý” từ tiêu cực sang chiều hướng tích cực, từ chưa thiện lương sang toàn thiện. Tu là biết kềm chế những suy nghĩ – hành vi sai trái, thực hành đúng đắn chân lý – chánh pháp “Tam vô lậu học:

Giớí – Định – Tuệ”:

  • Giới là đạo đức – là phương cách sống đối nhân xử thế: Đối với ông bà – cha mẹ – đối với xã hội theo chuẩn mực đạo đức nhất định.
  • Định là làm chủ tâm ý vào chánh niệm, làm cho thân – tâm được thanh sạch.
  • Tuệ là tỏ sáng – là nhận thức đúng đắn – đúng chân lý.

“Thế giới ta bà dẫy đầy hầm hố – chông gai, đức Phật ấn chân xuống mặt đất – tịnh độ hiện ra. Tịnh độ là Thường Tịch Quang – là thế giới thiền định”‘Kinh Duy Ma Cật’.

Thiền – Tịnh song tu:

  • Tịnh độ: Chuyên tâm tụng kinh – niệm Phật – làm lành lánh dữ – gieo duyên tạo phước – trồng căn lành hồi hướng vãng sanh.
  • Thiền định: Thiền là phương tiện chuyển hóa tâm thức – là thực tập chú ý giảm căng thẳng – xua tan những mối bận tâm – không suy luận phân tích phán xét khoảnh khắc hiện tai. Thiền là trạng thái tâm ý tĩnh tại – chánh niệm tràn đầy năng lượng – nhận chân bản chất thực tại – kiểm soát hành vi – điều chỉnh thay đổi tích cực đời sống – nuôi dưỡng an lạc thực tại.

Thực tập Thiền định “Tứ Thiền”:

Sơ thiền:

Ngồi yên lặng tâm thư giãn buông xả – an trú vào hơi thở tự nhiên ‘số tức hoặc tùy tức’ – hoặc niệm một Phật hiệu. Thầm lặng không cố găng, nhưng không lơ đễnh – giãi đãi. Những trang thái hôn trầm thụy miên ‘buồn ngủ’ xảy ra, những cảm giác tinh tế: Nghứa ngáy – âm thanh – mùi vị – nóng lạnh – hờn giận – buồn phiền xuất hiện, tập trung vào hơi thở hay câu niệm Phật lập đi lập lại nhiều lần, chúng giảm dần và qua đi, đần dần an tịnh, tâm quân bình an trú nhất tâm ‘xả’.

Đây là nền tảng sơ thiền sắc giới ‘tầm – tứ – hỷ – lạc – nhất tâm’.

Đức Phật dạy: “Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo ly dục, ly bất thiện pháp… chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ, với hỷ lạc do ly dục sanh. Vị ấy thấm nhuần – tẩm ướt, làm cho sung mãn – tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh. Không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ kheo, như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, vị Tỷ kheo thấm nhuần – tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.”

Theo Thanh Tịnh Đạo Luận: “Ly dục” có nghĩa là thoát ly những đối tượng dục, là thân được viễn ly. “Ly bất thiện pháp” là từ bỏ những cấu uế của tâm thức tức là dục vọng, hoặc từ bỏ tất cả bất thiện pháp, tâm được viễn ly. Ly dục là từ bỏ khoái lạc giác quan, xa lìa ái dục’. “Ly bất thiện pháp là viễn ly khoái lạc – xa lìa ái dục cấu uế của tâm”. Ly dục là từ bỏ cái nhân của tham – ly bất thiện pháp là từ bỏ cái nhân của si. Ly dục là thanh tịnh thân nghiệp – ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp.

Trong sơ thiền, hành giả từ bỏ được năm triền cái ‘năm chướng ngại’: Tham dục – Sân hận – Hôn trầm– Trạo cử – Hoài nghi’:

  • Hôn trầm: Là mệt mỏi – buồn ngủ.
  • Trạo cử: Vi Diệu Pháp Tập Luận của Vô Trước định nghĩa: Trạo cử là trạng thái không yên ổn của tâm, là dẫn xuất của tham chấp – theo đuổi các đối tượng dễ chịu, tác động làm trở ngại thiền định.

Và thành tựu năm thiền chi: Tầm – Tứ – Hỷ – Lạc – Nhất tâm:

  • Tầm: “Tầm là tâm sở đánh thức tâm hướng đến đề mục thiền định. Giống như con bướm tìm thấy bông hoa – hăng hái bay về huớng có hoa. Nhưng nếu tâm cứ trầm trệ – giãi đãi – bỏ rơi đối tượng, giống như con bướm chưa tới được cành hoa đã lười biếng bỏ cuộc. Tức là tầm chưa đủ tinh cần nỗ lực để vượt qua trạng thái buông xuôi tiêu cực. Khi tầm không đủ lực hướng đến đối tượng thì bị hôn trầm – thụy miên chế ngự”.

Thụy miên: Gọi tắt là Miên tên của một tâm sở ‘1 trong 75 pháp của Câu xá, 1 trong 100 pháp của Duy thức’. Thụy miên là bản chất mờ tối sẵn có trong tâm, dưới trạng thái lười mệt – chểnh mảng.

Khi đang ngủ ‘thụy miên’ thì sự quan sát đối với thế giới bên ngoài mất hết tác dụng, tâm thức tối tăm – mơ hồ – vô ý thức.

  • Tứ: “Tứ là tâm sở giữ tâm vững chãi đề mục thiền định. Giống như con bướm đã bay đến đóa hoa liền tìm cách giữ thăng bằng để đậu lại trên hoa. Nhưng nếu tâm chưa dừng yên vào đối tượng còn lưỡng lự bất quyết, giống như con bướm đã đậu xuống đóa hoa mà vẫn chưa bám chắc lại hẳn nên còn chớp cánh chờ bay đi, tức là tứ chưa vững vàng dừng lại trên đề mục. Nhưng khi tứ đã vững thì không còn trạng thái phân vân do dự của Nghi”.
  • Hỷ: “Trạng thái xuất hiện cùng với sự đoạn trừ năm triền cái. Khi quán xét thấy năm triền cái đã được từ bỏ – trong thân hân hoan khởi lên, nhờ hân hoan hỷ được phát sanh. Khi đã có hỷ, thân trở nên khinh an. Như con bướm hứng thú thưởng thức mật hoa. Nếu tâm chưa phát sinh hỷ, còn căng thẳng hay cố gắng quá mức, giống như con bướm chưa vừa ý vì chưa hút được mật hoa. Khi tâm đã tìm thấy sự hoan hỷ thích thú vào đề mục thiền định thì Sân được chế ngự”.
  • Lạc: “Thế nào là lạc ? Sự sảng khoái về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, cảm giác sảng khoái và dễ chịu do tâm Xúc phát sanh, Trạng thái cảm thọ sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm Xúc gọi là lạc.

Là trạng thái tâm sở bình yên – an ổn vào đề mục thiền định, giống như con bướm đã hút mật đầy đủ, không còn lo lắng hay tìm kiếm lăng xăng, lạc chế ngự được Trạo hối: ‘hối hận việc đã làm – làm cho tâm không yên ổn’.

  • Nhất Tâm: Nhất tâm hướng đến toàn thiện, ngăn ngừa những ảnh hưởng bất thiện, đặc biệt là tham dục triền cái.

Khi các triền cái vắng mặt, nhất tâm tích tụ một sức mạnh đặc biệt trong thiền dựa trên nỗ lực tập trung được duy trì trước đó.

Mỗi thiền chi có chức năng và nhiệm vụ chế ngự và đoạn trừ mỗi triền cái: Tầm chế ngự đoạn trừ hôn trầm thụy miên – Tứ đoạn trừ nghi – Hỷ đoạn trừ sân – Lạc đoạn trừ trạo hối – Nhất tâm đoạn trừ tham dục.

Nói như thế không có nghĩa là mỗi thiền chi chỉ duy nhất đoạn trừ mỗi triền cái tương ứng. Ngoài chức năng và nhiệm vụ chính nó còn trợ duyên lẫn nhau đoạn trừ năm triền cái.

Kinh Mahāvedalla, thuộc Trung bộ 43 dạy:
“Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ kheo thành tựu Thiền thứ nhất, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thùy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm – tứ – hỷ – lạc – nhất tâm.”

Trong Sơ thiền, lìa bỏ được các ham muốn thế gian, niềm an vui nội tâm đầy đủ – thanh khiết. Toàn thân luôn ở trong trạng thái vui vẻ hỷ lạc nhè nhẹ và tràn đầy. Sự thành tựu công phu tạo nên kiến giải Phật Pháp hoạt bát dễ dàng đối đáp trôi chảy, say sưa diễn thuyết lưu loát. Sơ thiền rất vĩ đại nhưng ẩn chứa nhiều nguy cơ về mặt đạo đức. Đức Phật khuyến nhủ không nên an trú – đắm say trong tầng thiền này quá lâu.

Nhị thiền:
Kinh Sa-môn Quả – Samannaphala Sutta, đức Phật dạy về nhị thiền: Hỷ lạc do định sanh, tỷ kheo thấm nhuấn, tràn đầy không sót chỗ nào trên thân hình.

Hỷ và lạc là hai niềm vui tinh thần luôn đi đôi với nhau. Nhị thiền sử dụng tâm Hỷ làm nền phía sau, và Lạc làm nền phía trước. Trong thiền tâm từ thường nói “cần phải tự làm tràn đầy niềm vui từ đầu đến chân”. Nếu làm được như thế, sẽ dẫn lối vào các tầng thiền định.

Đức Phật đưa ra một ẩn dụ cho nhị thiền: Ví như một hồ nước dâng lên phương: Đông – Tây – Nam – Bắc, thỉnh thoảng lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước phun ra thấm nhuần – tắm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước – thấm nhuần mát lạnh . Cũng vậy, tỷ kheo thấm nhuần – tắm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định phát sanh. (Câu 78).

Tam Thiền:
Sau một khoảng thời gian cần phải buông bỏ hỷ lạc, dẫu cảm thấy nó thoải mái – dễ chịu thấm đẫm tự tại vô cùng. Hai tầng thiền đầu tiên cảm thấy xảy ra bên trên, với tầng thiền định thứ ba, cảm thấy tâm sâu lắng hơn.

Đức Phật đã dạy về tầng thiền thứ ba:
Lại nữa, tỷ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là “xả niệm lạc trú, chứng và an trú thiền thứ ba”.

Tính chất của tam thiền là ‘xả’. Trước tiên là ly hỷ lạc. Nếu không, khó thể tiếp tục hành thiền. Thực tập buông bỏ có chủ đích sau khi đã hoàn toàn thấm đẫm hỷ lạc. Xả ly niềm vui nội tại bằng cách không chú tâm đến nó nữa, nó tự biến mất.
Đức Phật đưa ra một ẩn dụ cho tam thiền:

Ví như trong hồ: sen xanh – sen hồng – sen trắng lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, từ đầu ngọn đến gốc rễ đều thấm nhuần tắm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh, không một chỗ nào của toàn thân thể mà không được thấm nhuần nước mát lạnh. Cũng vậy, tỷ kheo thấm nhuần – tắm ướt, làm cho sung mãn – tràn đầy thân mình với Lạc – Thọ không có Hỷ, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ thấm nhuần. (Câu 79).

Tứ thiền:
“Tỷ kheo, xả lạc – xả khổ – diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư không khổ – không lạc – xả niệm thanh tịnh”. -Kinh Sa Môn Quả – đoạn 81-

Đây là mức thiền cuối cùng và cao nhất trong bốn cấp độ để đạt được trạng thái “xả lạc – xả khổ – xả niệm thanh tịnh”

Muốn “xả lạc – xả khổ – xả niệm thanh tịnh” thì phải trú tâm vào một đối tượng duy nhất vào hơi thở dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ thân hành thì xả lạc – xả khổ – xả niệm thanh tịnh sẽ đạt được kết quả.

Lạc – khổ và thanh tịnh là ba trạng thái của thọ, tức là cảm thọ:

1. Thọ lạc.
2. Thọ khổ.
3. Thọ bất lạc bất khổ tức là niệm thanh tịnh.

Trong phần cảm thọ có hai:

1. Cảm thọ thuộc về thân.
2. Cảm thọ thuộc về tâm.

Lạc và khổ thuộc cảm thọ về thân, còn hỷ và niệm thanh tịnh thuộc cảm thọ về tâm. Như vậy ly hỷ – xả lạc – xả khổ và xả niệm thanh tịnh là xả cảm thọ về thân và tâm. Xả cảm thọ về thân và tâm là tịnh chỉ các hành trong thân và tâm. Cho nên người nhập Tứ Thiền toàn thân tâm bất động, thân tâm không còn rung động thì hơi thở tịnh chỉ.

Theo Đại thừa A-tỳ-đạt-ma Tạp tập luận 9 thì: Thiền định câu hữu với bốn chi là: Xả thanh tịnh – niệm thanh tịnh – bất khổ bất lạc thọ và tâm nhất tánh cảnh. Thiền định lìa thoát trạng thái diệu lạc của tam thiền, cho nên gọi là “Xả thanh tịnh”, có thể tu dưỡng công đức nên gọi là “Niệm thanh tịnh” nên trụ vào cảm thọ không khổ không vui. Định có khả năng đối trị được năm loại: Hơi thở ra vào – tham – lạc – tác ý lạc – định hạ liệt tánh của đệ tam thiền định, làm chướng nạn cho việc tu tập.

Tứ thiền nhiếp thu: Tầm – tứ – hỷ – lạc, các chi Tịnh lự. Theo Tạp A-hàm 17 (Đ. 2, tr. 121b) thì thứ tự: Vào chánh thọ Sơ thiền là đình chỉ ngôn ngữ – Vào chánh thọ nhị thiền thì đình chỉ giác quán (tầm, tứ) – Vào chánh thọ tam thiền thì đình chỉ tâm hỷ – Vào chánh thọ tứ thiền thì đình chỉ hơi thở ra vào.

Thiền là một thuật ngữ dùng để chỉ những phương pháp thực tập khác nhau, nhưng với một mục đích duy nhất là: Đạt đến kinh nghiệm “Tỉnh giác” – “Giải thoát” – “Giác ngộ”.

Thiền là một hoạt động thực hành mà người hành thiền sử dụng một kỹ thuật như: Giác sát hoặc tập trung tâm trí vào một đối tượng, suy nghĩ hoặc hoạt động cụ thể để rèn luyện sự chú ý và nhận thức, đồng thời đạt được trạng thái tinh thần minh mẫn và cảm xúc bình tĩnh và ổn địn, đạt đến tâm thức an tĩnh.

Thiền làm giảm căng thẳng – lo lắng – trầm cảm và đau đớn, và tăng cường sự bình an – nhận thức – quan niệm về bản thân và hạnh phúc thực tại hướng thượng ./-

Houston, 0:00h, 08082024.




CON NGỰA HOANG TRONG ĐẦM LẦY

CON NGỰA HOANG TRONG ĐẦM LẦY

Ở ngóc ngách thâm sâu nào đó nơi đáy tận cùng xã hội vẫn còn đây vẫn tồn tại thế giới ngầm đen tối được dựng xây bởi thế lực tạo nên đào luyện nhuộm đen loài ngạ quỉ ăn đêm đa mưu quỉ kế hóa thân thành nàng hoa hương sắc sáo trúc ngâm ca đàn múa quay cuồng tâm hồn dối gian não loạn gầm gừ cám dỗ cơn mê tóm thân thế lực phó mặc đoanh vây phá rối ngầm gậm nhấm bào mòn rút tỉa dần hồi sức sống thương tổn thịt da chuyển hướng thành thui chột mãi ngây hoan tanh tửi đầm lầy hoang dại mơ hồ khờ khạo ảo tưởng hoa

Có còn đâu đồng cỏ non xanh ngát lưng trời ánh sáng ban mai không còn rồi tắt ngắm vết hằn trên lưng oằn nặng bầy ngựa hoang lạc lõng cơn giông âm thầm ngầy ngụa bóng tối đen ngòm mông muội hoang sơ Ôi ! một thời quang huy làm nên sức sống trên thế giới huy hoàng mở hội đoàn viên để bây giờ biến động triền miên uất nghẹn bởi bời một phút sơ tâm hời hợt mềm lòng tạo nên kẻ hở cho bàn tay thô bạo nham nhúa thò vào làm tan tác mỗi phương trời dậy sóng tình cảm khói hương truyền thống bổng chốc nhạc phai xa mặt cách lòng

Ôi ! đau đớn thay xót xa biết bao công đức chư lịch đại tổ sư những tiền nhân đi trước nằm gai nếm mật cân nảo dựng xây tâm huyết bổng chốc tàn phai bởi thế hệ kỷ nguyên đen Cả thế giới ba ngàn đổ mồ hôi sôi nước mắt thấm đẫm máu xương lương tri nhút nhối thôi rồi một thời vàng son còn đâu nữa biết bao người ra đi và nằm xuống bèo dạt mây trôi lễnh đênh cùng vận nước để mà tiếc nuối hoài thương mộng vỡ tan rồi !…

Houston, 16072024




CẢM NIỆM

CẢM NIỆM
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Hôm nay, ngày 22 tháng 05 năm Giáp Ngọ, thay mặt BHD và toàn thể lam viên Bình Thuận, đang hướng vọng về – tề tựu trước linh đường, tâm thành hướng lòng về anh, người Huynh trưởng Cấp Dũng GĐPTVN, nguyên Phó trưởng BHD Bình Thuận.

Anh Bổn Đồng PHẠM LỢI thương kính!

“Xuân Hạ Thu Đông bốn mùa luân chuyển
“Kiếp nhân sinh hiển hiện một thân người
“Thuyền ngược xuôi qua biển khổ đầy vơi
“Nương bến giác rời xa khổ ải”

77 năm mang thân phận phù hư, anh đã sớm giác ngộ hồng trần là huyển mộng. anh mạnh dạn dấn thân vào nẻo đạo. 54 năm liên tục sinh hoạt GĐPTVN, hy hiến cả cuộc đời, kề vai cùng BHD Bình Thuận gánh vát sứ mệnh nhà lam. Có những năm tháng dầu sôi lửa bỏng, đã nuôi dưỡng – tôi luyện ý chí kiên trung, giữ vững khí tiết cao cả, bất chấp nguy nan, anh tĩnh tại vô úy để thành toàn đạo nghiệp.

Những năm cuối đời, dù thân lâm trọng bệnh, anh vẫn thao thức miệt mài lo toan cho tổ chức – vì tiền đồ áo lam, anh đã góp phần công đức to lớn trong sự nghiệp giữ vững – duy trì và phát triển nền văn hóa giáo dục xã kỷ – vị tha – GĐPT tại địa phương. Anh đã hy hiến trọn đời phụng sự cho đạo pháp – cho dân tộc và cho lý tưởng GĐPTVN.

Dù thân tứ đại đã hết duyên, dù giữa dòng đời thuận nghịch bôn ba, anh nhẹ nhàng thong dong trả về cho giả hợp. Nhưng đại nguyện của anh vẫn còn đây, được tiếp nối qua biết bao kỳ trại huấn luyện, biết bao lễ truyền đăng, thế hệ đàn em hôm nay, tiếp tục hoài bảo, thắp sáng ánh đuốc vô tận đăng truyền thừa mai hậu.

“Trang sử Việt sáng bừng thêm sức sống
“Đòng sử lam lan tỏa mãi truyền ghi”

Cuộc đời của anh Bổn Đồng PHẠM LỢI là vầng nhật nguyệt tinh khôi, hạnh nguyện của anh luôn luôn là dấu ấn khắc ghi tồn tại mãi mãi trong mỗi trái tim lam thổn thức, là niềm tự hào – là bài học lung linh sáng ngời cho toàn thể lam viên Bình Thuận noi dấu thực tập – tu học.

“Đài liên quyện tỏa khói trầm hương
“Bát nhã trăng soi sáng dặm trường”

Trước hương đàn linh nghiêm, BHD và toàn thể lam viên Bình Thuận, thành kính thắp nén hương lòng, cầu nguyện Tam Bảo phóng quang tiếp độ, chơn linh Huynh trưởng Cấp Dũng GĐPTVN Bổn Đồng PHẠM LỢI, nhẹ nhàng siêu thoát, an trú vững chãi trong lý tưởng giác ngộ.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật




BỒ TÁT HẠNH Ý NHỊ UYÊN THÂM

BỒ TÁT HẠNH Ý NHỊ UYÊN THÂM

Đạo đức dân tộc tha hóa – hỗn loạn, Phật Giáo Việt Nam suy thoái – tan tác, Gia Đình Phật Tử Việt Nam đang từng bước bị bức hại. Người Huynh trưởng GĐPTVN có tâm huyết với tiền đồ tổ chức – đạo pháp – dân tộc, xót xa đau đớn đến vô cùng!

Đứng trước bối cảnh lịch sử thương đau, trên hành trình thực tập Bồ tát hạnh ý nhị uyên thâm, nối tiếp chí nguyện truyền đăng mà Chư Tôn Đức Cố Vấn và các anh – chị trưởng bối đi trước truyền trao. Ý thức sứ mệnh thiêng liêng, phát đại nguyện thị hiện dấn thân, vững bước nhập thế đem đạo vào đời, góp phần tích cực hướng dẫn tuổi trẻ – Đoàn sinh GĐPTVN, phát khởi tín tâm, hướng tới thiện hóa cuộc sống. Từ tục đế, Huynh trưởng GĐPT tu học tư tưởng đại thừa Duymacật. Bằng trí tuệ siêu việt và nghị lực tự thân vững chãi, vân dụng bất tư nghì giải thoát, đạt đến vô thượng bồ đề – hoa khai bát nhã – nhất chân phi sắc phi không, nhập thế chuyển hóa xã hội, kiến lập trường tồn cảnh giới tòng lâm GĐPTVN – tịnh độ Phật quốc ngay tại uế độ ta bà này

Tư tưởng Duymacật được hình thành trên tinh thần Bát nhã – tánh không, bàng bạc lý diệu hữu Hoa nghiêm. Hiện tượng có chi phối bởi quy luật vô thường, nhưng chân như vẫn vĩnh hằng tồn tại – bất biến

“Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
“Đêm qua sân trước một nhành mai”
– Mãn Giác thiền sư –

Mặc dù mùa Xuân đã đi qua, hoa kia có rụng hết. Nhưng có ngờ đâu, còn có một nhành mai!

Chúng ta may mắn thay! diễm phúc còn có sự hiện diện hi hữu của một thực thể trẻ trung, đó là Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Đang nhận sứ mệnh thiêng liêng, làm công tác thuần túy văn hóa – giáo dục – đạo đức tâm linh. Được các anh các chị trưởng bối đi trước dày công truyền thừa, qui tụ nhiều thế hệ Huynh trưởng Phật tử, ắp đầy nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến – hi sinh bảo tồn – duy trì mạng mạch Như Lai

Đứng trước phong ba bảo táp, thốc vào cuộc sống cuồng loạn, làm xáo trộn thuần phong – đạo đức, nếp sống dịu hiền – trầm tĩnh vốn có của dân tộc Việt Nam. Thế hệ hôm nay phải biết quay về, tìm lại cội nguồn truyền thống tâm linh, tinh thần văn hóa của Tổ tiên xưa, mà hãnh diện, mà xót xa trân quí !

Nếp sống trãi nghiệm tốt đẹp của bao lớp tiền nhân, kinh qua biết bao thời đại, các thiền sư – thiện sĩ tri thức. Phật giáo Việt Nam luôn luôn xả kỉ – vị tha, kề vai gánh vác nguy nan, cởi lên trên đầu sóng ngọn gió, hi sinh xả thân vì đại nghĩa, cứu nguy đất nước – đạo pháp trong dầu sôi lửa bỏng, đưa dân tộc thoát khỏi ách xiềng gông – nô lệ bị trị, đem yên vui – thanh bình cho thế hệ con cháu mai sau

Đứng trước làn sóng cuồng loạn của nền văn minh khoa học, đang khủng bố tinh thần nhân loại, đẩy con người chênh vênh bên hầm lửa tự hủy diệt. Phập phòng âu lo, không biết rồi đây, lò lửa to lớn ấy sẽ bùng nổ, phủ trùm – hủy diệt cả thế giới này thành tro bụi

Hãi sợ trước sự tàn phá kinh khủng, sẽ xảy ra bất cứ lúc nào. Các nhà khoa học đang ráo riết tìm kiếm phương cách lấp liếm, vá lại những sai lầm đã bị rách nát tồi tệ…

Bất lực trước tinh thần đạo đức xuống cấp trầm trọng, nhân loại có nguy cơ đi dần đến thoái hóa diệt vong. Đa số những nhà tri thức phương Tây, đang thiết tha nhìn về phương Đông, kì vọng ở đây có một ánh sáng mới, làm chỗ dựa tinh thần, có căn bản đạo đức kì vĩ, đủ năng lực huyền nhiệm chuyển hóa – tạo nên một nền tảng mới mẻ về cuộc sống cao đẹp hơn, có í thức cộng động hơn. Con người sống mà “biết sống” cho mình và sống cho mọi người, thì chắc chắn con người ấy, sẽ tìm ra một “ý nghĩa sống” trọn vẹn, biết trân trọng – yêu quí cuộc sống vị tha

“Phụng sự chúng sinh, là thiết thực cúng dường chư Phật”

“Hoàn thành nhân cách đạo đức, tức là Phật Đà”.

Văn hóa Phật giáo há không phải là một cuộc dấn thân, tạo nên một nền tảng khai phóng, giáo dục đạo đức kì vĩ – tuyệt bích ! Những đóa hoa Ưu Đàm rực rỡ tươi đẹp của các thiền sư – thiện sĩ thời Lý – Trần, đem lại cho dân tộc những hạt châu long lanh, đã được cọ xát giữa dòng đời, tạo nên một dòng sống, một nguồn văn hóa đạo đức tỏa sáng hào quang rực rỡ, từ nguồn tinh hoa này, đã định hướng cho toàn thế giới. Nhân loại được diễm phúc tắm mình trong nguồn Phật chất vô biên, sẽ được an lạc hoàn toàn, nhân gian này sẽ trở thành tịnh độ vĩnh cữu

Phan Chu Trinh rất tin tưởng ở sự đóng góp tích cực to lớn của Phật giáo cho nước nhà: “Nước Đại Nam chúng ta, ngày nay sở dĩ yếu hèn, là vì thiếu tinh thần tôn giáo. Tôn giáo luôn cho ta đức hy sinh, coi nhẹ tính mạng, phá sản vì đạo. Không có tinh thần tôn giáo, chúng ta không biết cương cường, xả thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ cái lối sống của mình. Nay bà con thử xét, đời Trần, sao dân tộc ta hùng dũng như vậy, chẳng phải là nhờ đạo Phật ở ta, thời đó rất thịnh ư ? Nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư ?”

han Khôi không phải là Phật tử, nhưng ông đã đồng tình: “Vào thuở nhà Lý, nhà Trần, đạo Phật tràn ngập cả nước, chùa chiền khắp nơi, thầy tu làm dân tráng. Nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược như hồi Lê trung hưng hay Nguyễn thống nhất, là thời Nho học thịnh hành. Trái lại, nhà Lý – nhà Trần mạnh lắm, dân khí còn hăng lắm, mấy phen giặc Tàu sang, chúng ta đuổi như đuổi vịt. Lịch sử là cái chứng minh lắm, không ai cải được. Nó đã làm bằng chứng cho Phật giáo. Không phải là một thứ như thuốc phiện, làm mòn yếu con người” ./-




HỒI KÝ CUỐN THEO CHIỀU GIÓ – MENU




LỜI VÀO ĐẦU

“ I have forgot much, Cynara! gone with the wind,
“ Flung roses, roses riotously with the throng,
“ Dancing, to put thy pale, lost lilies out of mind…”

– Non Sum Qualis Eram Bonae sub Regno Cynarae – Thơ của Ernest Dowson: –

‘ Tôi đã quên nhiều rồi, Cynara! cuốn theo chiều gió,

‘ Tung hoa hồng, hoa hồng náo loạn giữa lòng đời,

‘ Khiêu vũ, để quên đi những bông hoa loa kèn lạc lối, nhợt nhạt trong đời em…’

Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

Tôi rất yêu thích viết văn – làm thơ – viết hồi ký. Tiếc rằng những bài văn – bài thơ trước đây đã bị lưu lạc theo chiến tranh. Sau 1975, trở về lại quê nhà, nghiệp tầm nhã tơ – tôi lại tiếp tục viết. Vì tính chất công việc và sinh kế phải di dời đi nhiều nơi, tôi rất trân quý cất giữ cẩn thận, nhưng không hiểu vì lý do nào đó mà nó lại thất lạc thêm một lần nữa, làm cho tôi tiếc nuối đến vô cùng. Những sáng tác về các thể loại văn – thơ – hồi ký trong thời gian qua, đến giờ phút này lên đến hàng trăm tác phẩm. Có lẽ đây là nghiệp dĩ – nợ văn chương, nếu sức khỏe còn dài – hơi thở chưa mỏn tôi vẫn tiếp tục chấp bút…

Tâm niệm của chúng tôi là sống thật thà, không quanh co – dấu diếm – tránh né. Không ưa bất công – yêu chuộng tự do – có đời sống tĩnh tại. Những bài viết hầu hết đều mang tính tả chân – lột trần như thật, hướng đến làm mới cách nhìn – cách làm việc. Có lẽ ít nhiều cũng làm chạm lòng những ai đó có tâm sự – ganh tị – hơn thua hèn mọn, nếu có chạnh lòng, thì mong rằng xem đây là phản quang tự kỷ, giúp chúng ta mạnh dạn nhìn lại – cùng nhau chuyển hóa – hướng đến hoàn thiện. Và có những bài viết mang tính lịch sử, mạnh dạn ghi lại những biến cố như thật – theo đúng lương tri của người cầm viết – của nhà viết sử, góp phần giúp cho thế hệ mại sau nhận chân được những bước đi đúng – sai của cha ông. Nếu có làm cho ai đó thiên tả phật lòng – chê trách – không vừa ý, thôi thì xin hãy chờ đó, cái gì rồi cũng có giá trị nhân – quả, thời gian rồi lịch sử sẽ trả lời !

Tại những kỳ đại hội GĐPTVN trên thế giới, quý anh chị áo lam từ các châu lục – quốc gia hội tụ về đông đảo, chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Đêm về cùng ngồi quay quần bên nhau – sách tấn nhau. Anh Tâm Đăng – Nguyễn Pháp (Trưởng BHD GĐPTVN tại hải ngoại lúc bấy giờ) và quý anh chị tình cảm tâm sự: Huy Tâm là nhà văn mà cũng là nhà thơ. Chúng tôi rất thích những bài viết của HT, rất hay – có ý nghĩa – có giá trị. Mỗi lần đọc thấy những bài văn hay bài thơ nào của HT là chúng tôi đều lưu giữ lại.

Nghe được những lời tâm sự chân tình này, đã làm cho chúng tôi bồi hồi xúc động, đây là niềm khích lệ lớn lao, giúp cho ngòi bút tôi thêm mạnh dạn – cố gắng tiếp tục chảy mực, hy vọng có thêm nhiều nét văn hoa, dệt nên nhiều tấm lụa vàng óng ả để lại cho đời – để không phụ lòng quý anh chị thương kính – bạn bè bốn phương mến yêu. Chân thành cám ơn rất nhiều !

Và chúng tôi cũng được Chư Tôn Đức Tăng – Ni, nguyên là Huynh trưởng – Đoàn sinh GĐPT cho biết, quý Ngài cũng đã đọc và lưu lại làm tư liệu những tác phẩm của Huy Tâm.

Xin phép ghi lại nguyên văn lời Thầy Giải Ngộ nhắn nhủ:

“Thưa anh Phan Văn Huy Tâm ! Thầy đã kịp thời đọc được những bài viết của anh, hiểu được tâm sự của anh trước tình hình tổ chức và đạo pháp. Thầy chưa kịp có í kiến mà bài viết đã vội gỡ xuống. Thầy biết anh đang bị áp lực đâu đó, đáng tiếc thật !

“Nhớ một thời chư tôn đức trưởng lão đã dạy: “Thành phần tri thức trong Phật Giáo thì không nhiều, chỉ bàn bạc ít ỏi trong các vì sao, nhưng nó sáng chói long lanh như ánh sao mai rực rỡ, nhưng chỉ xuất hiện trong thoáng chốc rồi mất hẵn” tại sao ???

“Dưới ngòi bút của anh, sắc bén: “Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà…” Anh dám nghĩ, dám nói và dám viết. Một cây viết hiếm hoi ít thấy xuất hiện trên các diễn đàn trước quốc phá gia vong, đạo (tổ chức) nhược ma cường.

“Ước gì phải có những nhà lãnh đạo tài tình, không sợ hiểm nguy ít ra như vậy, may ra tổ chức, đạo pháp sớm vén màn tăm tối, đổi mới, khơi sắc …

Nghe biết được những lời tâm sự chân tình này, làm cho chúng tôi bồi hồi xúc động, đây là niềm khích lệ lớn lao, giúp cho ngòi bút chúng tôi thêm mạnh dạn – cố gắng tiếp tục chảy mực, hy vọng có thêm nhiều nét văn hoa, dệt nên nhiều tấm lụa vàng óng ả để lại cho đời – để không phụ lòng Chư Tôn Đức Tăng – Ni và quý anh chị thương kính – bạn bè bốn phương mến yêu. Xin chân thành cám ơn sự ưu ái quan tâm của chư vị rất nhiều !

Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

“Một trong những bi kịch lớn nhất của bản chất con người mà tôi biết là: tất cả chúng ta có khuynh hướng hoãn sống. Chúng ta thường mơ về những vườn hoa hồng huyền diệu xa xăm ở cuối chân trời mà không biết thưởng thức những đóa hồng đang nở rộ hôm nay ngay bên ngoài cửa sổ” -Dale Carnegie-

Nhận chân cuộc sống không phải tài sản vật chất giả tạm, mà là những khoảnh khắc sống – những trải nghiệm – những ký ức dòng đời như thật.

Trân trọng những lẽ sống giản dị, những niềm vui trải qua. Xin mượn bàn phím ghi lại tài khoản – những khoảnh khắc sống đong đầy ý nghĩa !

Hồi ký Cuốn Theo Chiều Gió, viết để nhớ – để lưu lại từng dòng chảy quanh đời !

Dẫu biết rằng “Đạo bổn vốn vô ngôn – Thế gian là huyển mộng”. Không phải viết để xưng tán cá nhân. Nhưng xin mượn ngòi bút diễn đạt lưu lại những dư âm ấn tượng dòng chảy quanh đời.

Nhưng dòng đời vốn thuận thì ít mà nghịch ý thì nhiều, nếu có những thiển ý sơ sót làm phiền lòng.

Kính xin chư thiện hữu tri thức bốn phương niệm tình hỷ xả!

Lam Nhã Thảo Am. Viết xong nửa khuya, 20 tháng 8 năm 2023.

                                                                                                            CẨN BÚT !




DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

DÒNG CHẢY QUANH ĐỜI

Đời là một dòng chảy, có không – còn mất – sinh diệt đến vô cùng.

Bàu Thiêu (thuộc quận Hòa Đa – Tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ), đây là địa danh của một mật khu thời kháng chiến chống Pháp, nằm sâu trong rừng thẳm, tựa mình bên dãy Trường Sơn. Vào lúc nửa đêm, không giờ, ngày 25 tháng 5 năm 1950, giữa những tiếng gầm hống của chúa sơn lâm, tôi cất tiếng tu oa báo tin vào đời.

“Thảo nào khi mới chôn nhau
“Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”
– Ôn Như Hầu –

Tiếng khóc báo hiệu bước đi đầu tiên của một sinh linh bé nhỏ vào dòng sống khổ.

“Vừa sinh ra thì đà khóc chóe
“Trần có vui sao chẳng cười khì ?”

Sự ra đời của một sinh linh mơn mởn nhỏ bé làm chan chứa biết bao niềm hạnh phúc vỡ òa ngọt ngào của cha mẹ. Ngoài những giờ quy định sì sụp bên vú mẹ, tôi được các chú bộ đội chuyền tay nhau từ trại này qua trại khác. Tôi bụ bẫm – trắng hồng mơn mởn – xinh xắn – đễ thương được các chú gọi cưng bằng biệt danh “bé cục bột”.

“Nghĩ thân phù thế mà đau
“Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”
– Ôn Như Hầu –

Dòng đời tôi lớn lên ngụp lặn trãi dài trong biển khổ, hết chiến tranh Pháp – Nhật rồi nối tiếp nội chiến ý thức hệ – nồi da xáo thịt đau đớn đến tột cùng. Và cứ mãi miết như thế, kiếp nhân sinh ngụp lăn triền miên trong biển trần ai, thay đổi liên tục từ hiện tượng bên ngoài đến trải nghiệm suy tư Tứ thánh đế tìm ra ý nghĩa phong cách sống bên trong, nó liên kết tác động lên nhau cấu thành một hành trình đi tìm hướng sống vươn lên, tạo nên động lực lý giải bốn chơn lý giải thoát ra khỏi bản chất “khổ” nghiệp quả luân hồi.

“Bể khổ mênh mông sóng ngập trời
“Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi !
“Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
“Ngoảnh lại cùng trong biển khổ thôi !”
– Đoàn Như Khuê –

“Tạc nhật xoa tâm,
“Kim triêu Bồ tát diện.
“Bồ tát dữ Dạ xoa,
“Bất cách nhất điểu tuyển.”
‘Hôm qua lòng Dạ xoa,
‘Sáng nay mặt Bồ tát.
‘Bồ tát và Dạ xoa,
‘Chẳng cách một kẻ tóc.’
– Tục Truyền Đăng, quyển 31 –

Dạ xoa hay Bồ tát, hung ác hay từ bi cũng từ tâm mà hiển hiện. Không vọng tưởng tìm kiếm lang thang, thức tỉnh “hồi đầu bỉ ngạn”, quay trở về với bản tâm thanh tịnh chính mình, là bến bờ nương tựa, không phải hổ thẹn mai sau.

“Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
“Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
“Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
“Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thinh.
“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
“Nhật viễn gia hương vạn lý trình.”
‘Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
‘Liền trái không sanh nhận có sanh.
‘Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
‘Mắt mờ chúng sắc, tai đuổi thinh,
‘Lang thang làm khách phong trần mãi,
‘Ngày cách quê hương muôn dặm trình.’
– Trần Thái Tông –

Đang sống trong vô niệm, vọng tâm khởi niệm vô minh, liền rơi vào hữu niệm, rơi vào sanh tử, mê mãi buông mất bản tâm, lang thang trong sáu trần, xa rời “thể vô sanh” đáng thương cho chính mình.

“Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh,
“Thú hướng chân như tổng thị tà.
“Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
“Niết bàn sanh tử đẳng không hoa.”
‘Phá trừ phiền não càng thêm bệnh,
‘Tìm đến chân như cũng là tà.
‘Tùy thuận các duyên không quái ngại,
‘Niết bàn sanh tử thảy không hoa.’
– Tú tài Trương Chuyết –

Còn thấy có phiền não – có đến chân như, tức là là còn nhị nguyên – là tâm chưa bất nhị “không hai”, là chưa thấy được đạo “chân tâm” “thấy tánh”.

“Các ông phải chân thật trong mọi việc, không có gì chân thật trong đời mà không chân thật trong Phật pháp, và không có gì không chân thật trong Phật pháp, lại chân thật trong đời.”
– Thiền sư Thiên Quế –




KÝ ỨC TUỔI THƠ

KÝ ỨC TUỔI THƠ

“Cha là vầng thái dương bạch ngọc
“Ngọn Thái sơn sừng sửng hướng con đi
“Tình yêu cha cao qúi tựa thân cây
“Tỏa bóng mát cho đời con khôn lớn

Nhớ về Ba, là nhớ về những năm tháng êm đềm dưới mái gia đình ấm cúng, thuộc thị trấn Lương Sơn – Bắc Bình – Bình Thuận. Nhà chúng tôi nằm nép mình dưới tán lá cây sung, vươn cành dài ra dòng sông quanh năm lặng lờ mãi miết về xuôi. Trong đôi mắt tuổi thơ, cây sung thật vĩ đại, làm cho trí tưởng tượng của chúng tôi nhân cách hóa – xem nó như là một con tàu giữa trùng dương dậy sóng, cho chúng tôi nhiều trò chơi kỳ thú bên dòng sông xanh ngát. Có lần chúng tôi, năm – sáu đứa, nối vòng tay nhau, mà chưa giáp nỗi bụng cây sung.

Bên kia sông là cồn cát trắng phau, chảy dài bên hông làng Mã Lăng. Tôi nghe người lớn tuổi kể lại câu chuyện truyền miệng: Ngôi làng này một thời là thành lũy Chăm Pa (Chiêm Thành), họ thường đưa ngựa ra tắm sông, sau khi tắm xong, ngựa lên bãi cát lăn mình khô ráo, cho nên làng có tên là Mã Lăng. Trước đây, hầu hết là dân tứ xứ, theo ghe Bầu vào cửa biển Phan Rí, ngược dòng sông Lũy, có lẽ thấy ở đây đất đai trù phú, họ dừng chân lại, tập hợp nhau sinh sống hình thành nên làng xã. Khi chiến tranh nổ ra, đường quốc lộ 1 được mở thông thương từ Nam ra Bắc, người Pháp lập đồn, đưa dân tập trung về bên này.

Làng thì di dời sang bên này (thị trấn Lương Sơn – quận Hòa Đa – tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ), lập ấp chiến lược, đào hầm – đặt chông quanh làng. Nhưng trường học thì ở bên kia sông – làng Mã Lăng. Tất cả học sinh hằng ngày phải lội sông sang bên ấy học. Đường đến trường có hai ngã, một ngã đi bên hông nghĩa địa, gần hơn. Còn một ngã thì đi qua xóm nhỏ, nhưng xa hơn. Có những lúc chúng tôi rủ nhau đi qua hướng có nghĩa địa, thì các bạn đi bên hướng vào xóm nhỏ hát to lên:

“Tôi đi bên này có bông có hoa
Ai đi bến đó có ma chận đường”

Thế là chúng tôi hét vang, ùa nhau chạy về bên này, hướng vào xóm nhỏ.

Hai bên đường đi, cây bồn bồn chen chúc mọc đầy, tới mùa trổ hoa, chúng tôi hái từng nụ hoa – xâu chỉ kết thành vòng, đặt lên đầu – choàng vào cổ – hoặc đeo vào tay cho nhau, nhất là tặng cho các bạn gái, ai nấy đều cười vui thích thú.

Gia đình Nội tôi thuộc loại khá giả nhất nhì trong làng, làng có câu thơ diễn tả 4 dòng Họ khá giả nổi bật nhất làng:

“Nhất Trần, nhì Phan, tam Hoàng, tứ Nguyễn”

Họ Trần là Họ bên Dượng, chồng của Cô Hai, Cô là chị của Ba chúng tôi. Làng chúng tôi, thời chiến tranh, tranh tối – tranh sáng, ban ngày là Quốc gia, ban đêm thì Việt cộng. Lúc bấy giờ Dượng được bên kia cử làm Chủ tịch xã. Cô có 3 người con, 2 người thì thoát ly vào chiến khu, tham gia kháng chiến, 1 anh thì bị tử trận, dưới nồng pháo của chiến hạm từ ngoài biển bắn vào. 1 anh, sau 1975 tham gia công tác tại huyện. Anh quan hệ với chị Dung, chị là con của nguyên là trung tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa, sau khi hồi hưu, ông xuống tóc, cải gia vi tự, tu Phật. Sau thời gian vận động không được, anh bị khai trừ ra khỏi Đảng, cho thôi việc, về lập gia định với chị. Còn anh thứ 3, đến tuổi quân dịch, nhập ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, tử trận tại cao nguyên.

Họ Phan, là Họ của chúng tôi. Có những lần qua làng, chúng tôi rủ nhau đến thăm lại khu vườn xưa, nơi mà tuổi thơ của chúng tôi bi bo – chập chững – xúm xít – bu quanh bên Nội. Ở đây chỉ còn trơ trụi nền nhà xây bao quanh bằng đá, có diện tích trên 300 mét vuông, có chiều cao trên 1 mét.

Họ Hoàng là Họ của Thím, Thím là vợ của Chú họ chúng tôi. Chú tham gia kháng chiến, tử trận trong trận quân lực Việt Nam Cộng Hòa tiến quân càn quét vào sâu chiến khu.

Họ Nguyễn, là Họ của một gia tộc đứng hàng thứ tư trong làng.

Ba của chúng tôi: Phan Ơn, năm sinh1924, thuở thành niên đị học ngoài Huế, (lúc bấy giờ, trong làng chỉ có 2 người có đủ điều kiện ra Huế học: 1 là Ba của chúng tôi, còn 1 là anh họ (đồng tuổi ba tôi), con ông Bác. Sau này anh thoát ly ra chiến khu, sau 1975 về làm Bí thư huyện ủy). Sau 4 năm lấy bằng Thành chung (Cao đẳng Tiểu học – Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène), Ba về lại quê nhà. Ba tôi vừa là Hiệu trưởng, vừa là giáo viên đứng lớp. Thờì bấy giờ giáo viên không nhiều (trong thời gian này, Ba của chúng tôi được kết nạp vào Đảng CS). Tôi còn nhớ có năm tôi học cùng lớp do Ba tôi dạy. Các bạn trong trường đều nể nang – nhường nhịn tôi, bởi vì tôi là con của thầy giáo – của hiệu trưởng.

Tôi nhớ như in lời Ba dặn dò với Mẹ trước giờ phút lâm chung:

– “Phải cho các con ăn học đến nơi đến chốn, nếu cần bán hết bày bò, hết ruộng đất để cho các con thành danh – nên người thì cũng nên bán”.

Nhớ lời Ba dạy, chúng tôi luôn luôn nỗ lực học tập – tích cực làm việc – để nên người – để xứng đáng là con của Ba.

Vào những tháng gần Tết, gió từ biển đông thổi về, đây là lúc làng chúng tôi tổ chức thi thả diều. Bãi cát trắng phau là điểm thi, có những cánh diều to tướng đủ mọi hình dáng, nhiều mầu sắc sặc sỡ, bay lượn làm rợp mát cả bầu trời, mang theo nhiều tiếng sáo vi vu cao vút làm xao động cả tầng không. Ba cũng làm cho tôi một con diều xinh xắn để bay lượn – reo hò cùng chúng ban. Những con diều nhỏ thì tà tà bay thấp hơn là diều của chúng tôi.

Nhớ về Ba là nhớ về một thời chiến tranh ý thức hệ dữ dội ác liệt – nồi da xáo thịt, một thời đất nước chia cắt hai bờ vĩ tuyến. Bị các thế lực ngoại lai thao túng, cùng dòng máu đỏ – da vàng mà cha con, anh em xem nhau như kẻ thù.

Cuộc chiến đã làm tổn thất từ 2-4 triệu người chết (tính cả binh sĩ và thường dân), chưa nói đến số lượng tổn thất các nước ngoại quốc tham chiến.

Tham khảo từ nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95n_th%E1%BA%A5t_nh%C3%A2n_m%E1%BA%A1ng_trong_Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam

Sau 1950, Chú tôi: Phan Châu, là một bộ đội Việt minh, được lệnh tập kết ra Bắc. Năm 1964 hồi kết, làm Tiểu Đoàn Trưởng, xua quân vào Nam. Hầu như cả ông và đoàn quân đều tử trận phơi thây tại Đồng Xoài.

Ba tôi là một cán bộ cách mạng. Trước 1950 phụ trách Đoàn Thanh Niên CSHCM, sau làm Bí thư Liên Khu. Sau 1950 được cài cắm lại miền Nam hoạt động bí mật, làm kinh tài gây quỹ cho mật khu. Tôi còn nhớ, có những lần vào đêm – khuya lơ khuya lắc, mấy chú – mấy bác từ trong rừng về rất đông, ngồi kín cả căn phòng khách, Ba bảo tôi ra đầu ngõ cảnh giới.

Ba tôi còn là một cầu thủ bóng đá, sau một trận giao tranh sôi nổi, ba bị đối phướng đá trái banh hạng nặng, vì rất gần, bất ngờ rơi trúng vào ngực, bật ngửa giữa sân cỏ. Sau thời gian dài chữa trị, ba mất sức từ đó. Nhưng ba không quên nỗi đam mê, những lần theo đoàn cổ vũ đấu giao hữu với các đội bạn ở các địa phương khác, ba thường dẫn tôi đi theo. Ba thì mãi mê với những trận đấu bóng đầy hào hứng, còn tôi thì la cà bên những dãy hàng quán, hay những thùng kem bán dạo quanh sân bóng ./-




HÀNH TRÌNH VÀO ĐỜI

HÀNH TRÌNH VÀO ĐỜI

Sau khi qua đại học – tốt nghiệp Đại học Văn khoa Đà Lạt năm 1972. Trước khi bắt tay vào nghề – lập nghiệp. Thực hiện mơ ước ấp ủ từ lâu, với chiếc Honda 50cc, chúng tôi gói gém hành trang, không quên mang theo bộ đồng phục GĐPT, độc hành vân du ra miền Trung, nơi nào có thắng tích – thắng cảnh thì dừng chân thăm thú, nơi nào có bạn bè một thời đi học, thì tìm đến thăm viếng hàn huyên tâm sự. Vào những ngày chủ nhật, thì ghé lại chùa, với bộ đồng phục trên mình chúng tôi hòa hợp – hoan hỷ tham gia sinh hoạt GĐPT cùng bè bạn tình lam.

Trên hành trình, vào đêm, hầu hết đều tìm đến Chùa nương náu qua đêm. Nhờ duyên kỳ ngộ – chúng tôi diện kiến đảnh lễ các bậc chân sự, được Chư Tôn thạc đức khai thị, thẩm thấu nguồn triết lý chân đế tuyệt bích, thức ngộ cuộc sống, làm hành trang tư lương vào đời, góp phần hy hiến – nhiệt thành phụng sự tổ chức – đạo pháp – dân tộc.

Có những chuyến vui nhất là đặt chân đến, từ Quảng Trị đổ ra, ngôn ngữ vùng miền mới lạ làm khó nghe – khó hiểu, phải nhờ đến bạn bè địa phương thông ngôn. Ra đến Do Linh, chúng tôi vượt lên dốc núi cao dựng đứng vào làng Cùa bạt ngàn cây mít. Đến tận Khe Sanh vùng phi quân sự, đồn quân dẫy đầy chằng chịt.

Rời miền Trung, chúng tôi vượt lên Tây Nguyên đồi núi chập chùng – những sáng sớm tinh sương mây giăng đầu núi trắng xóa. Trên đường hướng về Gia Nghĩa, bắt gặp một đàn voi (ước chừng trên 20 con) đang qua đường, chúng tôi dừng xe chờ đợi. Ngỡ rằng từ Gia Nghĩa sẽ về được Sài Gòn, nhưng đoạn đường này do Việt cộng chiếm đóng. Bạn bè và quý anh chị Huynh trưởng địa phương khuyên tôi nên quay trở lại.

Chúng tôi ngược về Quy Nhơn, ở đây có nhiều bạn bè, các bạn rủ tôi ở lại. Tôi vào dạy 1 trường trung học, tuổi đời còn rất trẻ (đâu như 23-24 tuổi), học sinh thì 17-18 xắp xỉ gần bằng tuổi nhau, chúng xem mình như bè bạn. Vào những chiều tan học, bọn chúng, trai – gái tập trung lại khu nhà nghỉ của giáo sự, tổ chức hát cho nhau nghe, có nhiều bạn – có giọng hát hay, những bài hát Bolero truyền cảm – làm gợi nhớ quê hương da diết. Thì thoảng nhằm ngày chủ nhật, rủ nhau lên Quang Trung – vào những khu vườn sắn, có những trái sắn dịu ngọt – mát rượi, hay ra biển – hòa mình vào dòng nước trong xanh – ngụp lặn chập chùng theo từng làn sóng, hoặc lên đồi Hàn Mặc Tử – trầm ngâm thả lòng theo từng dòng thơ suy tưởng…

“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
“Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
“Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
“Anh lại đây tôi thối chữ thơ.”
– Trăng vàng trăng ngọc – Hương thơm – Hàn Mặc Tử –




CÔ BÉ BÊN CỬA SỔ

CÔ BÉ BÊN CỬA SỔ
Nhớ thuở nào 30/4

Kể từ khi về đây, hôm nào cũng vậy, vừa bước ra sân, là tôi đã thấy em ngồi bên song cửa sổ nhìn sang. Chúng tôi bỡ ngỡ nhìn nhau. Không biết thời gian trôi qua và đã bao lần như vậy. Tôi lân la đến bên cửa sổ làm quen. Chúng tôi thân nhau từ đó. Có một lần tôi hỏi.

– Tại sao em không ra ngoài chơi ?

Em cúi đầu ngấn lệ. Tôi nhìn qua song cửa – bàng hoàng. Phía dưới cặp đùi của em, là một khoảng không trống lổng. Em không có đôi chân! Tôi bùi ngùi hỏi. Em cho biết.

Trước đây, em cũng có đôi chân tung tăng như chim sáo. Một lần trên đường đi học về, mãi mê đuổi theo đàn bướm, em lạc bước vào vùng phi quân sự. Một tiếng nổ kinh hồn, từ lòng đất bật tung lên. Đến khi tỉnh lại, cảm giác đầu tiên của em, là nỗi đau đớn tột cùng. Em cảm thấy hụt hẫng – trống vắng, như thiếu thốn một cái gì đó ở phía bên dưới. Thế là em mất đi đôi chân từ đó.

Rồi tôi tốt nghiệp, vào sư phạm. Trong thời gian này, tôi nhận được thư của em đều đặn. Bẵng đi một thời gian, tôi vắng bặt tín hiệu hồi âm. Ngày tôi về, thì được biết gia đình em tan tác. Sau trận pháo kích ào ạt của phía ngoài kia, ngôi nhà của em đã bị thiêu hủy hoàn toàn, bao người thân yêu mất cả, chỉ còn trơ trụi mình em, giữa cõi đời mù mịt. Trên chiếc xe lăn, em lăn lóc khắp các ngã phố, bán từng tấm vé số, đổi lấy miếng ăn qua ngày. Tôi đạp xe, hộc tốc tìm em, đưa em về, xin cha mẹ cho em được nương náu. Khi nhận được quyết định đi dạy ở một trường trung học ngoài tỉnh, tôi từ giã em, em nghẹn ngào tiễn tôi trong đáy mắt đẫm lệ.

Tôi cứ ngỡ rằng, em sẽ được an ủi – ấm êm trong vòng tay chở che của gia đình tôi. Nhưng luật đời khắc nghiệt, không dung thứ người bất hạnh, “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”. Trong đợt tiến công của người chiến thắng, đã xua đuổi biết bao người dân vô tội xa rời tổ ấm, tan tác lìa đàn, mỗi người mỗi hướng. Vật vã trên chiếc xe lăn, em cũng di tản theo đoàn người hỗn loạn. Đoàn người càng hỗn loạn hơn khi có những tiếng nổ kinh hồn, nổ ra từ bên này – bên kia – phía trước – phía sau, do những nồng pháo ác nghiệt, khạt ra từ trong rừng bắn đuổi theo.Em đã chết trong dòng thác hỗn loạn, trong lúc tuổi của em vừa tròn đôi mươi.

Đó là tội ác của chiến tranh. Dù anh có hoênh hoang nhân danh cho một chủ nghĩa rổng toếch, dù có núp bóng dưới một chiêu bài mĩ miều không tưởng, cũng không che dấu được dã tâm cuồng vọng. Dù anh là bên này hay bên kia, anh là kẻ chiến thắng hay người chiến bại, thì anh cũng là một gã đồ tể sắc máu, một kẻ sát nhân vô hồn, thiếu lương tri, không có tấm lòng nhân ái.

Thế mà có tôn giáo, họ lừa bịp tín đồ cuồng tín, xử dụng vũ khí giết người, mở ra các cuộc thánh chiến, giành giật tín đồ, rồi cho rằng vâng theo ý thánh, mở cửa thiên đàng.

Trên thế giới, có nhiều quốc gia ngông cuồng, tham vọng bá chủ, chế tạo ra hàng loạt vũ khí giết người, rồi tự lừa dối, là vì mục đích hòa bình.

Chiến tranh đã tạo ra biết bao thảm cảnh tang thương, vợ xa chồng, mẹ xa con, anh em trơ tráo ngoảnh mặt với nhau, làng mạc điêu tàn, cửa nhà tan tác, tình người phân ly.

Ai bảo rằng, chiến tranh sẽ đem lại hòa bình ? Thế tại sao, sau khi chiến tranh chấm dứt, cái mà người ta gọi là hòa bình – độc lập – tự do – dân chủ rổng toếch, thì từ mỗi cộng đồng… trong mỗi căn nhà tăm tối, còn có những nỗi ai oán thở dài, những tiếng khóc đắng cay, âm thầm rưng rức, không thốt nên lời, giữa đêm trường khuya khoắt !…




VỀ LẠI CỐ HƯƠNG

VỀ LẠI CỐ HƯƠNG

Tháng bảy – mùa Thu, mùa có từng đợt mưa phùn – mang theo những ngọn gió heo may – thổi bay những chiếc lá vàng rơi rơi phơi đầy sân cỏ. Tháng bảy – mùa Thu làm cho người ta hoài tưởng – ngậm ngùi nhớ về quê hương – nhớ nhiều về công đức sinh thành – dưỡng dục. Dù cho ai đó tha hương biệt xứ tận cuối chân mây. Hoài niệm – canh cánh hướng về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có dòng sông lặng lờ – êm đềm bên lũy tre già – mãi miết chảy dài theo năm tháng, nơi có mái ấm thân yêu – nơi có người mẹ… Mẹ tôi có tên Trương Thị Tuất, pháp danh Bích Ngọc, sinh năm 1923. Mỗi lần về quê Ngoại, tôi nghe những người lớn tuổi nói lại, mẹ chúng tôi, thuở thiếu thời là hoa khôi trong làng. Sau khi ba tôi mất, mẹ thân cò tần tảo mua bán sớm hôm, chăm chút nuôi đàn con thơ dại. Mẹ bây giờ lưng còng – má tóp – tóc trắng giăng mây, cặm cụi bên bếp lửa hồng – cho sợi khói vươn cao vào mỗi buổi lam chiều. Bên bụi chuối sau hè – có chum nước rửa chân – để được sạch bụi đường xa bao nỗi nhọc nhằn vất vã mưu sinh.

“Ngày xưa môi mẹ thắm hồng
“Tóc còn xanh mướt ấm lòng trẻ thơ
“Bây giờ tóc mẹ bạc phơ
“Trán thêm nhăn nhúm con khờ lớn khôn”

Sau 1975, trên đoàn tàu tốc hành vào Nam, chúng tôi trở về lại quê nhà, gặp lại người bạn học thuở thiếu thời, cô có tên là Lê Thị Luông, pháp danh Nguyên Trầm, chúng tôi đều có cùng năm sinh (1950). Rời tuổi học trò, cô mở một tiệm may – là một thợ may chuyên nghiệp, có nhiều học trò theo học lành nghề. Cô xinh xắn – hiền thục – nền nếp, có mái tóc dài đen tuyền xỏa gần chấm gót chân, làm say đắm biết bao chàng trai làng, nhiều sĩ quan trẻ thời bấy giờ đeo đuổi trồng cây si. Năm 1977 chúng tôi kết duyên cùng nhau, lúc bấy giờ chúng tôi cùng chung 27 tuổi. Theo năm tháng thời gian cô hạ sinh được 3 người con, 2 trai – 1 gái:

– Người con đầu lòng: Phan Lê Nam Văn Thiên Chương, pháp danh Nguyên Minh, sinh năm 1979, Huynh trưởng cấp Tín GĐPTVN.

– Người con thứ 2: Phan Lê Nam Văn Thư Vương, pháp danh Nguyên Vũ, sinh năm 1980, Huynh trưởng cấp Tập GĐPTVN.

– Người con gái thứ ba: Phan Lê Nữ Thụy Nhã Thi, pháp danh Nguyên Thơ, sinh năm 1983, Đoàn sinh GĐPT, nghĩ sinh hoạt GĐPT phụ giúp mẹ buôn bán.

Sau khi kết hôn, vợ chúng tôi mở tiệm mua bán tạp hóa tại nhà. Nhờ bàn tay đảm đang mà các Phật sự – tham gia cùng Thầy Thiện Tâm, thường xuyên – bôn ba đi khắp các xã – các huyện thị trong tỉnh vận động Chư Tôn Đức Tăng Ni – Phật tử tái sinh hoạt Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận. Và công tác sinh hoạt GĐPT, đều nhờ cô ân cần quan tâm – sẵn lòng rộng rãi tài trợ – chu toàn cho những chuyến đi xa.
Thầy Tịnh Thông thường ca ngợi: “Anh Nguyên Hoàng (pháp danh của tôi), đang lập hạnh Bồ tát, dấn thân làm công tác giáo dục GĐPT. Còn chị là một Bồ tát hạnh tại gia, nhiệt thành hộ trì Tam bảo – hy sinh hộ trì cho anh, nhờ chị mà anh hoàn thành phật sự”

Nền kinh tế đất nước lúc bấy gờ tụt hậu, đời sống dân sinh lầm than khốn khó cùng cực. Từ một giáo sư, chúng tôi tham gia hợp tác xã, tập tành cày – bừa ruộng, cấy lúa, gặt lúa, đập lúa để có điểm đổi thành chén cơm – manh áo (nghe bạn bè nói lại, còn có những giáo sư – tiến sĩ muốn tự do, phải lên rừng đốt than kiếm sống qua ngày, nhà tù cải tạo chật ních – phân biệt đối xử – khảo tra khốc liệt).

Từ một đời sống sung túc – đầy đủ tiện nghi, ra đường mỗi tấc đất là có xe đưa xe đón, ăn thì gạo trắng nước trong. Bây gờ thì ép lòng ăn cơm độn khoai – độn sắn – độn bo bo, tắm giặt thì bằng nước ngâm tro củi, muốn sang chảnh thì uống bia được chế biến từ nước tiểu, muốn xin việc – học tập thì phải nhẩn nhục câm nín chịu đựng chế độ xin cho – đối xử tệ bạc khắc nghiệt bằng lý lịch. Mua hàng hóa bằng tem phiếu với những món hàng bất như ý. Di chuyển đi đây đi đó – đi công tác – kiểm tra, phải có giấy ưu tiên, đi trên những chuyến xe đò chạy bằng than củi cọc cạch – ì ạch – mệt mỏi ròng rã suốt cả buổi – cả ngày trời mới đến nơi đến chốn ./-




THẢM CẢNH XÃ HỘI

Thảm Cảnh Xă Hội

Sau 1975, Nền kinh tế đất nước tụt hậu, đời sống dân sinh lầm than khốn khó cùng cực. Từ một giáo sư, chúng tôi tham gia hợp tác xã, tập tành cày ruộng, cấy lúa, gặt lúa, đập lúa để có điểm đổi thành chén cơm – manh áo (nghe bạn bè nói lại, còn có những giáo sư – tiến sĩ muốn tự do, phải lên rừng đốt than kiếm sống qua ngày, nhà tù cải tạo chật ních – phân biệt đối xử – tra tấn khốc liệt).

Từ một đời sống sung túc – đầy đủ tiện nghi, ra đường mỗi tấc đất có xe đưa xe đón, ăn thì gạo trắng nước trong. Bây gờ thì ép lòng ăn cơm độn khoai – độn sắn – độn bo bo, tắm giặt thì bằng nước ngâm tro củi, muốn sang chảnh thì uống bia được chế biến từ nước tiểu, muốn xin việc – học tập thì phải nhẩn nhục câm nín chịu đựng chế độ xin cho – đối xử tệ bạc khắc nghiệt bằng lý lịch. Mua hàng hóa bằng tem phiếu với những món hàng bất như ý. Di chuyển đi đây đi đó, đi công tác – kiểm tra, phải có giấy ưu tiên, đi trên những chuyến xe đò chạy bằng than củi cọc cạch – ì ạch – mệt mỏi ròng rã suốt cả buổi – cả ngày trời mới đến nơi đến chốn.

Hợp tác xã được hình thành, mọi công cụ sản xuất đều phải tập trung. Mặc dù mẹ chúng tôi phản đối kịch kiệt, họ vẫn tự động vào vườn khiêng máy bơm nước và dắt đi cặp bò cày. Mẹ tôi xuống Ủy ban lớn tiếng chưởi bới thậm tệ:

  • “Bọn bay là bọn cướp ngày, bọn ăn cháo đái bát”.

Rồi Bà te te – ngang nhiên đến dắt lại cặp bò và nhờ người khiên cái máy bơm nước về lại vườn nhà.
Bà chưởi câu ấy, bởi vì trước 1975, gia đình chúng tôi có mở một đại lý mua bán gạo, những chuyến hàng từ Sài Gòn về là 2 chiếc xe Ba lua (Poids lourd – loại xe tải hạng nặng lúc bấy giờ), 1 xe đưa gạo về nhà – và 1 xe thì đầy gạo – trong đó còn có cất giấu thuốc Tây, chạy thẳng vào rừng tiếp tế nuôi cách mạng, mỗi lần trong rừng nhận hàng chỉ ghi lại 1 cái phiếu. Đến khi đoàn quân từ trong rừng về (giải phóng), thì gia đình chúng tôi cũng cung cấp hàng chục tạ gạo để nuôi quân.

Có lần Ông Chủ tịch đến thăm nhà chúng tôi, bởi vì trước đây, trong chiến khu, Ông là học trò của Ba tôi. Thấy mâm cơm chúng tôi có thịt cá – cơm trắng không độn khoai. Ông nói:

  • Ăn tiệc sang nhỉ, tiểu tư sản có khác !

Bởi vì chúng tôi không quen ăn độn, mỗi lần ăn cơm độn khoai là cổ họng chúng tôi nóng bỏng. Hơn nữa gạo trong kho còn lại cũng khá nhiều.

Tôi có một ông anh họ, tôi gọi ông bằng anh, nhưng tuổi của ông gần bằng tuổi Ba tôi. Sau 1975, từ trong rừng về, ông được phân công làm Bí thư ở một huyện xa. Khi Bác tôi mất, ông có về, nhưng không chịu thọ tang, những người trong gia tộc trách cứ, ông trả lời:

  • Trên đầu tôi chỉ có Bác Hồ ! Ai nấy đều nghẹn lời !

Có lần Cô tôi mời ông lên ăn giỗ (Cô tôi cũng là Cô của ông). Vào dịp giỗ Dượng (chồng của Cô. Dượng cũng là chiến sĩ cách mạng tử trận). Ông nói trước mặt gia tộc:

  • Người chết là mất, chết rồi còn ăn uống được gì, mê tín – bày đặt cúng kiến linh đình, chỉ có ruồi bu kiến đậu.

Cô tôi giận quá, hốt hết tất cả cơm canh bánh trái trên bàn thờ, đổ vào xoong – vào thúng – vào giỏ, gọi xe Lam chở xuống huyện, đổ hết trước cửa huyện ủy.

Tôi có một người Bác họ, sau khi miền Nam thống nhất, ông hồi kết về lại quê nhà, nhưng ông không về thẳng nhà vợ con, mà ông vào ủy ban xã, ăn ở tại đây. Nhiều người thân trong địa phương đến thăm, hỏi ông:

  • Sao không về nhà, về với vợ – con ? Ông nói:
  • Bà ấy theo Mỹ theo ngụy, cho nên mới có được nhà to cửa lớn. Bởi vì theo Mỹ – ngụy cho nên con cái mới được vào đại học, làm việc cho Mỹ cho ngụy.

Ông đâu có biết rằng, vợ ông đã cực khổ quanh năm, thân cò lặn lội nuôi con mới có được ngày hôm nay. Sau thời gian được nhiều người khuyên giải, ông sượng sùng về nhà. Vợ ông thủ thỉ nhờ ông bảo lãnh cho đứa con trai lớn đang cải tạo được về nhà. Ông nói:

  • Thằng đó phản cách mạng, theo Mỹ – theo ngụy quân – ngụy quyền chống phá cách mạng, phải để cho nó ở tù mọt gông

Những đồ đạc – dụng cụ – đồ dùng bày biện trong nhà, ông cho là đồ của Mỹ – của ngụy, nên ông hồng hộc đem bỏ hết ra ngoài vườn, bộ ghế Salon ông mang ra bỏ bên gốc xoài. Vậy mà mấy tháng sau, ông len lén hì hục mang vào lại phòng khách ./-